Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đơn có đề
cập đến tỉ lệ có thai gần đây nhất của Pourghasem
và cộng sự (2019) thực hiện trên 150 bệnh nhân vô
sinh có mắc HCBTĐN đánh giá hiệu quả của Inositol
và Metformin lên các bệnh nhân HCBTĐN đề kháng
với Letrozole [35]. Tất cả các bệnh nhân này được
kê đơn 7,5 mg Letrozole mỗi ngày trong 5 ngày từ
ngày 3 chu kỳ kinh nguyệt. Các bệnh nhân không
có phóng noãn sẽ được chia làm 3 nhóm: nhóm
1 (nhóm chứng) được sử dụng 200 µcg acid folic
(nhóm chứng), nhóm 2 sử dụng 1500 mg Metformin
hàng ngày kết hợp với 200 µcg acid folic, và nhóm 3
sử dụng Inositol 2g/ngày kết hợp với 200 µcg acid
folic trong vòng 3 tháng. Vào chu kỳ cuối của điều
trị, 7,5 mg Letrozole được kê để kích thích phóng
noãn. Kết cục chính gồm cải thiện chức năng buồng
trứng và có thai. Kết quả của nghiên cứu cho thấy
bổ sung Inositol và Metformin trong điều trị bệnh
nhân vô sinh mắc HCBTĐN đề kháng với Letrozole
cải thiện chức năng buồng trứng, nhưng không có ý
nghĩa thống kê. Điều đáng chú ý là trong nghiên cứu
này, Inositol dường như có hiện quả hơn Metformin
ở những bệnh nhân có BMI bình thường. Liên quan
đến tỉ lệ có thai, nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ có thai
thấp hơn ở nhóm Letrozole + acid folic + inositol hơn
những nhóm khác, tuy nhiên sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê.
Duy nhất một nghiên cứu phân tích gộp thực
hiện bởi Facchinetti và cộng sự, xuất bản năm 2019,
nghiên cứu hiệu quả ngắn hạn giữa Metformin và
Inositol trên phụ nữ có HCBTĐN [36]. Trong phân tích
gộp này có 6 thử nghiệm lâm sàng với 355 bệnh nhân
được đưa vào phân tích, kết luận vào cuối thời điểm
điều trị, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
nào giữa Metformin và Inositol khi so sánh về nồng
độ Insulin máu, chỉ số HOMA, Testosterone, nồng độ
SHBG, và chỉ số khối cơ thể. Tuy nhiên, có bằng chứng
có đủ độ mạnh về gia tăng các tác dụng phụ khi sử
dụng Metformin so sánh với nhóm bệnh nhân dùng
Inositol. Đây là nghiên cứu phân tích gộp đầu tiên
so sánh hiệu quả giữa Metformin và Inositol lên sự
thay đổi nội tiết của HCBTĐN, các đối tượng nghiên
cứu từ các chúng tộc khác nhau cho phép các phát
hiện trong phân tích gộp này có khả năng chuyển
giao rộng rãi. Đồng thời chỉ có các thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên mới được đưa vào phân tích nhằm
tối thiểu các sai lệch. Tuy nhiên điểm yếu của nghiên
cứu là không có một thử nghiệm lâm sàng mù đôi
nào được đưa vào phân tích gộp, các kết cục đầu
ra không phải luôn được báo cáo trong tất cả các
nghiên cứu, các kết quả lựa chọn phân tích đôi khi
không phải là kết cục chính của một vài nghiên cứu.
Liều và thời gian sử dụng các chế phẩm Metformin và
Inositol cũng không đồng nhất giữa các nghiên cứu.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Cập nhật y học bằng chứng về hiệu quả của metformin và inositol trong điều trị hội chứng buồng trứng đa nang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
195
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Địa chỉ liên hệ: Lê Viết Nguyên Sa, email: drlevietnguyensa@gmail.com 
Ngày nhận bài: 17/10/2019; Ngày đồng ý đăng: 22/11/2019.; Ngày xuất bản: 28/12/2019
Cập nhật y học bằng chứng về hiệu quả của metformin và inositol 
trong điều trị hội chứng buồng trứng đa nang
 Lê Viết Nguyên Sa1,2, Lê Minh Tâm3, Cao Ngọc Thành3
(1) Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế; 
(2) Khoa Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Trung ương Huế
(3) Trung tâm Nội tiết sinh sản và Vô sinh Huecrei, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt 
Hội chứng buồng trứng đa nang (HCBTĐN) là rối loạn nội tiết thường gặp nhất ở các phụ nữ trong độ tuổi 
sinh sản. Vì đề kháng Insulin và cường Androgen được xem là chìa khóa trong cơ chế bệnh sinh của hội chứng 
này, các chất tăng nhạy cảm với Insuline, bao gồm Metformin và Inositol, được sử dụng càng ngày càng rộng 
rãi. Mục đích của nghiên cứu tổng hợp này là phân tích các bằng chứng hiện có về hiệu quả của các liệu pháp 
trên trong việc quản lý HCBTĐN.
Từ khoá: hội chứng buồng trứng đa nang,insulin, androgen
Summary 
An updated evidence-based review on Metformin and Inositol 
treatment in women with Polycystic Ovary Syndrome
Le Viet Nguyen Sa1,2, Le Minh Tam3, Cao Ngoc Thanh3
(1) PhD Student of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University; 
(2) Department of Reproductive Support, Hue Central Hospital
(3) Center of Reproductive Endocrine and Infertility Huecrei, Hue University of Medicine and Pharmacy Hospital
Polycystic Ovary Syndrome (PCOS) is the most common endocrine disorder among women of reproductive age. 
Since Insulin resistance and hyperandrogenism appear to be a key mechanism in the pathogenesis of this syndrome, 
Insulin-sensitizers, including Metformin and Inositol, have been used widely in women with PCOS. The aim of this 
review is to examine the existing evidence for the effectiveness of these therapies in the management of PCOS. 
Keywords: Polycystic Ovary Syndrome (PCOS), Insulin, hyperandrogenism
DOI: 10.34071/jmp.2019.6_7.29
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Buồng trứng đa nang (Polycystic ovary syndrome 
– PCOS) là một trong những rối loạn nội tiết phổ biến 
nhất ở phụ nữ độ tuổi sinh sản, chiếm từ 6-15% theo 
tiêu chuẩn chẩn đoán của NIH và lên đến 21% theo 
tiêu chuẩn chẩn đoán Rotterdam [1], [2]. Bệnh nhân 
PCOS tăng nguy cơ kinh thưa hoặc vòng kinh không 
phóng noãn, rậm lông, đa nang buồng trứng, vô sinh 
và những rối loạn trong thai kỳ [1],[3],[4]. Phụ nữ 
PCOS tăng tỉ lệ rối loạn chuyển hoá như béo phì với 
béo bụng trung tâm, cường insulin, đề kháng insulin, 
rối loạn dung nạp đường và rối loạn lipid máu một 
cách rõ rệt [5],[6] dẫn đến nguy cơ cao đái tháo đường 
type II (type 2 diabetes – T2D), đái tháo đường thai 
kỳ, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (non-alcoholic 
fatty liver disease – NAFLD) và bệnh tim mạch.
Bởi vì có sự liên quan giữa cơ chế sinh bệnh học 
giữa đề kháng Insulin và hội chứng buồng trứng 
đa nang, các chất tăng nhạy cảm Insulin đã được 
sử dụng để làm giảm các triệu chứng lâm sàng và 
các dấu hiện chuyển hóa ở trên. Metformin- một 
biguanide- là chất tăng nhạy cảm Insulin chọn lọc ở 
gan, thường được sử dụng nhất. Metformin được 
sử dụng hơn 50 năm qua để điều trị đái tháo đường 
type 2 ở nhiều quốc gia, đồng thời cũng là thuốc sử 
dụng ngoài nhãn ở những phụ nữ PCOS không đái 
đường [7]. Các bằng chứng sẵn có chứng minh rằng 
Metformin mang lại các lợi ích về giảm cân nặng, 
giảm lipid máu và điều hòa chức năng nội mạc [8]. 
Metformin cũng được cho là cải thiện chức năng 
buồng trứng ở những phụ nữ đề kháng Insuline. 
Bên cạnh đó, hiệu quả của Metformin trong việc làm 
giảm nồng độ Androgen và cải thiện phóng noãn 
cũng như phục hồi sự đều đặn và bình thường của 
các chu kỳ kinh nguyệt cũng đã được báo cáo [9]. 
Mặc dù Metformin không làm giảm đường máu hay 
cường Insuline máu, việc sử dụng Metformin bị giới 
hạn bởi các tác dụng phụ thường gặp như là buồn 
nôn, nôn mửa, rối loạn tiêu hóa [10]. Do nhiều bệnh 
nhân ít tuân thủ điều trị vì các tác dụng phụ này, 
các nhà lâm sàng trên thế giới nỗ lực tìm kiếm các 
phương pháp tiếp cận khác để điều trị HCBTĐN.
Myo- và D-chiro- Inositol là các hợp chất tự nhiên 
có tác dụng nhạy cảm với Insulin đã được nghiên 
196
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
cứu trong hơn hai thập kỷ qua, có vai trò trong việc 
bắt giữ glucose và sự sinh noãn. Trong quá trình 
bắt giữ glucose, MI và DCI kết hợp lại thành inositol 
phosphoglycan đóng vai trò là tín hiệu thứ hai của 
Insulin. Sự thiếu hụt Inositol có thể làm giảm hoạt 
động của Phosphatidylinositol-3 (PI3) kinase từ đó 
dẫn tới sự kém bắt giữ glycose máu [11]. Tại buồng 
trứng, Myo-Inositol điều hòa chuyển hóa Calci ảnh 
hưởng đến sự hoạt hóa và sự hoàn tất giảm phân, 
giải phóng các hạt vỏ noãn và ức chế sự đa thụ tinh. 
Myo-Inositol được chuyển thành DCI bởi enzyme 
epimerase phụ thuộc vào sự cân bằng chuyển hóa. Ở 
các bệnh nhân đề kháng Insulin, hoạt động của men 
epimerase bị sụt giảm kéo theo tỉ lệ MI/DCI giảm 
thấp. Tuy nhiên, trong các buồng trứng ở bệnh nhân 
HCBTĐN, tỉ lệ MI/DCI giảm khi hoạt động epimerase 
tăng [11]. Dựa vào các cơ chế trên, có thể tin rằng 
các bệnh nhân có đề kháng Insuline có thể có nhiều 
lợi ích từ việc sử dụng MI và DCI. Trong nhiều năm 
qua, nhiều nghiên cứu lâm sàng đã được thực hiện 
để đánh giá hiệu quả và độ an toàn của MI và DCI ở 
những bệnh nhân có HCBTĐN. 
Theo hiểu biết của chúng tôi, các dữ liệu về so 
sánh giữa MI và Metformin về cải thiện các rối loạn 
kinh nguyệt, bệnh cảnh lâm sàng, đường máu, hội 
chứng chuyển hóa, tỉ lệ có thai tự nhiên ở các bệnh 
nhân HCBTĐN còn rất hạn chế. Do đó, mục tiêu của 
tổng quan này là cập nhật y học bằng chứng về hiệu 
quả điều trị của MI và Metformin trên các bệnh 
nhân HCBTĐN.
2. CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA HCBTĐN
Cơ chế bệnh sinh của HCBTĐN hiện nay vẫn chưa 
được biết rõ, mặc dù có một vài yếu tố căn nguyên 
khác nhau được cho là có liên quan. Trong một thập 
kỷ qua, sự gia tăng các bằng chứng ủng hộ vai trò 
trung tâm của kháng Insuline và/hoặc tăng Insuline 
máu bù trừ trong cơ chế bệnh sinh của HCBTĐN 
[12]. Sự liên quan giữa HCBTĐN và cường Insulin 
máu được báo cáo vào những năm 1980 và sau đó 
được khẳng định lại qua nhiều nghiên cứu trên cả 
bệnh nhân HCBTĐN béo phì và không béo phì [13].
Thật vây, tăng Insuline máu thứ phát sau cường 
Insulin rất phổ biến ở các bệnh nhân HCBTĐN, xảy ra 
ở khoảng 80% các phụ nữ HCBTĐN có béo phì trung 
tâm, và ở 30-40% các phụ nữ HCBTĐN có thể trạng 
gầy [12]. Cơ chế tế bào của kháng Insuline ở bệnh 
nhân HCBTĐN đã được nghiên cứu trong các tế bào 
mỡ (mỗ đích của Insulin). Người ta quan sát thấy 
có sự khiếm khuyết về vận chuyển và chống ly giải 
tế bào mỡ ở bước đầu tiên của sự truyền tín hiệu 
Insulin tại các tế bào mỡ. Trong một tập hợp các phụ 
nữ HCBTĐN, có bằng chứng về sự phosphoryl hóa 
serine quá mức của các thụ thể insulin trong nguyên 
bào sợi và cơ xương. Phosphoryl hóa huyết thanh có 
thể ức chế tín hiệu thụ thể Insulin trong thực nghiệm 
và được kích hoạt bởi các yếu tố bên ngoài thụ thể 
Insulin. Vì vậy, một yếu tố phosphorin hóa serine giả 
định, như là serine-threonine kinsase, được cho là 
liên quan đến cơ chế sinh bệnh học của HCBTĐN. 
Phosphoryl hóa bất thường thụ thể Insulin cũng có 
thể phản ánh một sự khiếm khuyết về di truyền của 
nhóm phụ nữ HCBTĐN này [13]. 
Cường Insulin có thể dẫn đến cường Androgen 
thông qua một số các cơ chế đã được gợi ý. Các 
nghiên cứu in vitro cho thấy Insulin kích thích sự 
tổng hợp androgen và gia tăng sự sản xuất Androgen 
kích thích bởi LH từ tế bào vỏ buồng trứng ở những 
phụ nữ cường Androgen [13]. Insulin Kháng Insulin 
và tăng Insulin máu đóng góp cả trực tiếp và gián 
tiếp vào sự phát triển cường Androgen. Insulin kích 
thích trực tiếp vào các tế bào vỏ buồng trứng để 
sản xuất lượng androgen lớn hơn và ức chế sự tổng 
hợp SHBG từ gan, do đó gián tiếp làm gia tăng nồng 
độ Androgen tự do lưu hành . Hơn nữa, các tế bào 
vỏ buồng trứng ở bệnh nhân HCBTĐN có độ nhạy 
cao hơn với hoạt động của Insulin lên sự chế tiết 
Androgen [12], [13]. Đáng chú ý, tình trạng kháng 
Insulin quan sát thấy ở các bệnh nhân HCBTĐN có 
xu hướng phát triển thành ĐTĐ type 2, đặc biệt ở 
những bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc ĐTĐ, và ở 
những bệnh nhân béo phì[12]. Tầm quan trọng của 
đề kháng Insulin ở những bệnh nhân mắc HCBTĐN 
càng được nhấn mạnh bởi thực tế là, các hợp chất 
nhạy cảm với Insulin như là Metformin, Pioglitazone 
và Troglitazone đã được đề nghị sử dụng như một 
liệu pháp điều trị cho HCBTĐN có cường Insulin máu 
[12]. Hơn nữa, Metformin được chứng mình có thể 
làm giảm một vài các dấu hiệu cường androgen, 
bằng cách làm giảm nồng độ Testosterone toàn 
phần và tự do. Tuy nhiên, các loại thuốc gây nhạy 
cảm với Insulin thường được sử dụng thường gây ra 
các tác dụng phụ trên đường tiêu hóa, từ đó có khả 
năng làm giảm sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân 
nên không thể được sử dụng thường quy trong thực 
hành lâm sàng [12].
3. HIỆU QUẢ CỦA METFORMIN VÀ INOSITOL 
TRONG ĐIỀU TRỊ HCBTĐN 
3.1. Metformin trong điều trị PCOS 
Cơ chế tác động 
Lợi ích của việc sử dụng Metformin - một thuốc 
làm giảm insulin máu - trong hội chứng buồng trứng 
đa nang gia tăng kể từ khi phát hiện ra rằng đề kháng 
Insulin đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh 
sinh của rối loạn này trong hội chứng buồng trứng 
197
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
đa nang. Metformin là phác đồ điều trị đầu tay đối 
với bệnh nhân đái tháo đường type 2, và thường 
không được chấp nhận để điều trị tiền đái tháo 
đường hoặc PCOS, mặc dù Metformin thường được 
sử dụng để điều trị phối hợp các bệnh lý này [14].
Metformin hoạt động bằng cách cái thiện sự 
nhạy cảm của các mô ngoại vi với Insuline, từ đó làm 
giảm nồng độ insulin tuần hoàn. Metformin ức chế 
sự tân tổng hợp glucose tại gan và đồng thời gia tăng 
sự hấp thu glucose ở các mô ngoại vi và giảm sự oxy 
hóa các acid béo. Metforin cũng gây tác động có lợi 
lên nội mạc tử cung và mô mỡ. Các tác động này là 
độc lập với hoạt động của nó lên Insulin và nồng độ 
Glucose máu [15].
Cập nhật bằng chứng lâm sàng
Những thử nghiệm lâm sàng ban đầu trên phụ 
nữ có hội chứng buồng trứng đa nang đã chỉ ra một 
vài lợi ích nhỏ trên việc giảm cân nặng, giảm nồng 
độ androgen huyết thanh (nhưng không cải thiện 
chứng rậm lông), và cải thiện chu kỳ kinh nguyệt 
trên xấp xỉ 50% bệnh nhân có hội chứng buồng 
trứng đa nang có kinh thưa (mặc dù không phải lúc 
nào cũng có xảy ra phóng noãn), Các dữ liệu trước 
đó cũng gợi ý rằng Metformin có hiệu quả trên kích 
thích phóng noãn ở những bệnh nhân không phóng 
noãn có hội chứng buồng trứng đa nang. Kết quả là, 
Metformin được sử dụng “ngoài nhãn” cho một số 
chỉ định này[14].
Về mặt nguyên tắc, thuốc làm tăng nhạy cảm 
Insulin hoạt động trên hội chứng Buồng trứng đa 
nang bằng cách làm giảm nồng độ insluline tuần 
hoàn [16]. Tuy nhiên, cũng có một số bằng chứng 
trái ngược nhau về việc liệu Metformin có ảnh 
hưởng trực tiếp lên sự tổng hợp steroid buồng 
trứng hay không (Mansfield và cộng sự 2003, Arlt và 
cộng sự 2001)[17],[18]. Một vài tác động liên quan 
đến Metformin trên hội chứng buồng trứng đa nang 
đã được báo cáo, bao gồm cải thiện khả năng phóng 
noãn, giảm cân nặng, giảm nồng độ androgen lưu 
hành, giảm nguy cơ sẩy thai và giảm nguy cơ đái 
tháo đường thai nghén. Một số nghiên cứu khác báo 
cáo rằng việc bổ sung Metformin vào chế độ kích 
thích buồng trứng trong thụ tinh trong ống nghiệm 
làm gia tăng tỉ lệ có thai [15].
Một nghiên cứu phân tích tổng hợp gần đây nhất 
(2017) thực hiện trên 48 thử nghiệm lâm sàng liên 
quan đến thuốc tăng nhạy cảm với Insuline, trong 
đó có 42 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm 
chứng liên quan đến Metformin, 18 trong số đó 
bao gồm thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng gồm 
nhóm Metformin và nhóm không điều trị hoặc giả 
dược. Nghiên cứu này đã kết luận rằng Metformin 
có thể có lợi ích trong việc gia tăng tỉ lệ trẻ sinh ra 
sống so với không điều trị hoặc điều trị bằng giả 
dược trên nhóm bệnh nhân có HCBTĐN (19). Lợi ích 
của Metformin trong điều trị các vấn đề liên quan 
đến cân nặng, nội tiết, chuyển hóa đến nay đã đủ 
bằng chứng để các chuyên gia về hội chứng buồng 
trứng đa nang đưa Metformin vào khuyến cáo điều 
trị hội chứng này. Đầu năm 2018, 37 tổ chức của 
71 quốc gia về hội chứng buồng trứng đa nang hợp 
tác làm việc trong 15 tháng đã đưa ra bảng khuyến 
cáo lâm sàng dựa trên bằng chứng trong đánh giá 
và quản lý hội chứng buồng trứng đa nang. Các 
chuyên gia đã thống nhất khuyến cáo liên quan đến 
Metformin rằng Metformin kết hợp với thay đổi lối 
sống có thể được khuyến cáo trên nhóm đối tượng 
phụ nữ trưởng thành có hội chứng buồng trứng đa 
nang để điều trị vấn đề liên quan cân nặng, nội tiết, 
chuyển hóa (khuyến cáo có đủ bằng chứng) [20]. 
3.2. Inositol và hội chứng buồng trứng đa nang
Cơ chế tác động
Trong hai thập kỳ qua, một vài nghiên cứu đã báo 
cáo hiệu quả của Inositol, đặc biệt là hai dẫn xuất 
Myo-inositol (myo-Ins) và D-chiro-inositol (D-chiro-
ins) trong việc cải thiện các điều kiện bệnh học liên 
quan đến PCOS. Thật vậy, Myo-Ins và D-chiro-Ins) 
được chứng minh đóng nhiều vai trò khác nhau 
trong sinh lý học và điều trị của hội chứng buồng 
trứng đa nang. Trên buồng trứng, D-chiro-Ins ảnh 
hưởng đến sự tổng hợp androgen qua trung gian 
insulin, trong khi Myo-Ins điều chỉnh sự thu nhận 
glucose và tín hiệu FSH [12],[21]. Ở buồng trứng 
người, 99% lượng Inositol nội bào tạo nên bởi myo-
Ins và phần còn lại tạo nên bởi D-chiro-Ins. Sự mất 
cân bằng nồng độ Myo-Ins và D-chiro Ins ở buồng 
trứng, giống như sự thiếu hụt Myo-Ins, có thể làm 
suy giảm tín hiệu FSH, như trong trường hợp của 
hội chứng buồng trứng đa nang. D-chiros-Ins được 
tổng hợp từ Myo-Ins thông qua enzym epimerase, 
do đó được kích thích bởi Insulin. Hoạt động của 
epimerase là gia tăng tế bào vỏ, gây nên sự thiếu 
hụt Myo-Ins và điều này dường như là một yếu tố 
quan trọng trong sinh bệnh học của PCOS. Sự sụt 
giảm nồng độ Myo-Ins trong buồng trứng có thể ảnh 
hưởng xấu đến sự hấp thụ glucose và chuyển hóa 
của cả tế bào trứng và tế bào nang noãn[12], [22]. Vì 
những trứng đặc trưng bởi sự tiêu thụ Glucose cao 
có thể ảnh hưởng đến chất lượng trứng [22]. 
Cập nhật bằng chứng lâm sàng
Lợi ích của bổ sung Myo-Ins trong hội chứng 
buồng trứng đa nang đã được một vài nghiên cứu 
chứng minh. Bổ sung Myo-inositol phối hợp với acid 
folic 2 gam 2 lần một ngày trong 6 tháng ở những 
bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang cho 
thấy sự xuất hiện của hoạt động rụng trứng bình 
198
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
thường trên 72% trường hợp, với tỉ lệ đơn thai đạt 
40% trong suốt giai đoạn 6 tháng được quan sát 
[23]. Tương tự, các hiệu quả có lợi lên chức năng 
buồng trứng được ghi nhận bởi Artini và cộng sự. 
Trong các thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng 
trên 50 bệnh nhân hội chứng buồng trứng đa nang 
thừa cân, các bênh nhân này được chia làm 2 nhóm: 
nhóm A được cung cấp 2 g Myo với 200 mg acid folic 
mỗi ngày trong 12 tuần và nhóm B chỉ dược cung 
cấp bởi 200 mg acid folic mỗi ngày. Nhóm nghiên 
cứu đã nhận thấy các thông số hormon và chu kỳ 
kinh nguyệt ở nhóm bệnh nhân vô kinh và kinh thưa 
được cải thiện trong nhóm A, trong khi ở nhóm B 
không có sự thay đổi nào được ghi nhận, từ đó gợi ý 
vai trò của Myo trong cải thiện trục sinh sản ở những 
bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang[24]. 
Điều trị bằng myo-inositol cho thấy làm giảm 
nồng độ androgen, phục hồi chức năng rụng trứng, 
làm giảm huyết áp máu và giảm nồng độ triglycerid 
máu. Trong nghiên cứu của mình, Genazzani và cộng 
sự khẳng định laị các nghiên cứu trước đó rằng bổ 
sung myo-inositol cải thiện thông số nội tiết và độ 
nhạy cảm với insulin, nhiều hơn ở những phụ nữ có 
nồng độ insuline đói cao, được định nghĩa bởi nồng 
độ insulin đói lớn hơn 12 µU/mL [25].
Một nghiên cứu phân tích tổng hợp của Morley 
như đã đề cập ở trên ngoài các thử nghiệm lâm 
sàng liên quan đến Metformin còn phân tích 2 
thử nghiệm lâm sàng so sánh giữa D-chiro Ins so 
với giả dược hoặc không điều trị. Tác giả ghi nhận 
rằng Inositol có thể cải thiện tỉ lệ rụng trứng (OR 
3,57; 95% CI 1,72-7,45; 2 nghiên cứu, 327 phụ nữ, 
I2=81%). Tuy nhiên nghiên cứu phân tích gộp này chỉ 
bao gồm 2 nghiên cứu về Inositol và kết quả tương 
ứng cho thấy khoảng tin cậy CI rất rộng. Phân tích 
dưới nhóm và phân tích độ nhạy cũng không thực 
hiện được do không đủ số lượng nghiên cứu [19]. 
Pundir và cộng sự [26] thực hiện một nghiên cứu 
phân tích gộp khác về Inositol xuất bản năm 2017 
bao gồm 10 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên 
tổng cộng 601 bệnh nhân, 8 trong số đó so sánh 
hiệu quả của Myo-Inositol hoặc dichiro-Inositol với 
giả dược, 1 nghiên cứu so sánh myo-inositol phối 
hợp với di-chiroinositol với giả dược, và một nghiên 
cứu so sánh Myo-Inositol với Metformin. Inositol 
được cho là liên quan đến sự cải thiện phóng noãn 
(RR 2,3; 95%CI 1,1 - 4,7; I2 =75%), điều hòa chu kỳ 
kinh nguyệt (RR 6,8; 95% CI 2,8-6,6; I2=0%) khi so 
sánh với giả dược. Một nghiên cứu báo cáo tỉ lệ thai 
lâm sàng của Inositol so với giả dược (RR 3,3; 95% 
CI 0,4-27,1) và một nghiên cứu so sánh tỉ lệ thai lâm 
sàng với Metformin (RR 1,5 95% CI 0,7-3,1). Không 
có một nghiên cứu nào báo cáo về tỉ lệ trẻ sinh ra 
sống hay tỉ lệ sẩy thai trong kết cục nghiên cứu. Phân 
tích gộp này cũng ghi nhận sự tụt giảm có ý nghĩa 
thống kê nồng độ androgen, testosterone toàn phần, 
testosterone tự do và nồng độ DHEA huyết thanh 
so với giả dược. Các chỉ số về đường huyết cũng cải 
thiện khi sử dụng Inositol với giả dược. Giới hạn của 
phân tích gộp này là chỉ có duy nhất một nghiên cứu 
có dữ liệu phân tích về tỉ lệ có thai lâm sàng, không 
một nghiên cứu nào đánh giá về tỉ lệ trẻ sinh ra sống 
và tỉ lệ có thai, thiếu dữ liệu về các kết cục dài hạn. 
Liên quan đến sử dụng Inositol với IVF, sử dụng 
Inositol ít nhất 2 tháng trước các chu kỳ IVF cũng 
được chứng minh cải thiện chất lượng trứng, 
tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ phôi tốt ở các bệnh nhân 
có HCBTĐN [27],[28]. Nghiên cứu tổng hợp của 
Showell và cộng sự (2018) bao gồm 13 thử nghiệm 
lâm sàng liên quan đến 1472 phụ nữ hiếm muộn có 
HCBTĐN, trong đó có 11 thử nghiệm lâm sàng bao 
gồm các phụ nữ sử dụng Myo-Inositol điều trị trước 
TTTON [29]. Các nghiên cứu này so sánh Myo-Ins 
với giả dược, không điều trị, melatonin, Metformin, 
Clomiphene Citrate hoặc DCI. Các bằng chứng trong 
các nghiên cứu này ở mức độ thấp hoặc rất thấp. 
Các hạn chế chính của nghiên cứu tổng hợp này bao 
gồm nguy cơ cao của sai lệch do báo cáo kém về các 
phương pháp nghiên cứu, tính thiếu nhất quán và 
thiếu các báo cáo lâm sàng liên quan đến các kết 
cục đầu ra như là tỉ lệ trẻ sinh ra sống và các tác 
dụng phụ. Do mức độ bằng chứng của các nghiên 
cứu hiện có là rất thấp, nhóm tác giả không chắc 
chắn liệu Myo Inositol có cải thiệt tỉ lệ trẻ sinh ra 
sống hay tỉ lệ có thai lâm sàng cũng như tỉ lệ sẩy 
thai, tỉ lệ đa thai ở những bệnh nhân HCBTĐN điều 
trị Myo-Inositol ngắn hạn trước chu kỳ TTTON khi 
so sánh với các phương pháp điều trị chuẩn. Các 
tác giả cũng kết luận không có bằng chứng tổng hợp 
nào sẵn có sử dụng Myo-Inositol so sánh với giả 
dược, các chất chống oxy hóa khác, các chất tặng 
nhạy cảm với Insulin, các tác nhân kích thích phóng 
noãn hay các loại Inositol khác sử dụng cho phụ nữ 
HCBTĐN trước các chu kỳ TTTON. Tương tự, hiện 
không có các bằng chứng tổng hợp nào có sẵn về 
việc sử dụng Myo Inositol ở những phụ nữ HCBTĐN 
có chỉ định kích thích phóng noãn.
3.3. So sánh về hiệu quả điều trị HCBTĐN giữa 
Metformin và Inositol
Hiện nay trên y văn mới chỉ có một vài thử nghiệm 
lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng chủ yếu xuất bản 
trong ba năm trở lại đây và chỉ có duy nhất một phân 
tích gộp so sánh hiệu quả điều trị, tuy nhiên không hề 
so sánh về tỉ lệ có thai lâm sàng giữa Metformin và 
Inositol. Các nghiên cứu nếu có kích cỡ mẫu còn nhỏ 
và đối tượng nghiên cứu chưa đồng nhất, thời gian 
199
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
theo dõi còn ngắn. Bước đầu, các nghiên cứu này ghi 
nhận Inositol có hiệu quả ít nhất là tương đương với 
Metformin trong gây phóng noãn tự nhiên, cải thiện 
các triệu chứng của HCBTĐN, cải thiện chỉ số đường 
huyết, mỡ máu [30], cải thiện chỉ số sinh trắc học [31]
giảm nồng độ Testosterone huyết thanh, giảm chỉ số 
mFG [32] nhưng Inositol ít tác dụng phụ hơn nhiều so 
với Metformin [30].
Shorpour và cộng sự (2019) thực hiện một thử 
nghiệm lâm sàng so sánh hiệu quả của myo-inositol 
và Metformin lên kiểm soát đường máu, bilan 
lipid máu và biểu hiện gen liên quan đến Insulin và 
chuyển hóa lipid ở phụ nữ HCBTĐN, kết luận rằng 
nhìn chung, sử dụng Myo-Inositol trong vòng 12 
tuần, so với metformin có các tác động có lợi lên 
kiểm soát dường huyết, triglycerides và nồng độ 
VLDL-cholesterol cũng như biểu hện gen PPAR-ɣ. Tuy 
nhiên hạn chế lớn của nghiên cứu này cỡ mẫu rất 
nhỏ (53 bệnh nhân cho cả 2 nhóm) và thời gian can 
thiệp ngắn (12 tuần) [33].
Một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng gần đây 
nhất với cỡ mẫu khá lớn (200 bệnh nhân HCBTĐN) 
của Thalamati và cộng sự (2019) [34] nhằm so sánh 
hiệu quả của việc bổ sung đồng thời Myo-Inositol và 
D-chiro-Inositol so với Metformin trong quản lý phụ 
nữ HCBTĐN vô sinh có béo phì, kết cục đầu ra bao 
gồm sự điều hòa chu kỳ kinh nguyệt, mFG, đường 
huyết, nồng độ Insulin, nồng độ DHEA, Testosterone 
và chỉ số LH/FSH đầu chu kỳ kinh nguyệt. Thalamati 
kết luận rằng các chỉ số kể trên đều cải thiện ở cả 2 
nhóm, tuy nhiên nhóm sử dụng phối hợp Myo- Ins 
và D-chir-Ins cải thiện tốt hơn có ý nghĩa thống kê so 
với nhóm Metformin.
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mù đơn có đề 
cập đến tỉ lệ có thai gần đây nhất của Pourghasem 
và cộng sự (2019) thực hiện trên 150 bệnh nhân vô 
sinh có mắc HCBTĐN đánh giá hiệu quả của Inositol 
và Metformin lên các bệnh nhân HCBTĐN đề kháng 
với Letrozole [35]. Tất cả các bệnh nhân này được 
kê đơn 7,5 mg Letrozole mỗi ngày trong 5 ngày từ 
ngày 3 chu kỳ kinh nguyệt. Các bệnh nhân không 
có phóng noãn sẽ được chia làm 3 nhóm: nhóm 
1 (nhóm chứng) được sử dụng 200 µcg acid folic 
(nhóm chứng), nhóm 2 sử dụng 1500 mg Metformin 
hàng ngày kết hợp với 200 µcg acid folic, và nhóm 3 
sử dụng Inositol 2g/ngày kết hợp với 200 µcg acid 
folic trong vòng 3 tháng. Vào chu kỳ cuối của điều 
trị, 7,5 mg Letrozole được kê để kích thích phóng 
noãn. Kết cục chính gồm cải thiện chức năng buồng 
trứng và có thai. Kết quả của nghiên cứu cho thấy 
bổ sung Inositol và Metformin trong điều trị bệnh 
nhân vô sinh mắc HCBTĐN đề kháng với Letrozole 
cải thiện chức năng buồng trứng, nhưng không có ý 
nghĩa thống kê. Điều đáng chú ý là trong nghiên cứu 
này, Inositol dường như có hiện quả hơn Metformin 
ở những bệnh nhân có BMI bình thường. Liên quan 
đến tỉ lệ có thai, nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ có thai 
thấp hơn ở nhóm Letrozole + acid folic + inositol hơn 
những nhóm khác, tuy nhiên sự khác biệt không có 
ý nghĩa thống kê.
Duy nhất một nghiên cứu phân tích gộp thực 
hiện bởi Facchinetti và cộng sự, xuất bản năm 2019, 
nghiên cứu hiệu quả ngắn hạn giữa Metformin và 
Inositol trên phụ nữ có HCBTĐN [36]. Trong phân tích 
gộp này có 6 thử nghiệm lâm sàng với 355 bệnh nhân 
được đưa vào phân tích, kết luận vào cuối thời điểm 
điều trị, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
nào giữa Metformin và Inositol khi so sánh về nồng 
độ Insulin máu, chỉ số HOMA, Testosterone, nồng độ 
SHBG, và chỉ số khối cơ thể. Tuy nhiên, có bằng chứng 
có đủ độ mạnh về gia tăng các tác dụng phụ khi sử 
dụng Metformin so sánh với nhóm bệnh nhân dùng 
Inositol. Đây là nghiên cứu phân tích gộp đầu tiên 
so sánh hiệu quả giữa Metformin và Inositol lên sự 
thay đổi nội tiết của HCBTĐN, các đối tượng nghiên 
cứu từ các chúng tộc khác nhau cho phép các phát 
hiện trong phân tích gộp này có khả năng chuyển 
giao rộng rãi. Đồng thời chỉ có các thử nghiệm lâm 
sàng ngẫu nhiên mới được đưa vào phân tích nhằm 
tối thiểu các sai lệch. Tuy nhiên điểm yếu của nghiên 
cứu là không có một thử nghiệm lâm sàng mù đôi 
nào được đưa vào phân tích gộp, các kết cục đầu 
ra không phải luôn được báo cáo trong tất cả các 
nghiên cứu, các kết quả lựa chọn phân tích đôi khi 
không phải là kết cục chính của một vài nghiên cứu. 
Liều và thời gian sử dụng các chế phẩm Metformin và 
Inositol cũng không đồng nhất giữa các nghiên cứu.
4. KẾT LUẬN
Các dữ liệu và bằng chứng từ trong y văn đã 
chứng minh được Metformin có khả năng làm giảm 
đề kháng Insulin, đồng thời cải thiện các thông số 
nội tiết, lipid, rối loạn kinh nguyệt, cải thiện chức 
năng buồng trứng và gia tăng tỉ lệ có thai tự nhiên ở 
những phụ nữ có HCBTĐN. Mặc dù cơ chế tác động 
và các nghiên cứu gần đây cho thấy Inositol có hiệu 
quả trong việc cải thiện các triệu chứng và dấu hiệu 
của HCBTĐN, rối loạn chuyển hóa và các thông số 
nội tiết đồng thời dễ dung nạp và rất ít tác dụng phụ, 
các nghiên cứu này còn dừng lại ở số lượng, cỡ mẫu, 
thời gian điều trị, theo dõi và các kết cục nghiên cứu 
có độ mạnh nghiên cứu còn thấp. Y văn hiện nay vẫn 
còn thiếu các nghiên cứu có độ tin cậy cao so sánh 
hiệu quả giữa Inositol so với các chất tăng nhạy cảm 
với Metformin khác, đặc biệt về tỉ lệ có thai và tỉ lệ 
trẻ sinh ra sống. 
200
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
1. Fauser BC et al., Consensus on women’s health 
aspects of polycystic ovary syndrome (PCOS): the 
Amsterdam ESHRE/ASRM-Sponsored 3rd PCOS Consensus 
Workshop Group. Fertil Steril 97, 28-38 e25 (2012).
2. Lizneva D et al., Criteria, prevalence, and 
phenotypes of polycystic ovary syndrome. Fertil Steril 
2016; 106, 6-15.
3. Azziz R et al., Polycystic ovary syndrome. Nat Rev 
Dis Primers 2016; 2, 16057.
4. Dumesic DA et al., Scientific Statement on the 
Diagnostic Criteria, Epidemiology, Pathophysiology, and 
Molecular Genetics of Polycystic Ovary Syndrome. Endocr 
Rev 2015; 36, 487-525.
5. Diamanti-Kandarakis E, et al., Pathophysiology and 
types of dyslipidemia in PCOS. Trends Endocrinol Metab 
2007; 18, 280-285.
6. Vrbikova J et al., Insulin sensitivity in women with 
polycystic ovary syndrome. J Clin Endocrinol Metab 2004; 
89, 2942-2945.
7. Wang YW, He SJ, Feng X, Cheng J, Kui YT, Tian L, 
Huang Q. Metformin: a review of its potential indications. 
Drug Des Devel Ther 2019; 11: 2421-2429.
8. Awalekar J, Awalekar C, Jadhav V, Chivate CG, 
Pawardhan MH. Effect of Metformin and Myoinositol 
and lifestyle modification in patients of polycystic ovarian 
disease (PCOD). IJBR 2015; 6(09): 698-704.
9. Alemzadeh R, Kichler J, Calhoun M. Spectrum 
of metabolic dysfunction in relationship with 
hyperandrogenemia in bose adolescent girls with 
polycystic ovary syndrome. Eur J Endocrinol. Jun 2010; 
162(6): 1093-9.
10. Nagaria T et al. Effect of Myoinositol and 
Metformin in combination on clinical and hormonal 
profile in patients of polycystic ovarian syndrome. Int J 
Reprod Contracept Obstet Gynecol 2019; 8(2):702-709.
11. Parth Shah. Myo-Inositol and D-Chiro-Inositol 
as a therapeutic consideration for Polycystic Ovarian 
Syndrome. EC Endocrinology and Metabolic Research 
2019: 103-106.
12. Bizzarri M, Carlomagno G. Inositol: history of an 
effective therapy for Polycystic Ovarian Syndrome. Eur Rev 
Med Pharmaco Sci 2014; 18: 1896-1903.
13. Awartani KA, Cheung A. Metformin and Polycystic 
Ovary Syndrome: a literature review. J Obstet Gynaecol 
Can 2002; 24 (5): 393-401.
14. Robert L Barbieri, Davud A Ehrmann. Metformin 
for treatment of the polycystic ovary syndrome. Uptodate 
2017.
15. Hany Lashen. Role of metformin in the 
management of polycystic ovary syndrome. Ther Adv 
Endocrinol Metab. 2010 Jun; 1 (3): 117-128.
16. Moran LJ, R. Pasquali, H. J. Teede, K. M. Hoeger, 
R. J. Norman, Treatment of obesity in polycystic ovary 
syndrome: a position statement of the Androgen Excess 
and Polycystic Ovary Syndrome Society. Fertil Steril 92, 
1966-1982 (2009).
17. Arlt W, R. et al., Thiazolidinediones but not 
metformin directly inhibit the steroidogenic enzymes 
P450c17 and 3beta -hydroxysteroid dehydrogenase. JBC 
2001 276, 16767.
18. Mansfield R, Galea R, Brincat M, Hole D, Mason 
H. Metformin has direct effects on human ovarian 
steroidogenesis. Fertil Steril 2003; 79 (4): 956-62.
19. Morley LC, Tang T, Yasmin E, Norman RJ, Balen AH. 
Insulin-sensitising drugs (metformin, rosiglitazone, 
pioglitazone, D-chiro-inositol) for women with polycystic 
ovary syndrome, oligo amenorrhoea and subfertility. 
Cochrane Database of Systematic Reviews 2017, Issue 11. 
Art. No.: CD003053. DOI: 10.1002/14651858.CD003053.
pub6.
20. Teed HJ, Misso ML, Costello MF, Dokras A, Laven 
J, Moran L, Piltonen T, Norman RJ, International PCOS 
Network. Recommendations from the international 
evidence-based guideline for the assessment and 
management of polycystic ovary syndrome. Clin Endocrinol 
2018 Sep; 89(3):251-268.
21. Kalra B, Kalra S, Sharma JB. The inositols and 
polycystic ovarian syndrome. Indian J Endocr Metab 2016; 
20: 720-4.
22. Vittorio Unfer, John E. Nestler et al. Effects of 
Inositol(s) in women with PCOS: a systematic review of 
Randomized Controlled Trials. International Journal of 
Endocrinology, 2016.
23. Maria A. Sortino, Salvatore Salomone, Michele O. 
Carruba and Filippo Drago. Polycystic Ovary Syndrome: 
Insights into the Therepeutic Approach with Inositols. 
Front Pharmacol 2017; 8:341.
24. Deepika Garg and Reshef Tal. Inositol Treatment 
and ART outcomes in Women with PCOS. Int J Endocrinol 
2016.
25. Setareh Tais. Myo-Inositol in Polycystic Ovarian 
Syndrome, Supplement acts as a natural insulin sensitizer 
in PCOS patients. Gynecol Endocrinol 2012; 28(12):969-
973.
26. Pundir J, Psaroudakis D, Savnur P, Bhide P, Sabatini 
L, Teede H, Coomarasamy A, Khan K, Thangaratinam 
S. Inositol treatment of anovulation in women with 
polycystic ovary syndrome: a meta-analysis of randomised 
trials. BJOG 2018 Feb;125(3):299-308. doi: 10.1111/1471-
0528.14754. Epub 2017 Jul 14.
27. Lesoine B, Regidor P-A. Prospective 
Randomized Study on the Influence of Myoinositol 
in PCOS Women Undergoing IVF in the Improvement 
of Oocyte Quality, Fertilization Rate, and Embryo 
Quality. Int J Endocrinol. 2016;2016:4378507. doi: 
10.1155/2016/4378507
28. Regidor P-A, Schindler AE, Lesoine B, Druckman R. 
Management of women with PCOS using myo-inositol and 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
201
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
folic acid. New clinical data and review of the literature. 
Horm Mol Biol Clin Investig. 2018 Mar 2;34(2).
29. Showell MG, Mackenzie-Proctor R, Jordan 
V, Hodgson R, Farquhar C. Inostiol for subfertile 
women with polycystic ovary syndrome. Cochrane 
Database of Systematic Reviews 2018. https://doi.
org/10.1002/14651858.CD012378.pub2.
30. Nehra J, Kaushal J, Singhal SR, Ghalaut VS. A 
comparative study of myo inositol versus metformin on 
biochemical profile in polycystic ovarian syndrome in 
women. IJPSR 2017, 8(4): 1664-1670.
31. Nehra J, Kaushal J, Singhal SR, Ghalaut VS. 
Comparision of myo-inositol versus metformin on 
anthropometric parameters in polycystic ovarian 
syndrome in women. IJPSR 2017, 9 (4): 144-148.
32. Jamilian M, Farhat P, Foroozanfard F, Afshar 
Ebrahimi F, Aghadavod E, Bahmani F, Badehnoosh B, 
Jamilian H, Asemi Z. Comparison of myo-inositol and 
metformin on clinical, metabolic and genetic parameters 
in polycystic ovary syndrome: a randomized controlled 
clinical trial. Clin Endocrinol (Oxf). 2017 Aug;87(2):194-
200. doi: 10.1111/cen.13366.
33. Shorkpour M, Foroozanfard F, Ebrahimi FA et al. 
Comparison of myo-inositol and metformin on glycemic 
control, lipid profiles, and gene expression related to insulin 
and lipid metabolism in women with polycystic ovary 
syndrome: a randomized controlled clinical trial. Gynecol 
Endocrinol. DOI: 10.1080/09513590.2018.1540570.
34. Thalamati S.A comparative study of combination 
of Myo-Inositol and D-chiro-inositol versus Metformin in 
the management of polycystic ovary syndrome in obese 
women with infertility. JRCOG 2019; 8(3). DOI: http://
dx.doi.org/10.18203/2320-1770.ijrcog20190498.
35. Pourghasem S, Bazarganipour F, Taghavi 
SA, Kutenaee MA. The effectiveness of inositol and 
metformin on infertile polycystic ovary syndrome women 
with resistant to letrozole. Arch Gynecol Obstet 2019; 
299(4):1193-1199. Doi: 10.1007/s00404-019-05064-5. 
Epub 2019 Feb 5.
36. Facchinetti F, Orru B, Grandi G, Unfer V. Short-
term effects of metformin and myo-inositol in women 
with polycystic ovarian syndrome (PCOS): a meta-analysis 
of randomized clinical trials. Gynecol Endocrinol. DOI: 
10.1080/09513590.2018.1540578. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
cap_nhat_y_hoc_bang_chung_ve_hieu_qua_cua_metformin_va_inosi.pdf