BÀN LUẬN
-Phẫu thuật cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng đã
được Hans G Beger thực hiện lần đầu tiên vào
năm 1972 cho một bệnh nhân bị viêm tụy mãn
khu trú vùng đầu tụy, tác giả chỉ cắt bỏ gần toàn
bộ đầu tụy bảo tồn thân và đuôi tụy, tá tràng, dạ
dày cho kết quả tốt. Tác giả còn đưa ra và so
sánh những điểm chính khác nhau giữa phẫu
thuật này và phẫu thuật cắt bỏ khối tá tụy có
hay không có bảo tồn môn vị. Cắt đầu tụy bảo
tồn tá tràng là một phẫu thuật vừa điều trị biến
chứng viêm, đau trong viêm tụy mạn vùng đầu
tụy vừa bảo tồn được cấu trúc giải phẫu của
đường mật và tá tràng(2).
-Kimura nghiên cứu giải phẫu vùng đầu tụy
và tá tràng trong 40 trường hợp tử thiết cho kết
quả các động mạch tá tụy trước trên, động
mạch tá tụy trước dưới, động mạch tá tụy sau
trên, động mạch tá tụy sau dưới phân nhánh
nuôi vùng đầu tụy, tá tràng đoạn cuối ống mật
chủ và vùng bóng Vater. Ông đưa ra kết luận:
cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng có thể bóc tách sát
thành tá tràng giữ lại mạc treo tá tràng không
làm thiếu máu nuôi thành tá tràng hay hoại tử
tá tràng(11).
-Thời gian nằm viện trung bình theo Beger là
15.5 ngày(3). Đa số các tác giả áp dụng cắt đầu
tụy bảo tồn tá tràng cho bệnh lý viêm tụy mạn
và u lành tính vùng đầu tụy(15,2,3,8,9).
-Theo Ozawa cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng là
tiêu chuẩn vàng điều trị bệnh lý lành tính vùng
đầu tụy như u lành tính và viêm tụy mạn(15).
-Berger trong 14 năm (1972-1996) nghiên
cứu 504 trường hợp có 78,8% trường hợp hoàn
toàn hết đau, 8,7% vẫn tiếp tục đau, chức năng
nội tiết (tiểu đường) cải thiện trong 21%
trường hợp(2).
-Theo Zibicki phẫu thuật cho 42 trường hợp
cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng ông đưa ra nhận xét
đây là phẫu thuật an toàn, hiệu quả, cải thiện
chất lượng sống rõ rệt vẫn đảm bảo chức năng
tụy nội và ngoại tiết(9).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng cho bệnh lý lành tính hay chấn thương vùng đầu tụy: Nhân 2 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 550
CẮT ĐẦU TỤY BẢO TỒN TÁ TRÀNG CHO BỆNH LÝ LÀNH TÍNH HAY
CHẤN THƯƠNG VÙNG ĐẦU TỤY: NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP
Đoàn Tiến Mỹ *, Nguyễn Tấn Cường*, Lâm Việt Trung**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật cắt khối tá- tụy thường được áp dụng cho ung thư đầu tụy và cả các bệnh lành
tính như viêm tụy mạn, do kết cấu giải phẫu vùng đầu tụy liên quan mật thiết đến tá tràng và các mạch máu lớn
quanh tụy. Tuy nhiên trong một số trường hợp bệnh lành tính đầu tụy việc cắt bỏ đầu tụy, bảo tồn tá tràng được
đặt ra để giảm thiểu mức độ nặng nề của phẫu thuật. Phẫu thuật cắt bỏ đầu tụy bảo tồn tá tràng đã được Berger
thực hiện vào năm 1972, hiếm được đề cập đến tại Việt Nam. Chúng tôi báo cáo 2 trường hợp áp dụng thành
công phẫu thuật này.
Phương pháp: Trình bày ca lâm sàng.
Kết quả: Chúng tôi áp dụng phẫu thuật cắt bỏ đầu tụy bảo tồn tá tràng cho 2 trường hợp: 1 do chấn
thương đầu tụy đơn thuần và 1 u lành tính vùng đầu tụy. Trường hợp u lành tính sau khi cắt đầu tụy
chúng tôi nối thân tụy vào hỗng tràng theo Roux-En-Y diễn tiến hậu phẫu tốt không tai biến hay biến chứng
nào. Trường hợp chấn thương tụy do thời điểm phẫu thuật bệnh nhân bị chấn thương đã 5 ngày nên tác
động của dịch tụy, mô tụy chấn thương bầm dập làm cho tổ chức tụy bị bở nguy cơ xì miệng nối rất cao nếu
làm miệng nối tụy ruột do đó chúng tôi chủ động khâu bít ống tụy (loại trừ tụy ngoại tiết) bệnh nhân này
hậu phẫu bị rò tụy và tự lành sau 1 tháng, ngoài ra không có biến chứng nào khác, cũng không có than phiền
gì về triệu chứng thiếu tụy ngoại tiết.
Kết luận: Cắt bỏ đầu tụy bảo tồn tá tràng là phẫu thuật an toàn, nhẹ nhàng, không có tai biến phẫu thuật
và ít biến chứng, với phẫu thuật viên có kinh nghiệm. Phẫu thuật có thể được áp dụng tốt trong bệnh lý lành
tính khu trú vùng đầu tụy hay chấn thương vùng đầu tụy.
Từ khóa: Cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng. Cắt tụy bảo tồn cơ quan. Cắt toàn bộ đầu tụy bảo tồn tá tràng.
ABSTRACT
DUODENUM-PRESERVING TOTAL PANCREATIC HEAD RESECTION FOR BENIGN DISEASES OR
TRAUMA OF HEAD OF PANCREAS: REPORT OF TWO CASES
Doan Tien My, Nguyen Tan Cuong, Lam Viet Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 550 - 554
Aim: Due to close relationship between the head of pancreas and duodenal loop with surrounding great
vessels, duodeno-pancreatectomy usually performed for treatment of cancer of head of pancreas or even for chronic
pancreatitis. However, in certain benign cases duodenum- preserving total pancreatic head resection has been
proposed to alleviate the severety of surgery. Duodenum-preserving total pancreatic head resection has been
performed in 1972 by Berger with good resul, however rarely reported in Vietnam. We report two successful cases
of duodenum-preserving total pancreatic head resection.
Method: Case report.
Result: We performed duodenum-preserving total pancreatic head resection for two cases: one case with
trauma of head of pancreas and one case of benign disease of head of pancreas. In case of benign disease, we
* Khoa ngoại Gan Mật Tụy, BV. Chợ Rẫy, ** Khoa Ngoại tiêu hóa, Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BSCK2 Đoàn Tiến Mỹ ĐT: 0918042555 Email: Myquan67@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 551
performed pancreatico-jejunal Roux en Y anastomosis with good result. In the trauma case, pancreatic tissue was
severely contused, we closed the pancreatic duct of distal part with transfixed suture. The patient developed
pancreatic fistula which has been treated conservatively then finally healed up after one month.
Conclusion: Duodenum-preserving total pancreatic head resection is a feasible and safe procedure with good
result in hands of experienced surgeons. It could be used in cases of benign disease or trauma of the head of
pancreas.
Key wordss: Duodenum- preserving pancreatic resection, Organ- preserving the head pancreatectomy.
Duodenum-preserving total pancreatic head resection.
ĐẶT VẤN ĐỀ
U nang lành tính chiếm khoảng 10% trong
tất cả bệnh lý vùng đầu tụy(7). Những bệnh lành
tính hay chấn thương vùng đầu tụy nếu dùng
phẫu thuật cắt bỏ khối tá tụy (phẫu thuật
Whipple) e rằng là phẫu thuật quá lớn không
cần thiết, còn phẫu thuật bóc bỏ u nang vùng
đầu tụy thì biến chứng rò tụy sau mổ thường
khó tránh khỏi. Trong bệnh viêm tụy mạn khu
trú vùng đầu tụy nếu cắt bỏ khối tá tụy thì quá
nặng nề, còn chỉ sử dụng phẫu thuật nối vị tràng
thì không giải quyết được vấn đề đau, nếu kèm
thêm kỹ thuật cắt hoặc phong bế thần kinh tạng
thì vấn đề giảm đau cũng chỉ được giải quyết
tạm thời. Trong những trường hợp trên nhiều
tác giả đề xuất sử dụng phẫu thuật cắt đầu tụy
bảo tồn tá tràng vì hiệu quả, an toàn, hậu phẫu
nhẹ nhàng. Chúng tôi áp dụng phẫu thuật này
cho 2 trường hợp: một trường hợp chấn thương
vùng đầu tụy, một trường hợp u lành tính khu
trú vùng đầu tụy.
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh án 1
Họ và Tên: T.V.N 1967 nam. Số nhập viện:
48832. Ngày vào viện: 14/6/2009.
Lý do: tai nạn giao thông đường thủy.
Bệnh sử: cách nhập viện 4 ngày bệnh nhân
bị tai nạn đường thủy té đập bụng vào thành
ghe, được điều trị tại bệnh viện khu vực 4
ngày không thuyên giảm nên chuyển bệnh
viện Chợ Rẫy.
Lúc vào viện: bệnh nhân tỉnh, thở 20
lần/phút, huyết áp 130/70 mmHg, mạch 100
lần/phút, nhiệt độ 38,5 độ C, than đau bụng
thượng vị và hai hạ sườn, ấn bụng đau và đề
kháng thượng vị.
Không thử Amylase và Lipase trước mổ.
Natri: 128 mEq/l.
Siêu âm bụng: dập vỡ gan T, dịch ổ bụng có
fibrin.
CT bụng: vỡ gan T độ II, Vỡ đôi thân tụy,
dập vỡ đầu tụy, dịch ổ bụng.
Chỉ định mổ cấp cứu lúc 6g45 phút ngày
15/6/2009.
Chẩn đoán sau mổ: vỡ eo tụy, vỡ dập đầu
tụy.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 552
Sơ lược phẫu thuật
Ổ bụng có 500ml máu loãng.
Một khối vừa dịch vừa máu to ở hậu cung
mạc nối.
Tụy vỡ đôi tại eo, đầu tụy dập nát mủn.
Thân và đuôi tụy cũng phù nề và mủn.
Phương pháp mổ: cắt bỏ đầu tụy bảo tồn tá
tràng. Cột ống tụy, đóng bít mõm tụy đầu xa,
đắp mặt sau dạ dày vào mõm tụy đầu xa.
Lượng máu mất: 1000ml.
Diễn tiến hậu phẫu
Tỉnh táo, không sốt, không đau bụng. Bệnh
nhân ăn uống tốt từ ngày thứ 3 sau mổ.
Ống dẫn lưu ổ tụy ra 200ml dịch/ ngày
(amylase dịch ống dẫn lưu ổ tụy: 6309 u/l) sau
đó giảm dần.
Diễn tiến hậu phẫu ngày càng ổn định. Bệnh
nhân xuất viện vào ngày thứ 10 khi lâm sàng ổn
định, ống dẫn lưu ổ tụy còn ra khoảng 30-40 ml
dịch/ ngày. Mang ống dẫn lưu ổ tụy về nhà hẹn
tái khám sau 1 tháng.
Tái khám sau 1 tháng, ống dẫn lưu ổ tụy ra
rất ít dịch đục. Rút ống dẫn lưu sau đó rò tụy
tự lành.
Bệnh án 2
Họ và tên: V.T.H 1987 nữ.
Nghề: công nhân. Số nhập viện: 78288. Ngày
nhập viện: 13/9/2010.
Lý do nhập viện: đau bụng.
Cách nhập viện 1 tháng bệnh nhân đau
bụng âm ỉ vùng thượng vị và hạ sườn phải có
điều trị nhưng không giảm, sau đó chụp CT
bụng phát hiện u bụng nghi u mạc treo.
Tình trạng lúc nhập viện: mạch 80 lần/phút,
huyết áp 110/70 mmHg, nhiệt độ 37 độ C, nhịp
thở 20 lần/ phút.
Khám bụng mềm, sờ cảm giác hơi đầy vùng
hạ sườn phải, không đau bụng.
CT scan bụng: tổn thương choáng chỗ nằm
giữa bờ dưới gan phải, đầu tụy, hang vị kích
thước khoảng 6x 10 cm có đóng vôi, tăng quang
không đồng nhất chèn ép đầu tụy và vùng hang
môn vị.
Các xét nghiệm khác trong giới hạn bình
thường.
Lên chương trình mổ ngày 17/9/2010.
Chẩn đoán sau mổ: u nang đầu tụy.
Sơ lược phẫu thuật: vào bụng bằng đường
giữa trên dưới rốn. Ổ bụng sạch, khối u rất to
vùng đầu tụy đường kính khoảng 10x5 cm dính
vào tá tràng và đại tràng ngang. Tiến hành gỡ
dính, sinh thiết tức thì 1 mẫu u kết quả là vách
nang tụy xơ. Chúng tôi tiến hành cắt bỏ đầu tụy
bảo tồn tá tràng, nối tụy- hổng tràng tận bên
theo Roux- En-Y.
Ước lượng máu mất khoảng 400ml (không
có truyền máu)
Diễn tiến hậu phẫu ổn định không biến
chứng, bệnh nhân xuất viện vào ngày 8 sau mổ.
Kết quả giải phẫu bệnh sau cùng: Bướu
tuyến tụy giả nhú giáp biên ác, bệnh nhân được
tái khám định kỳ đến nay vẫn còn đang theo dõi
chưa có biểu hiện u tái phát.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 553
U đầu tụy Khoảng trống sau khi u đầu tụy
đã cắt
Miệng nối tụy hỗng tràng
BÀN LUẬN
-Phẫu thuật cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng đã
được Hans G Beger thực hiện lần đầu tiên vào
năm 1972 cho một bệnh nhân bị viêm tụy mãn
khu trú vùng đầu tụy, tác giả chỉ cắt bỏ gần toàn
bộ đầu tụy bảo tồn thân và đuôi tụy, tá tràng, dạ
dày cho kết quả tốt. Tác giả còn đưa ra và so
sánh những điểm chính khác nhau giữa phẫu
thuật này và phẫu thuật cắt bỏ khối tá tụy có
hay không có bảo tồn môn vị. Cắt đầu tụy bảo
tồn tá tràng là một phẫu thuật vừa điều trị biến
chứng viêm, đau trong viêm tụy mạn vùng đầu
tụy vừa bảo tồn được cấu trúc giải phẫu của
đường mật và tá tràng(2).
-Kimura nghiên cứu giải phẫu vùng đầu tụy
và tá tràng trong 40 trường hợp tử thiết cho kết
quả các động mạch tá tụy trước trên, động
mạch tá tụy trước dưới, động mạch tá tụy sau
trên, động mạch tá tụy sau dưới phân nhánh
nuôi vùng đầu tụy, tá tràng đoạn cuối ống mật
chủ và vùng bóng Vater. Ông đưa ra kết luận:
cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng có thể bóc tách sát
thành tá tràng giữ lại mạc treo tá tràng không
làm thiếu máu nuôi thành tá tràng hay hoại tử
tá tràng(11).
-Thời gian nằm viện trung bình theo Beger là
15.5 ngày(3). Đa số các tác giả áp dụng cắt đầu
tụy bảo tồn tá tràng cho bệnh lý viêm tụy mạn
và u lành tính vùng đầu tụy(15,2,3,8,9).
-Theo Ozawa cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng là
tiêu chuẩn vàng điều trị bệnh lý lành tính vùng
đầu tụy như u lành tính và viêm tụy mạn(15).
-Berger trong 14 năm (1972-1996) nghiên
cứu 504 trường hợp có 78,8% trường hợp hoàn
toàn hết đau, 8,7% vẫn tiếp tục đau, chức năng
nội tiết (tiểu đường) cải thiện trong 21%
trường hợp(2).
-Theo Zibicki phẫu thuật cho 42 trường hợp
cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng ông đưa ra nhận xét
đây là phẫu thuật an toàn, hiệu quả, cải thiện
chất lượng sống rõ rệt vẫn đảm bảo chức năng
tụy nội và ngoại tiết(9).
-Cũng theo nghiên cứu của Zibicki phẫu
thuật này kéo dài 323 (170-450) phút và lượng
máu phải truyền cho bệnh nhân 3,7 (0-13) đơn
vị, có những biến chứng: chảy máu (trong mổ
phải truyền hơn 2 đơn vị máu), rò tụy, tắc ruột,
viêm phổi hậu phẫu. so với phẫu thuật cắt khối
tá tụy thì phẫu thuật này đơn giản, nhẹ nhàng
và an toàn hơn ít tai biến và biến chứng, hiệu
quả cao trong cải thiện triệu chứng đau.
-Chúng tôi có 2 trường hợp cắt đầu tụy bảo
tồn tá tràng. Bệnh nhân đầu tiên bị chấn thương
vùng đầu tụy được mổ sau 5 ngày nên tổ chức
tụy bị viêm nặng, nhiều mô hoại tử, mô tụy bở.
Sau khi cắt bỏ đầu tụy chúng tôi không thực hiện
miệng nối tụy- ruột vì nguy cơ xì miệng nối rất
cao, mà chủ động khâu bít ống tụy rồi đắp mặt
cắt tụy vào mặt sau dạ dày (loại bỏ chức năng tụy
ngoại tiết), dẫn lưu tốt vùng hậu cung mạc nối
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 554
với 3 ống dẫn lưu. Trong lúc mổ, máu chảy khá
nhiều ước tính khoảng 1000ml cộng thêm máu
mất vào ổ bụng do chấn thương nên phải truyền
4 đơn vị máu trong mổ.Vì chủ động dẫn lưu tốt
nên bệnh nhân chỉ bị rò tụy khu trú với cung
lượng thấp mà không bị viêm phúc mạc. Lỗ rò tự
lành sau 1 tháng. Bệnh nhân được theo dõi cho
đến ngày hôm nay rất tốt không có biểu hiện gì
về triệu chứng thiếu men tụy ngoại tiết.
-Trường hợp bệnh án II không có biến chứng
hậu phẫu, bệnh nhân làm công nhân hiện tại
vẫn tiếp tục công việc của mình, chúng tôi
thường xuyên và vẫn đang theo dõi trường hợp
này chưa có biểu hiện bất thường.
-Vấn đề chủ động cắt bỏ tổ chức tụy: nên cắt
bỏ tiết kiệm mô tụy để đảm bảo chức năng nội
và ngoại tiết của tụy không bị ảnh hưởng.
-Tác giả Hai Huang cắt tụy bảo tồn tá tràng
cho 20 trường hợp (8 trường hợp nang thanh
dịch, 6 trường hợp u tụy nội tiết, 3 trường hợp
mất chức năng tế bào đảo tụy, 3 trường hợp giả
u nhú tuyến tụy) không có tử vong trong mổ,
biến chứng phẫu thuât (rò tụy 25%). Theo dõi
trong 8 năm (2000-2008) tất cả đều còn sống
không có trường hợp nào tái phát cũng không
có trường hợp nào phát sinh tiểu đường mới
hay rối loạn chức năng tụy ngoại tiết(6).
KẾT LUẬN
Cắt đầu tụy bảo tồn tá tràng là phẩu thuật
khả thi, hiệu quả, an toàn, hậu phẫu nhẹ nhàng,
ít tai biến, biến chứng hơn so với phẫu thuật cắt
tụy khác. Qua 2 trường hợp cắt đầu tụy bảo tồn
tá tràng chúng tôi nhận thấy có kết quả tốt, có
thể áp dụng cho chấn thương hoặc bệnh lành
tính đầu tụy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexakis N, Ghaneh P, Connor S, Raraty M (2003).
“Duodenum- and spleen- preserving total pancreatectomy for
end- stage chronic pancreatitis” Bristish journal of surgery. Pp
1401-1408
2. Berger H, Schlosser W (1999) “Duodenum-preserving head
resection in chronic pancreatitis Changes the nature course of
the disease”. Annals of Surgery. Pp 512-523
3. Berger HG, Bittner RR (1989). “Duodenum-preserving
resection of the head of the pancreas in severe chronic
pancreatitis”. Ann Surg. Pp 273-278
4. Berger HG, Gansauge F, Siech M (2008), “Duodenum-
preserving total pancreatic head resection for cystic neoplastic
lesions in the head of the pancreas”, J Hepato Biliary Pancreat
Surg. Pp 149-156.
5. Catadegirmen G, Bogoevski D (2008) “Late morbidity after
duodenum- preserving pancreatic head resection with bile
duct reinsertion into the resection cavity”.Bristish Journal of
Surgery. Pp 447-452.
6. Hai H, Xin Dg, Shun LG. (2009). “Conservative resection for
benign tumors of the proximal pancreas”, World Journal of
gastroenterology. Pp 4044-4048
7. HG Berger, Rau BM, Schwarz M (2008), “Duodenum-
preserving total pancreatic head resection for cystic neoplasm-
a limited but cancer-preventive procedure”, Langenbecks Arch
Surg. Pp 589-598.
8. Izbicki JR, Bloechle C, Knoefel WT (1994), “Complications of
adjacent organs chronic pancreatitis managed by duodenum-
preserving resection of the head of the pancreas”. Bristish
journal of surgery. Pp 1351-1355.
9. Izbicki JR, C Bloechle, Knoefel WT (1995). “Duodenum-
preserving resection of the head of the pancreas in chronic
pancreatitis”. Annals of surgery. Pp 350-358.
10. Kimura W (2000). “Surgical anatomy of the pancreas for
limited resection”, J Hepato biliary Pancreat Surg. Pp 473-479.
11. Kimura W, Nagai H (1995) “Study of surgical anatomy for
duodenum-preserving resection of the head of the pancreas”,
Anals of Surgery. Pp 359-363.
12. Koninger J, Seiler CM (2006) “Duodenum preserving
pancreatectomy in chronic pancreatitis: Design of a
randomized controlled trial comparing two surgycal
techniques”. Www. Trialsjournal.com
13. Lee SE, Jang JJ, Hwang DW (2010) “Clinical efficacy of organ-
Preserving pancreatectomy for benign or low grade malignant
potential lesion”. J Korean Med sci. Pp 97-103.
14. Nelly Rotman, Pierre- Louis Fagniez. (2000). “Organ-
preserving pancreatectomy; motivation and result”, J Hepato
biliary Pancreat surg. Pp 453-455.
15. Ozawa F, et al. (2000), “Duodenum-preserving pancreatic head
resection (DPPHR) in chronic pancreatitis: it rationale and
results”, J Hepato Biliary Pancreat Surg. Pp 456-465.
16. Yasuda H, Takada T, Toyota N (2000) “Limited
pancratectomy: significance of postoperative manitenance of
pancreatic exocrine function”. J Hepato Biliary Pancreat Surg.
Pp 466-472.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cat_dau_tuy_bao_ton_ta_trang_cho_benh_ly_lanh_tinh_hay_chan.pdf