Các bệnh nhân ung thư tụy giai đoạn cuối:
30 bệnh nhân được giảm đau gần như hoàn
toàn đến lúc tử vong, 6 bệnh nhân đau lại khi
gần tử vong (1 trường hợp VAS = 3, tử vong
sau mổ 22 ngày, chẩn đoán K tụy di căn phúc
mạc, xơ gan, báng bụng, không đau thượng vị
như trước mổ mà đau bụng dưới rốn; 3 trường
hợp VAS= 3, tử vong sau mổ từ 1-3 tháng;1
trường hợp VAS = 9, tử vong sau mổ 89 ngày,
chẩn đoán K tụy di căn hạch sau mổ K dạ dày
7 năm, đau khắp bụng, trong tình trạng gầy
suy kiệt; 1 trường hợp sau mổ 2 tuần đau lại
VAS=7, nhưng đau lưng chủ yếu khác trước
mổ đau thượng vị, kết quả giải phẫu bệnh có
carcinoma tuyến xâm nhập mô sợi thần kinh)
và tính chất đau khác so với trước mổ. Các
trường hợp đau lại đều có tính chất đau khác
trước mổ, như vị trí đau thay đổi, thường đau
khắp bụng, đau ở những chỗ có u cục nổi lên,
khi yêu cầu xác định chính xác vị trí và cường
độ đau thì đa số không còn đau như trước mổ.
Trong nhóm bệnh nhân mổ cắt thần kinh
tạng vì đau nhiều do viêm tụy mạn, có 2 trường
hợp đã tử vong trong bệnh cảnh tiểu đường
không kiểm soát được, suy kiệt, nhiễm khuẩn cơ
hội, vào ngày thứ 240 và 328 sau mổ cả 2 đều
không đau như trước mổ lúc gần tử vong, VAS=
0 và 3. 8 trường hợp sau mổ hết đau gồm:
trường hợp mổ đầu tiên, không đau sau mổ hơn
6 năm dù bệnh nhân đã uống bia lại (7-8 lon bia
mỗi lần, 2-3 lần trong tuần từ tháng thứ 4 sau
mổ), đây cũng là bệnh nhân hiện còn sống lao
động bình thường; 5 trường hợp sau mổ hơn 4
năm hết đau, VAS = 0; 1 trường hợp hết đau sau
mổ, VAS = 0 nhưng mất liên lạc sau 6 tháng; 1
trường hợp hết đau sau mổ, VAS = 0 mới mổ
được 8 tháng. 4 trường hợp sau mổ đau ít VAS =
1-3: 3 trường hợp VAS = 1 sau mổ 3 năm và 1
trường hợp mới mổ dưới 1 tuần, 1 trường hợp
VAS = 3 sau mổ 1 năm. Tất cả đều thỏa mãn với
tình trạng bớt đau, VAS = 0-3. Tuy số bệnh nhân
viêm tụy mạn còn ít, nhưng chúng tôi cũng thấy
có hiệu quả giảm đau đáng kể và bền vững
Trong lô nghiên cứu này 6% (3/50) có biến
chứng tổn thương tạng như thủng phổi, thủng
hoành + lách (trường hợp này được nội soi ổ
bụng thấy cầm máu nên không cắt lách). Tất cả
các trường hợp này sau khi xử lý biến chứng
diễn tiến hậu phẫu tương đối bình thường đến
ổn và xuất viện. Không có trường hợp nào tử
vong liên quan đến phẫu thuật.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 182 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực điều trị đau do ung thư tụy giai đọan cuối và viêm tụy mạn: Kinh nghiệm sau 7 năm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 482
CẮT THẦN KINH TẠNG QUA NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ ĐAU
DO UNG THƯ TỤY GIAI ĐỌAN CUỐI VÀ VIÊM TỤY MẠN:
KINH NGHIỆM SAU 7 NĂM
Bùi An Thọ *, Nguyễn Tấn Cường**, Đoàn Tiến Mỹ*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong nhiều trường hợp bệnh lý tụy như ung thư tụy giai đoạn cuối, viêm tụy mạn, bệnh
nhân khổ sở, suy nhược vì triệu chứng đau bụng. Có rất nhiều phương pháp giúp kiểm soát tình trạng đau này,
từ việc dùng thuốc giảm đau đơn thuần cho đến các phương pháp xâm nhập như phong bế đám rối tạng và các
phương pháp phẫu thuật. Một phương pháp mới trong hơn một thập niên gần đây trên thế giới, để cắt cơn đau
tụy là phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực (thoracoscopic splanchnicectomy), bước đầu đã cho
thấy có hiệu quả giảm đau tốt, ít biến chứng. Chúng tôi thực hiện phẫu thuật này để đánh giá hiệu quả và độ an
toàn của phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực trong điều trị đau do bệnh lý tụy.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, tất cả những bệnh nhân được mổ trong thời
gian 5/2004 – 2/2011. Đánh giá mức độ đau chủ quan của bệnh nhân được dựa trên thang điểm đau hiển thị
(VAS: Visual Analogue Scale). Ghi nhận các tai biến và tử vong liên quan đến phẫu thuật, thời gian mổ, và thời
gian nằm viện. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0 for Windows.
Kết quả: Từ tháng 5-2004 đến tháng 2-2011, 50 bệnh nhân với 36 ung thư tụy không cắt được và 14 viêm
tụy mạn đau bụng nhiều được đưa vào nghiên cứu. Có 48 trường hợp cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực
2 bên, 2 trường hợp cắt 1 bên, tất cả đều thành công, không có tử vong trong mổ liên quan đến phẫu thuật. Thời
gian mổ trung bình là 117,58 ± 40,35 phút (từ 70 -270 phút). Mức độ đau trung bình của bệnh nhân trước mổ
là 7,98 ± 1,48 (từ 6-10), sau mổ tình trạng đau giảm rõ rệt (p < 0,005). Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là
5,06 ± 2,94 ngày (1-13 ngày).
Kết luận: Phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua soi lồng ngực an toàn và có hiệu quả giảm đau rõ rệt trên các
bệnh nhân ung thư tụy giai đoạn cuối và viêm tụy mạn. Phẫu thuật này giúp bệnh nhân ngưng được thuốc
giảm đau, tránh được các tác dụng phụ của thuốc, cho phép bệnh nhân sinh hoạt tương đối bình thường vào
những ngày cuối đời. Hiệu quả giảm đau này là quan trọng vì tiên lượng sống của bệnh nhân ung thư tụy giai
đoạn cuối rất ngắn. Hiệu quả giảm đau rõ rệt và bền vững đối với các bệnh nhân viêm tụy mạn tính.
Từ khóa: Đau do bệnh tụy, cắt thần kinh tạng, nội soi lồng ngực.
ABSTRACT
7- YEAR EXPERIENCE OF BILATERAL THORACOSCOPIC SPLANCHNICECTOMY FOR CONTROL
OF INTRACTABLE PAIN DUE TO ADVANCED PANCREATIC CANCER AND CHRONIC
PANCREATITIS
Bui An Tho, Nguyen Tan Cuong, Doan Tien My
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 482 - 488
Background: Intractable pain is the most distressing symptom in patients suffering from unresectable
pancreatic cancer and chronic pancreatitis. Bilateral thoracoscopic splanchnicectomy (BTS) is a new method in
* Khoa ngoại Gan Mật Tụy bệnh viện Chợ Rẫy, ** Bộ Môn Ngoại Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Bùi An Thọ ĐT: 0913634862 Email: bstho402@yahoo.com.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 483
the past decade for pancreatic pain control. The purpose of this study was to evaluate the effects and safety of BTS
for control of intractable pancreatic pain. We would like to present this new method that has been implemented in
our department of Hepato-biliary & Pancreatic Surgery at Cho Ray hospital, Vietnam.
Methods: Between May 2004 and February 2011, 50 patients, consitst of 36 pancreatic cancers (23 men, 13
women) and 14 chronic pancreatitis (14 men) suffering from intractable pain due to unresectable carcinoma of the
pancreas or chronic pancreatitis underwent 48 BTS and 2 left thoracoscopic splanchnicectomy. Subjective evaluation
of pain was measured before and after the procedure by a visual analogue score (VAS). The following parameters
were also evaluated: procedure-related morbidity and mortality, operative time, and length of hospital stay.
Results: The mean operative time was 117.58 ± 40.35 min (range 70 - 270 min). The mean value of
preoperative pain intensity reported by patients on VAS was 7.98 ± 1,48 (range 6–10). Postoperatively, pain was
totally relieved in all patient, statistically significant at the level of p = 0.000 < 0.05. There was no procedural
mortality. The mean of postoperative hospital stay was 5.06 ± 2,94 days (range, 1–13).
Conclusions: We found bilateral thoracoscopic splanchnicectomy to be a safe and effective procedure of
treating malignant and benign intractable pancreatic pain. Duration of pain relief in chronic pancreatitis patients
are still observed.
Key words: Bilateral thoracoscopic splanchnicectom (BTS), pain, pancreatic diseases.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhiều trường hợp bệnh lý tụy như
ung thư tụy giai đoạn cuối, viêm tụy mạn, bệnh
nhân khổ sở, suy nhược vì triệu chứng đau
bụng. Có rất nhiều phương pháp giúp kiểm soát
tình trạng đau này, từ việc dùng men tụy(9,3),
thuốc giảm đau đơn thuần hay các loại có tính
gây nghiện, cho đến các phương pháp xâm nhập
như phong bế đám rối tạng và các phương pháp
phẫu thuật như cắt hạch thân tạng, mở ngực cắt
thần kinh tạng v.v. Một phương pháp mới
trong hơn một thập niên gần đây trên thế giới,
để cắt cơn đau tụy là phẫu thuật cắt thần kinh
tạng qua nội soi lồng ngực (thoracoscopic
splanchnicectomy), bước đầu đã cho thấy có
hiệu quả giảm đau tốt, ít biến chứng, giúp bệnh
nhân bớt lệ thuộc thuốc giảm đau, cải thiện chất
lượng sống và sớm đưa người bệnh trở lại với
đời sống sinh hoạt bình thường.
Chúng tôi thực hiện phẫu thuật này để đánh
giá hiệu quả và độ an toàn của phẫu thuật cắt
thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực trong điều
trị đau do bệnh lý tụy.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, với tiêu chuẩn
chọn là tất cả những bệnh nhân được mổ trong
thời gian 5/2004 – 2/2011 với chẩn đoán ung thư
tụy quá chỉ định mổ triệt để hay viêm tụy mạn,
có triệu chứng đau bụng nhiều và đồng ý phẫu
thuật.
Đánh giá mức độ đau chủ quan của bệnh
nhân được dựa trên thang điểm đau hiển thị
(VAS: Visual Analogue Scale).
Ghi nhận các tai biến và tử vong liên quan
đến phẫu thuật, thời gian mổ, và thời gian
nằm viện.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0 for
Windows, kiểm định ý nghĩa thống kê bằng
phép kiểm Wilcoxon.
Phương pháp mổ
Tất cả đều được thực hiện trong tư thế nằm
nghiêng từng bên dưới gây mê toàn thân
Ống nội khí quản nòng đôi (Carlene), thông
khí từng bên phổi.
1 Trocar 10 mm được đặt giữa khoảng liên
sườn VII đường nách trước.
2 Trocar 5 mm được đặt giữa khoảng liên
sườn IV – VIII đường nách sau.
Thần kinh tạng lớn và tạng bé được xác định
qua màng phổi thành.
Phẫu tích được thực hiện dọc theo thần kinh
tạng bôc lộ thân (T5 –T9) và các rễ của nó. Khi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 484
thực hiện cần cẩn thận để tránh tổn thương bất
kỳ mạch máu nào kể cả tĩnh mạch bán đơn bên
trái và các mạch máu liên sườn. Rễ và thân thần
kinh được cắt bằng móc đốt điện.
Hình 1: Tư thế bệnh nhân và vị trí đặt trocar
Hình 2: Phẫu tích dọc thần kinh tạng lớn bên trái và
bên phải, thần kinh được cắt ở thân và rễ với kéo đốt
điện
Phẫu tích tiếp tục đến đoạn xa và thần kinh
tạng bé (T10-T11) được bộc lộ và cắt.
Cuối cùng đặt 1 catheter đuổi khí khoang
màng phổi. Chụp X quang phổi kiểm tra, nếu
phổi nở tốt thì khâu lại vết thương không dẫn
lưu màng phổi
Nếu có tràn khí màng phổi thì đặt dẫn lưu
màng phổi, ống dẫn lưu được rút sau mổ 24 giờ,
sau khi đã chụp X quang kiểm tra.
Sau đó bệnh nhân được đặt nằm nghiêng về
bên đối diện để cắt thần kinh tạng theo kỹ thuật
tương tự.
KẾT QUẢ
Từ tháng 5/2004 đến tháng 2/2011 chúng tôi
đã mổ 50 bệnh nhân với các số liệu sau:
50 bệnh nhân được phẫu thuật cắt thần kinh
tạng qua nội soi lồng ngực, 36 ung thư tụy: nam
63,89% (23/36), nữ 36,11% (13/36) và 14 viêm tụy
mạn toàn là nam 100% (14/14).
Thời gian mổ trung bình 117,58 ± 40,35 phút
(từ 70 -270 phút). 48 (96%) trường hợp cắt thần
kinh tạng 2 bên, 2 (4%) trường hợp chỉ cắt bên
trái do dày dính màng phổi nhiều bên phải.
Tất cả thực hiện hoàn toàn qua soi lồng ngực
và không có tử vong do phẫu thuật gây ra.
Bảng 1: Các đặc điểm giữa 2 nhóm ung thư tụy và
viêm tụy mạn
Ung thư tụy Viêm tụy mạn
trung
bình
thấp
nhất cao nhất
trung
bình
thấp
nhất
cao
nhất
Tuổi
(năm) 59,72 33,00 80,00 43,28 30,00 54,00
Thời gian
đau trước
mổ (ngày)
65,94 6,00 365,00 223,78 30,00 1095,00
CEA
(ng/ml) 24,33 0,00 240,00 2,21 0,00 8,3
CA 19.9
(UI/ml) 3002,69 0,00 24.880,00 66,00 0,00 248,00
Tử vong
sau mổ
(ngày)
71,36 22,00 145,00 1030,75 240,00 2250,00
Bảng 2: Số nhánh thần kinh tạng cắt được.
Số nhánh thần kinh
tạng phải (n=48)
Số nhánh thần kinh
tạng trái (n=50)
trung bình 4,83 4,48
thấp nhất 2 1
cao nhất 7 7
Tất cả các nhánh được gởi làm giải phẫu
bệnh đều có kết quả là mô sợi thần kinh.
Bảng 3: Các biến chứng
Biến chứng Số ca Tỉ lệ%
Do đặt trocar 1 2,00
Do phẫu tích 1 2,00
Không chảy máu 48 96,00
Chảy
máu
Tổng cộng 50 100,0
Thủng phổi 2 4,00
Thủng cơ hoành + lách 1 2,00
Không tổn thương 47 94,00
Tổn
thương
tạng
Tổng cộng 50 100,0
Có đau 40 80,00
Không đau 10 20,00
Đau chỗ
đặt
trocar Tổng cộng 50 100,0
Bên phải
Chuỗi thần kinh giao cảm ngực Bên trái
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 485
Chúng tôi không gặp các biến chứng: hạ
huyết áp trong lúc mổ, khó thở hay nhiễm
khuẩn vết mổ sau mổ.
8% (4/50) trường hợp được dẫn lưu dịch
màng phổi (2 trường hợp thủng phổi, 1 thủng
hoành và lách, 1trường hợp chảy máu từ chổ
trocar), cả 4 trường hợp đều diễn biến tốt không
ra máu hay dịch sau mổ. 14% (7/50) trường hợp
dẫn lưu khí màng phổi một bên bằng ống nhỏ
14F. Sau khi rút ống dẫn lưu màng phổi tất cả
đều diễn biến tốt.
4% (2/50) trường hợp chảy máu, 1 trường
hợp thấy máu ra qua ống đuổi khí, lưu dẫn
lưu màng, sau mổ không thấy ra máu thêm, 1
trường hợp chảy máu từ lỗ trocar, cầm máu
qua nội soi thất bại, phải mở rộng vết mổ khâu
cầm máu.
Thời gian đau chỗ đặt trocar trung bình
1,9±1,79 ngày, khoảng biến thiên từ 0 - 7 ngày.
Chúng tôi dùng phép kiểm phi tham số
Wilcoxon so sánh mức độ đau trước và sau mổ
của bệnh nhân, dựa trên thang điểm VAS trước
và sau mổ theo thời gian qua bảng 4 và 5.
Bảng 4: mô tả mức độ đau VAS trước và sau mổ theo
thời gian của nhóm ung thư tụy.
VAS
trước
mổ
VAS
sau
mổ 1
ngày
VAS
sau
mổ 1
tuần
VAS
sau
mổ 1
tháng
VAS
sau
mổ 3
tháng
VAS
sau
mổ 6
tháng
Ghi
nhận 36 36 36 32 12 0
N Không
ghi
nhận
0 0 0 4 24 36
Trung bình 7,9444 1,8333 0,8611 1,2813 2,000
Tối thiểu 6,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Tối đa 10,0 6,00 3,00 9,00 9,00
Giá trị p 0,000 0,000 0,000 0,002
Phép kiểm Wilcoxon cho ta thấy sau mổ 1
ngày, 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng, p < 0,05, chứng
tỏ sự giảm đau có ý nghĩa thống kê. Trong lô
nghiên cứu này chưa có bệnh nhân ung thư tụy
nào sống sau mổ trên 6 tháng nên không kiểm
định được.
* Trong nhóm ung thư tụy: 36 bệnh nhân
- 94,44% (34/36) trường hợp chỉ còn đau ít
hoặc không đau, VAS = 0- 3:
- 36,11% (13/36) hết đau, VAS = 0.
- 58,33% (21/34) đau ít sau mổ, VAS = 1- 3.
- 5,56% (2/36) đau lại nhiều gần như trước
mổ, nhưng tính chất đau thay đổi, bệnh nhân
đau khắp bụng hơn là đau khu trú ở thượng vị.
Bảng 5: Mô tả mức độ đau VAS trước và sau mổ theo thời gian của nhóm viêm tụy mạn
VAS trước mổ
VAS sau
mổ 1
ngày
VAS sau
mổ 1
tuần
VAS sau
mổ 1
tháng
VAS sau
mổ 3
tháng
VAS sau
mổ 6
tháng
VAS sau
mổ 9
tháng
VAS sau
mổ 1 năm
VAS sau
mổ 1 ½
năm
VAS sau
mổ 2 năm
Ghi nhận 14 14 14 14 14 13 10 8 8 7
N Không ghi
nhận 0 0 0 0 0 1 4 6 6 7
Trung bình 8,071 1,642 0,857 1,071 1,000 1,000 0,800 0,250 0,250 0,143
Tối thiểu 6,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Tối đa 10,0 6,00 4,00 7,00 8,00 8,00 3,00 1,00 1,00 1,00
Giá trị p 0,001 0,001 0,001 0,001 0,002 0,005 0,011 0,011 0,018
* Trong nhóm bệnh nhân viêm tụy mạn: 14
bệnh nhân
- 71,43% (1 tử vong + 9 hiện sống/14) hết đau
sau mổ, VAS = 0.
- 28,57% (1 tử vong + 3 hiện sống/14) đau ít
sau mổ, VAS = 1- 3.
1 bệnh nhân viêm tụy mạn không đau sau
mổ hơn 2 năm. 1 bệnh nhân bị thủng loét tá
tràng vào ngày thứ 4 hậu phẫu phải mổ bụng để
khâu thủng. Bệnh nhân này bị viêm tụy mạn
tính đã mổ trước đó 2 tháng, có phong bế thần
kinh tạng nhưng không hiệu quả, bệnh nhân
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 486
uống thuốc giảm đau thường xuyên loại NSAID.
Sau mổ bệnh nhân không đau bụng cho đến khi
tử vong (sau mổ 240 ngày).
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là
5,06 ± 2,94 ngày (1-13 ngày).
Không có tử vong do phẫu thuat trong lô
nghiên cứu này.
BÀN LUẬN
Trong 6 năm từ tháng 5/2004 – 2/2011 chúng
tôi thực hiện 48 trường hợp cắt thần kinh tạng
qua nội soi lồng ngực 2 bên và 2 trường hợp cắt
thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực 1 bên. Số
lượng của chúng tôi tương đương với các tác giả
trên thế giới.
Năm thực
hiện Tác giả Số bệnh nhân
1993-1998 Ihse(6) 21 viêm tụy mạn +23 ung thư tụy
1999-2002 Hammond(5) 20 ung thư tụy
1995-1997 Buscher(3) 26 viêm tụy mạn
2005 Basinski(2) 18 viêm tụy mạn
1993 Maher(9) 15 viêm tụy mạn
1995-1999 Buscher(4) 44 viêm tụy mạn
1997-1999 Leksowski(7) 26 ung thư tụy
1992-1997 Barthes(1) 20 ung thư tụy
1997-1999 Pietrabissa(11) 24 ung thư tụy
1997-1999 Leksowski(8) 20 viêm tụy mạn
1998 Noppen(10) 8 viêm tụy mạn
2004-2006 Chúng tôi 36 ung thư tụy + 14 viêm tụy mạn
Thời gian mổ trung bình của chúng tôi
117,58 phút, khoảng biến thiên 70 – 270 phút, là
do chúng tôi tính từ lúc rạch da đến khi kết thúc
cuộc mổ, sau khi đã cắt thần kinh tạng 2 bên,
không trừ đi thời gian chờ gây mê giúp phổi xẹp
và thay đổi tư thế bệnh nhân. Do đó nhìn chung
thời gian mổ của chúng tôi dài hơn các tác giả
khác. Trường hợp 270 phút là do có biến chứng
chảy máu do đặt trocar làm rách tĩnh mạch liên
sườn, không kiểm soát được qua nội soi phải mở
rộng vết mổ khâu cầm máu. Về sau khi đã có
kinh nghiệm sau khi đặt trocar nếu phổi chưa
xẹp tốt thì chúng tôi bơm khí CO2 với áp lực
thấp, giúp phổi xẹp nhanh hơn, màkhông ảnh
hưởng đến thông khí của bệnh nhân.
2 trường hợp chỉ cắt thần kinh tạng 1 bên
trái do có tiền căn lao phổi cũ, trên X quang phổi
có hình ảnh dày dính màng phổi 2 bên, chúng
tôi cố gắng cắt dây dính và cắt được thần kinh
bên trái, nhưng bên phải dính nhiều không thể
mổ được, có 1 trường hợp bị thủng phổi khi đặt
trocar bên phải vì màng phổi bị dính chặt, phải
mở ngực để khâu lại nhu mô phổi. Trong 2
trường hợp này chúng tôi cố gắng cắt thân thần
kinh tạng lớn, sau mổ cả 2 đều giảm đau tốt,
VAS = 1 sau mổ 1 tháng so với 8 trước mổ.
Từ 1990, Stones đã thực hiện cắt thần kinh
tạng qua ngả mở ngực. Tuy nhiên phẫu thuật
này không được chấp nhận rộng rãi vì sự nặng
nề của nó. 1993 Melki và Worsey mô tả kỹ thuật
cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực. Từ đó
đến nay đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng phẫu
thuật nội soi lồng ngực để cắt thần kinh tạng.
Đến nay chưa có hội nghị chuyên đề nào
khuyến cáo nên cắt thần kinh tạng bên trái, bên
phải hay cả hai bên. Đa số tác giả chọn bên phẫu
thuật dựa vào vị trí đau bụng của bệnh nhân.
Đối với cơn đau vùng giữa bụng hoặc bên trái,
họ cắt thần kinh tạng bên trái; đối với đau nỗi
trội ở bụng phải thì họ cắt thần kinh tạng bên
phải. Chưa có sự đồng thuận về việc nên cắt
thần kinh tạng một bên phải, trái hoặc hai bên
khi đau phân bố đều cả vùng thượng vị và hai
bên, nhiều tác giả áp dụng cắt thần kinh tạng
bên trái trước, vì theo thực nghiệm của Mallet
Guy chỉ khi kích thích thần kinh tạng trái thì
viêm tụy xảy ra, còn kích thích thần kinh tạng
phải thì không gây tác dụng đó. Tuy nhiên,
nhiều tác giả nhận thấy tất cả bệnh nhân đau cả
hai bên mà chỉ cắt thần kinh tạng bên trái thì sau
3 tháng đều bị đau tái phát phải mổ lại để cắt
dây thần kinh tạng phía đối diện. Do đó, ngày
càng nhiều tác giả tán đồng nên mổ cắt thần
kinh tạng hai bên để tránh phải mổ lại về sau(6,8).
Chúng tôi áp dụng phương pháp cắt thần kinh
tạng 2 bên để tránh việc mổ lại bên kia do đau
phát, hơn nữa bệnh nhân chúng tôi đa số eo hẹp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 487
về kinh tế và ở xa nên rất khó khăn nếu phải
nhập viện mổ lại.
Về giải phẫu thần kinh tạng, có 1 trường hợp
chúng tôi thấy chỉ có 1 nhánh xuất phát từ chuỗi
hạch giao cảm khoang liên sườn 5 trái, chạy dọc
xuống dưới mà không thấy có nhánh nối bên
nào khác. Trường hợp này chúng cắt cả thân,
sau mổ bệnh nhân hết đau thượng vị, VAS = 0.
Số nhánh thần kinh tạng trong lô nghiên cứu
của chúng tôi hơi nhỉnh hơn so với tác giả Ihse(6)
theo bảng sau.
Số nhánh thần kinh tạng
Trung vị Thấp nhất Cao nhất
Ihse 7 3 13
Chúng tôi 9 4 14
Chúng tôi theo dõi sau mổ đến 2/2011:
94,44% (34/36) bệnh nhân ung thư tụy tử vong
trước tháng thứ 5. Do đó chúng tôi chỉ đánh giá
được hiệu quả giảm đau sau mổ của nhóm ung
thư tụy tới tháng thứ 3 sau mổ, với kết quả ở
bảng 4 thì sau mổ đến tháng thứ 3 mức độ đau
giảm rất đáng kể, mức độ đau VAS trung bình
tháng thứ 3 sau mổ là 2,00 so với trước mổ là
7,91, với p = 0,002 < 0,05. Ơ những bệnh nhân có
đau thì đặc tính của đau cũng thay đổi nhất là vị
trí đau. Điều này Ihse(6) cũng nhận thấy như
chúng tôi.
Các bệnh nhân ung thư tụy giai đoạn cuối:
30 bệnh nhân được giảm đau gần như hoàn
toàn đến lúc tử vong, 6 bệnh nhân đau lại khi
gần tử vong (1 trường hợp VAS = 3, tử vong
sau mổ 22 ngày, chẩn đoán K tụy di căn phúc
mạc, xơ gan, báng bụng, không đau thượng vị
như trước mổ mà đau bụng dưới rốn; 3 trường
hợp VAS= 3, tử vong sau mổ từ 1-3 tháng;1
trường hợp VAS = 9, tử vong sau mổ 89 ngày,
chẩn đoán K tụy di căn hạch sau mổ K dạ dày
7 năm, đau khắp bụng, trong tình trạng gầy
suy kiệt; 1 trường hợp sau mổ 2 tuần đau lại
VAS=7, nhưng đau lưng chủ yếu khác trước
mổ đau thượng vị, kết quả giải phẫu bệnh có
carcinoma tuyến xâm nhập mô sợi thần kinh)
và tính chất đau khác so với trước mổ. Các
trường hợp đau lại đều có tính chất đau khác
trước mổ, như vị trí đau thay đổi, thường đau
khắp bụng, đau ở những chỗ có u cục nổi lên,
khi yêu cầu xác định chính xác vị trí và cường
độ đau thì đa số không còn đau như trước mổ.
Trong nhóm bệnh nhân mổ cắt thần kinh
tạng vì đau nhiều do viêm tụy mạn, có 2 trường
hợp đã tử vong trong bệnh cảnh tiểu đường
không kiểm soát được, suy kiệt, nhiễm khuẩn cơ
hội, vào ngày thứ 240 và 328 sau mổ cả 2 đều
không đau như trước mổ lúc gần tử vong, VAS=
0 và 3. 8 trường hợp sau mổ hết đau gồm:
trường hợp mổ đầu tiên, không đau sau mổ hơn
6 năm dù bệnh nhân đã uống bia lại (7-8 lon bia
mỗi lần, 2-3 lần trong tuần từ tháng thứ 4 sau
mổ), đây cũng là bệnh nhân hiện còn sống lao
động bình thường; 5 trường hợp sau mổ hơn 4
năm hết đau, VAS = 0; 1 trường hợp hết đau sau
mổ, VAS = 0 nhưng mất liên lạc sau 6 tháng; 1
trường hợp hết đau sau mổ, VAS = 0 mới mổ
được 8 tháng. 4 trường hợp sau mổ đau ít VAS =
1-3: 3 trường hợp VAS = 1 sau mổ 3 năm và 1
trường hợp mới mổ dưới 1 tuần, 1 trường hợp
VAS = 3 sau mổ 1 năm. Tất cả đều thỏa mãn với
tình trạng bớt đau, VAS = 0-3. Tuy số bệnh nhân
viêm tụy mạn còn ít, nhưng chúng tôi cũng thấy
có hiệu quả giảm đau đáng kể và bền vững
Trong lô nghiên cứu này 6% (3/50) có biến
chứng tổn thương tạng như thủng phổi, thủng
hoành + lách (trường hợp này được nội soi ổ
bụng thấy cầm máu nên không cắt lách). Tất cả
các trường hợp này sau khi xử lý biến chứng
diễn tiến hậu phẫu tương đối bình thường đến
ổn và xuất viện. Không có trường hợp nào tử
vong liên quan đến phẫu thuật.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng
ngực hai bên có hiệu quả trong điều trị đau do
bệnh lý tụy. Với kết quả bước đầu hiệu quả
giảm đau rất tốt trên bệnh nhân ung thư tụy
không có chỉ định mổ triệt để. Hiệu quả giãm
đau sau mổ rõ rệt và bền vững trên các bệnh
nhân viêm tụy mạn. Phẫu thuật an toàn, thời
gian nằm viện ngắn. Do đó phẫu thuật này cần
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 488
được chọn để điều trị đau do bệnh lý tụy khi
thất bại với các phương pháp điều trị bảo tồn
và xâm nhập khác.
Vấn đề tồn tại là khi mổ cắt thần kinh tạng
qua soi lồng ngực cần phải đặt nội khí quản với
ống thông hai nòng để làm xẹp phổi một bên, do
đó việc phổ biến kỹ thuật rộng rãi đến các tuyến
y tế cơ sở bị hạn chế. Tuy nhiên soi lồng ngực
với tư thế nằm sấp, úp mặt xuống hoặc bơm CO2
hay không khí có thể tránh được phiền toái của
việc sử dụng ống thông hai nòng này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barthes FLP, Chapius O, Riquet M, Cuttat JF, Peillon C,
Mouroux J, Jancovici R. Thoracoscopic splanchnicectomy for
control of intractable pain in pancreatic cancer. Ann Thorac
Surg 1998; 65: 810-813.
2. Basinski A, Stefaniak T, Vingerhoets A, Makarewicz W,
Kaska L, Stanek A, Lachinski AJ, Sledzinski Z. Effect of NCPB
and VSPL on pain and quality of life in chronic pancreatitis
patients. World J Gastroenterol 2005; 11(32): 5010-5014.
3. Buscher HC, Jansen JJ, van Goor H. Bilateral thoracoscopic
splanchnicectomy in patients with chronic pancreatitis. Scand
J Gastroenterol Suppl 1999; 230: 29-34.
4. Buscher HC, Jansen JB, van Dongen R, Bleichrodt RP, van
Goor H. Long-term results of bilateral thoracoscopic
splanchnicectomy in patients with chronic pancreatitis. Br J
Surg 2002; 89: 158-162.
5. Hammond B, Vitale GC, Rangnekar N, Vitale EA, Binford JC.
Bilateral thoracoscopic splanchnicectomy for pain control in
chronic pancreatitis. The American surgeon 2004; 70: 546- 549.
6. Ihse I, Zoucas E, Gyllstedt E, Lillo-Gil R, Andren-Sandberg A.
Bilateral thoracoscopic splanchnicectomy: effects on
pancreatic pain and function. Ann Surg 1999; 230(6): 785-791.
7. Leksowski K. Thoracoscopic splanchnicectomy for control of
intractable pain due to advanced pancreatic cancer. Surg
Endosc 2001; 15(2): 129-131.
8. Leksowski K. Thoracoscopic splanchnicectomy for the relief
of pain due to chronic pancreatitis. Surg Endosc 2001; 15(6):
592-596.
9. Maher JW, Johlin FC, Heitshusen D. Long-term follow-up of
thoracoscopic splanchnicectomy for chronic pancreatitis pain.
Surg Endosc 2001; 15(7): 706-709.
10. Noppen M, Meysman M, D’Haese J, Vincken W.
Thoracoscopic splanchnicolysis for the relief of chronic
pancreatitis pain: experience of a group of pneumologists.
Chest 1998; 113: 528-31.
11. Pietrabissa A, Vistoli F, Carobbi A, Boggi U, Bisa M, Mosca F.
Thoracoscopic splanchnicectomy for pain relief in
unresectable pancreatic cancer. Arch Surg 2000; 135(3): 332-
335.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cat_than_kinh_tang_qua_noi_soi_long_nguc_dieu_tri_dau_do_ung.pdf