Thật khó mà so sánh một cách chi tiết giữa
mổ nội soi và mổ mở trong cắt thuỳ phổi vì
nhóm mổ mở thường có độ khó hơn, khối u có
kích thước lớn hơn, hay phổi thường dính hơn,
nhiều hạch xâm lấn hơn. So sánh thống kê hai
nhóm này dễ bị thiên lệch (bias). Tuy nhiên,
chúng tôi không thấy có sự khác nhau về thời
gian phẫu lưu ống dẫn lưu sau mổ, thời gian
xuất nằm viện sau mổ, mức độ mất máu cũng
như các biến chứng khác.
Mổ nội soi khi có kinh nghiệm cũng có thời
gian mổ tương đương mổ mở, tuy phẫu tích có
thận trọng hơn, mất thời gian hơn nhưng lại
không mất thời gian mở và đóng ngực
Mức độ đau sau mổ giảm rõ ở nhóm mổ
nội soi, sẹo nhỏ hơn rất nhiều, cơ liên sườn
không bị cắt làm giảm rõ những tác động của
việc cắt cơ mở toang thành ngực để lại sau này
cho bệnh nhân.
Một vấn đề còn bàn cãi là mổ nội soi cho
những giai đoạn nào của ung thư phổi. Chúng
tôi thấy giai đoạn nào có thể mổ mở được và có
chỉ định mổ mở đều có thể mổ nội soi được. Vấn
đề phụ thuộc vào kỹ năng và phương pháp của
phẫu thuật viên. Tuy nhiên, hạch than là khắc
tinh cho mổ nội soi. Tỷ lệ hạch than ở các nước
có khói bụi nhiều như Việt Nam là rất cao. Gặp
những hạch than lớn, cứng ở rãnh liên thuỳ ôm
quanh động mạch phổi là một trở ngại rất lớn.
Đối với những hạch cứng chắc, dính, ôm gọn
động mạch hoặc dính gắn chắc động mạch với
phế quản thì tỷ lệ chuyển mổ mở rất cao.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 150 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cắt thuỳ phổi nội soi 56 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 284
CẮT THUỲ PHỔI NỘI SOI 56 TRƯỜNG HỢP
Vũ Hữu Vĩnh*, Ngô Quốc Hưng*, Châu Phú Thi*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Cắt thùy phổi nội soi là vấn đề không mới nhưng kỹ thuật để tiến hành nó còn nhiều tranh cãi.
Xu hướng cải tiến là làm sao có ít đường vào nhất, đường mổ nhỏ nhất mà cắt được thuỳ phổi an toàn, dễ dàng
thực hiện cho phẫu thuật viên. Chúng tôi áp dụng đường rạch nhỏ 2.5 – 3 cm (working incision – đường thao tác)
và 2 lỗ troca 10 mm qua kinh nghiệm 56 trường hợp.
Phương pháp: Hồi cứu 56 trường hợp được phẫu thuật nội soi cắt thuỳ phổi trong khoảng thời gian 4 năm
(từ tháng 10/2009 đến 2/2013) do cùng một nhóm PTV thực hiện. Bệnh nhân bao gồm những ca u phổi, phân
giai đoạn trước mổ tới 2B, hoặc có các bênh phổi khác có chỉ định cắt thuỳ phổi. Đường mổ bao gồm một đường
thao tác 2,5 cm ở khoang liên sườn 4 hoặc 5 và hai lỗ 10cm dùng đảo nhau cho ống soi và dụng cụ phẫu thuật.
Thuỳ phổi cắt bỏ được cho vào túi nilon và lấy ra qua đường thao tác mà không cần mở rộng vết môt. Khi cần
chuyển mổ mở, mở rộng đường thao tác như một đường mở ngực tiêu chuẩn.
Kết quả: Đường mổ đã mô tả cho phép tiếp cận tốt các mặt của phổi, cắt phổi trọn thuỳ (một hoặc hai thuỳ)
và nạo vét hạch triệt để. Có 10 case phải chuyển sang mổ mở, 56 case được cắt thuỳ phổi hoàn toàn bằng nội soi.
Trong những ca mổ nội soi, có 2 ca chảy máu sau mổ mức độ nhẹ cần lưu ống dẫn lưu tới ngày thứ 4, các ca còn
lại đều cho kết quả tốt, rút ống dẫn lưu sau 2 đến 3 ngày. Không có tử vong. Thời gian mổ trung bình là 3h, thời
gian nằm viện trung bình là 7 ngày
Kết luận: Đường mổ 2,5-3cm cộng với 2 lỗ troca 10mm có thể thực hiện tốt các ca cắt thuỳ phổi có u tới 5cm
hoặc phân giai đoạn trước mổ tới 2B. Mổ nội soi cắt thuỳ phổi an toàn, ít đau, ít biến chứng, phục hồi nhanh. Tuy
nhiên không có sự khác biệt về thời gian mổ, thời gian rút ống dẫn lưu và thời gian nằm viện so với mổ mở.
Từ khoá: Cắt thùy phổi nội soi, đường thao tác, các mặt của phổi, thuỳ phổi cắt bỏ
ABSTRACT
VIDEO-ASSISTED THORACOSCOPIC (VATS) LOBECTOMY. EXPERIENCE OVER 56 CASES
Vu Huu Vinh, Ngo Quoc Hung, Chau Phu Thi
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 284-289
Objective: VATS lobectomy is not new issue but the technique to perform it is still controversial. The trend
is getting smaller incisions and lesser entrance ports but enable the surgeon to perform anatomical lobectomy with
ease. Our technique is using one 2.5 to 3cm working incision and two other 10mm ports demonstrated in a series
of 56 cases.
Method: We reviewed 56 patients who underwent VATS lobectomy by the same surgeons over a period of 4
years (from Oct. 2009 to Feb. 2013) in our Dept. of Thoracic Surgery, Choray Hospital. Cases include lung cancer
staging up to 2B and other lung diseases that require lobectomy. We access the lung by a 2.5 – 3cm working
incision at 4th or 5th intercostal space and two other exchangeable 10mm ports for the scope and endoscopic
instruments. The resected lobe (s) was (were) put in a plastic bag and taken out via working incision (without
further incision). In case of changing to open thoracostomy, the standard practice would be to widen the working
incision.
* Khoa Ngoại Lồng Ngực bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS. Vũ Hữu Vĩnh; ĐT: 0907353999, Email: vhvinh@hcm.vnn.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 285
Results: The described incision and ports could access all aspects of the lung, enable surgeon to perform a
total endoscopic lobectomy and lymph node(s) resection with ease. 10 cases were changed to open thoracostomy,
total VATS successfully performed in 56 cases. Of VATS cases, 2 had trivial bleeding that required a chest tube
for 4 days. Others had a good result, keeping the chest tube in for 2 or 3 days. No mortality. The main operation
time is 3 hours and the main hospitalization is 7 days.
Conclusion: The above described incisions and ports enables the surgeon to perform total VATS lobectomy
for lung tumors sized up to 5cm and/ or lung cancer staging up to 2B. VATS lobectomy is safe, less pain, fewer
complications and rapid recovery. Nevertheless, there are no differences in the length of the operation, the time
having chest tube and hospitalization time.
Keywords: VATS (Video – assisted thoracoscopic) lobectomy, working incision, aspects of the lung, the
resected lobe
Cắt thuỳ phổi là một kỹ thuật kinh điển,
lâu đời. Cắt thuỳ phổi nội soi là một vấn đề
tương đối mới ở Việt Nam. Ngay cả trên thế
giới, định nghĩa thế nào là cắt thuỳ phổi nội
soi vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Bản thân từ
VATS mang hàm nghĩa hỗ trợ nội soi. Nghĩa
là nội soi hỗ trợ cho phẫu thuật. Nhưng hỗ trợ
ở điểm nào, hỗ trợ tới mức nào thì mỗi nơi có
một cách hiểu và thực hành riêng. Nhưng bản
chất của tiến bộ kỹ thuật là càng ít xâm lấn mà
đạt cùng một kết quả điều trị thì càng tốt.
Theo đúng xu hướng đó, quan điểm của
chúng tôi là càng ít lỗ vào càng tốt, đường mở
nhỏ nếu có thì càng nhỏ càng tốt, nhỏ nhất mà
có thể lấy thuỳ phổi đã cắt bỏ có khối u ra
ngoài. Cập nhật những tiến bộ hiện nay qua
các hội thảo quốc tế và khu vực, tại thời điểm
báo cáo, chúng tối áp dụng đường mổ nhỏ
nhất (2.5 – 3 cm) với số lượng lỗ vào ít nhất,
thêm 2 lỗ troca với đường mổ nhỏ đã nói trên
là 3 đường vào, tạo nên tam giác nội soi kinh
điển mà không cần lỗ thứ tư để hỗ trợ như
nhiều tác giả khác.
Chúng tôi bắt đầu mổ nội soi cắt thuỳ phổi
vào tháng 9 năm 2009 và báo cáo kinh nghiệm
qua 15 ca tại hội nghị nội soi Châu Á Thái Bình
Dương tại Hà Nội năm 2010 (ELSA 2010). Do
trang thiết bị nội soi cắt phổi không đồng bộ,
một số dụng cụ phải tự mua nên số lượng ca mổ
nội soi cắt phổi được thực hiện không đều. Tới
2012, nội soi cắt thuỳ phổi lại được mở rộng chỉ
định và thực hiện cho hầu hết các ca có đủ tiêu
chuẩn cắt nội soi.
Bên cạnh các ca với tiêu chuẩn được nêu trên
(đường working 2,5 – 3 cm + 2 troca 10mm) cũng
có những cách làm khác không được đưa vào
báo cáo này.
PHƯƠNG PHÁP
Chúng tôi áp dụng đường mổ 2,5 – 3 cm
ngay từ đầu tại khoang liên sườn 4 nếu là thuỳ
trên và liên sườn 5 nếu là thuỳ dưới. Vị trí của
đường thao tác này thường ở đường nách
giữa, có thể lệch ra trước hoặc ra sau một chút
tuỳ bên mổ. Chúng tôi luôn đứng bên phải
bệnh nhân cho dù cắt thuỳ phổi bên trái hay
bên phải. Qua đường thao tác này, camera
được đưa vào để quan sát phổi và thành ngực,
đánh giá sơ bộ tình trạng khối u, mức độ dính
và vị trí của 2 troca còn lại. Vị trí của 2 troca
còn lại được mở khá thấp, sát vòn hoành, tạo
điều kiện để có một tam giác nội soi đủ rộng
để thao tác, tạo thoải mái cho phấu thuật viên,
tránh xung đột dụng cụ, có thể thực hiện được
các kỹ thuật khó như bóc tách mạch máu phổi,
bóc tách hạch dính với thời gian nhanh gần
tương đương với mổ mở. 2 lỗ troca này có thể
hoán đổi việc dung camera và dụng cụ nội soi
cho nhau. Như vậy chỉ có một lỗ cho scope do
người phụ cầm và 2 lỗ cho 2 tay của phẫu
thuật viên thao tác. Các rãnh liên thuỳ được
cắt bằng dao siêu âm (harmonic) hoàn toàn.
Chúng tôi không bao giờ dùng stapler để cắt
rãnh liên thuỳ cho dù là không hoàn toàn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 286
(incomplete). Các động mạch, tĩnh mạch phổi
và phế quản thuỳ được cắt bằng stapler với
kích thước và độ dầy kim kẹp tương ứng.
Đường mổ nội soi cắt thuỳ phổi
Sẹo sau mổ nội soi cắt thuỳ phổi
Nội soi chuyển mổ mở
Chúng tôi dùng stapler của 2 hãng là
Johnson & Johnson và Covidien. Hầu hết chúng
tôi dùng 03 stapler nếu cắt thuỳ dưới và 4 nếu
cắt thuỳ trên phải, 4 hoặc 5 nếu cắt thuỳ trên trái.
Để làm được điều này cần bóc tách tốt các rãnh
liên thuỳ bằng dao siêu âm, chỉ dùng stapler cho
các thành phần động mạch, tĩnh mạch và phế
quản thuỳ phổi. Động mạch phổi thuỳ dưới phải
được gom các nhánh, bao gồm cả đ.m S6 vào và
chỉ dùng 01 stapler để cắt. Đối với thuỳ trên, rất
khó có thể gom tất cả các nhánh đ.m phân thuỳ
vào một lần cắt nên thường dùng 2, đôi khi là 3
stapler cho các nhánh này. Đôi khi hemolock
hoặc clip được dùng cho 1 nhánh đm phân thuỳ
có đường kính nhỏ nhưng không an toàn và
chúng tôi vẫn muốn dùng stapler hơn.
KẾT QUẢ
Trong 4 năm (từ tháng 10/ 2009 đến 2/2013),
có 56 ca được cắt thuỳ phổi nội soi dùng phương
pháp trên. Tỷ lệ khá đồng đều cho các thuỳ phổi
2 bên. Chỉ có 1 ca cắt 2 thuỳ (bilobectomy).
Không có ca nào phải dùng stapler để cắt rãnh
liên thuỳ. Có 3 ca phải khâu tăng cường nhu mô
phổi khi kiểm tra chỗ cắt rãnh liên thuỳ có xì khí.
Không có ca nào phải khâu tái tạo phế quản
dạng sleeve resection
LLL LUL RLL RML RUL RU+ML Tổng
12 10 16 3 14 1 56
Cơ cấu bệnh
Ung thư U Lao Nấm phổi Viêm Tổng
48 6 1 1 56
85,7 % 10,7 % 1,7 % 1,7 %
Kích thước khối u lớn nhất được cắt bỏ tới
7cm, u xâm lấn 2 thuỳ đòi hỏi cắt phải cắt thuỳ
trên và giữa phải có 1 trường hợp. Hầu hết các ca
có hạch cạnh phế quản, dính động mạch phổi
gây khó khăn cho bóc tách, đặc biệt nhiều ca
(không được thống kê đầy đủ) có hạch than
(anthracite lymph node) rất cứng và dính gây
khó khăn cho phẫu tích và cũng là nguyên nhân
chính phải chuyển sang mổ mở do không thể
bóc tách nội soi được hoặc bóc tách gây chẩy
máu lớn.
Thời gian mổ trung bình: Tính từ lúc rạch da
cho tới khi đóng xong vết mổ: 180 phút. Thời
gian mổ rút ngắn đáng kể ở thời gian sau này,
chỉ tương đương mổ mở (khoảng 2,5h).
Thời gian lưu ống dẫn lưu: 02 ngày
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình: 07 ngày
Biến chứng
Ra dịch hồng kéo dài trên 4 ngày: 02 ca
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 287
Ra khí nhiều ở ống dẫn lưu sau mổ: 0
Chảy máu lớn sau mổ cần mổ lại: 0
Trành khí sau rút ống dẫn lưu: 1 ca
Áp xe thành ngực tại lỗ troca sau mổ: 1 ca
Tràn dịch màng phổi kéo dài sau rút ống dẫn
lưu: 04 ca, có 1 ca cần chọc hút, ra dịch vàng
nhạt. 3 ca còn lại tự hấp thu.
Tử vong: 0
BÀN LUẬN
Cắt thuỳ phổi nội soi không phải là một
phương pháp điều trị mới, chỉ là cách thực hiện
kỹ thuật cắt thuỳ phổi một cách ít xâm lấn. Tuy
nhiên ít xâm lấn đến mức độ nào và thực hiện
được ở độ khó nào thì tuỳ thuộc rất nhiều vào kỹ
thuật thực hiện, bao gồm cả đường vào và kỹ
năng sử dụng dụng cụ nội soi của phẫu thuật
viên. Vì thế không lấy gì làm lạ khi người này
nói chỉ có thể mổ nội soi cắt thuỳ phổi ở giai
đoạn sớm, 1b hoặc 2a trở lại, người khác lại nói
có thể làm đến 2b, thậm chí 3a. Cũng có phẫu
thuật viên rạch đường thao tác tới 4, 5, thậm chí
tới 6 cm, có người rạch tới 2 đường, có người
dùng tới 3 lỗ troca thêm vào. Cũng có người chỉ
dùng 3 lỗ troca ban đầu, cuối cùng cũng rạch
ngực tới 3cm để lấy phổi đã cắt ra.
Tiêu chí để đánh giá một phương pháp mổ
nội soi cắt thuỳ phổi vì thế bao gồm:
- Tổng chiều dài đường mổ: bao gồm tổng cả
đường thao tác và các lỗ troca, hình thức các sẹo
sau mổ.
- Có banh giãn các xương sườn ra không:
ảnh hưởng đến rách rộng cơ liên sườn và đau
sau mổ.
Thời gian mổ: ảnh hưởng đến lượng thuốc
mê, chiếm thời gian phòng mổ, kéo dài thường
gây ngại cho cả kíp gây mê lẫn phẫu thuật, vì thế
mà sẽ ngại mổ nội soi
Mức độ khó của ca mổ có thể thực hiện
được: kích thước khối u, mức độ xâm lấn hạch,
giai đoạn ung thư phổi.
Các yếu tố phụ trợ: lượng máu mất trong
mổ, sự gọn gàng và rõ ràng ở các thì mổ, độ
nhàn của phẫu thuật viên, số lượng người phụ,
hỗ trợ.
Phương pháp mà chúng tôi áp dụng có tổng
tất cả các đường mổ là 5cm, bao gồm: đường
thao tác 3cm (max) + 2 troca 10 mm = 5cm
Không dùng bất cứ dụng cụ banh sườn hay
wound protector nào
Chỉ cần một kíp mổ 2 người: vì chỉ có 3 lỗ
vào (2 troca và 1 đường thao tác) nên cũng chỉ
cần một phụ cầm scope (camera man) và phẫu
thuật viên chính sử dụng 2 tay qua 2 lỗ còn lại
mà không cần người hỗ trợ kéo vén cho việc
phẫu tích. Việc phẫu tích được thực hiện hầu hết
bằng dao siêu âm và stapler. Việc nâng vén, bộc
lộ để tạo điều kiện thuật lợi cho phẫu tích được
dùng bằng “pea-nut” tự tạo một cách đơn giản
bằng panh kelly dài kẹp đầu gạc. Đường thao tác
2,5 – 3 cm mở ngay từ đầu tạo điều kiện rất tốt
cho việc đưa gạc nhỏ hoặc meches vào trong
trường mổ, bơm rửa, hút mô phỏng như trong
mổ mở và nhờ đó cho phép phẫu thuật viên
thao tác khá thoải mái như mổ mở chỉ khác là
thay vì nhìn trực tiếp (direct view) thì nhìn
qua màn hình (video view). Cách nhìn nửa
trực tiếp nửa qua video ở những đường mổ
rộng hơn không nên được khuyến khích vì
thường phải rạch đường thao tác rộng hơn, và
có xu hướng dùng dụng cụ nhỏ banh rộng vết
mổ, thực chất là banh xương sườn ra. Tuy
nhiên cách này có thể áp dụng cho một vài ca
đầu tay ở những nơi không có người hướng
dẫn phải mày mò làm từ đầu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 288
Đường thao tác 2,5 -3 cm ở khoang liên sườn
4 cho thuỳ trên và 5 cho thuỳ dưới cũng là
đường thích hợp để mở rộng khi cần chuyển
sang mổ mở. Lỗ camera trở thành lỗ đặt ống dẫn
lưu sau mổ. Các lỗ troca và đường rạch trong mổ
nội soi không hợp lý sẽ rất khó chuyển sang mổ
mở hoặc nếu không phải rạch một đường hoàn
toàn mới mà không tận dụng được bất kỳ các
đường rạch nào trước đó, sẹo mổ sau này sẽ trở
thành các vết ngang dọc chằng chịt.
Thật khó mà so sánh một cách chi tiết giữa
mổ nội soi và mổ mở trong cắt thuỳ phổi vì
nhóm mổ mở thường có độ khó hơn, khối u có
kích thước lớn hơn, hay phổi thường dính hơn,
nhiều hạch xâm lấn hơn. So sánh thống kê hai
nhóm này dễ bị thiên lệch (bias). Tuy nhiên,
chúng tôi không thấy có sự khác nhau về thời
gian phẫu lưu ống dẫn lưu sau mổ, thời gian
xuất nằm viện sau mổ, mức độ mất máu cũng
như các biến chứng khác.
Mổ nội soi khi có kinh nghiệm cũng có thời
gian mổ tương đương mổ mở, tuy phẫu tích có
thận trọng hơn, mất thời gian hơn nhưng lại
không mất thời gian mở và đóng ngực
Mức độ đau sau mổ giảm rõ ở nhóm mổ
nội soi, sẹo nhỏ hơn rất nhiều, cơ liên sườn
không bị cắt làm giảm rõ những tác động của
việc cắt cơ mở toang thành ngực để lại sau này
cho bệnh nhân.
Một vấn đề còn bàn cãi là mổ nội soi cho
những giai đoạn nào của ung thư phổi. Chúng
tôi thấy giai đoạn nào có thể mổ mở được và có
chỉ định mổ mở đều có thể mổ nội soi được. Vấn
đề phụ thuộc vào kỹ năng và phương pháp của
phẫu thuật viên. Tuy nhiên, hạch than là khắc
tinh cho mổ nội soi. Tỷ lệ hạch than ở các nước
có khói bụi nhiều như Việt Nam là rất cao. Gặp
những hạch than lớn, cứng ở rãnh liên thuỳ ôm
quanh động mạch phổi là một trở ngại rất lớn.
Đối với những hạch cứng chắc, dính, ôm gọn
động mạch hoặc dính gắn chắc động mạch với
phế quản thì tỷ lệ chuyển mổ mở rất cao.
KẾT LUẬN
Mổ nội soi cắt thuỳ phổi là xu hướng tất yếu.
Nếu phẫu thuật viên rèn luyện kỹ năng tốt và có
phương pháp đúng, nó được áp dụng rộng rãi
gần như thay thế cho mổ mở. Không có giới hạn
giai đoạn ung thư phổi cho mổ nội soi. Đường
rạch da 2,5 – 3 cm đủ để lấy phổi đã cắt ra. Bệnh
nhân được mổ nội soi ít đau sau mổ, sẹo nhỏ,
thẩm mỹ. Không có sự khác biệt đáng kể về thời
gian mổ, lượng máu mất, biến chứng, thời gian
lưu ống dẫn lưu sau mổ cũng như thời gian nằm
viện sau mổ so với mổ mở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Allen MS, Darling GE, Pechet TT, et al.(2006). Morbidity and
mortality of major pulmonary resections in patients with
early-stage lung cancer: initial results of the randomized,
prospective ACOSOG Z0030 trial. Ann Thorac Surg ;81: 1013–
20.
2. D’Amico TA. (2008) Thoracoscopic segmentectomy: technical
con- siderations and outcomes. Ann Thorac Surg.;85(Suppl):
S716 – 8.
3. Gonzalez-Rivas D, Paradela M, Fieira E, et al.(2012). Single-
incision video-assisted thoracoscopic lobectomy: initial results.
J Thorac Cardiovasc Surg.;143:745-7.
4. Lewis RJ, Caccavale RJ, Sisler GE, et al (1997). One hundred
video-assisted thoracic surgical simultaneously stapled
lobectomies without rib spreading. Ann Thorac Surg.;63:1415-
21; discussion 1421-2.
5. Mahtabifard A, Fuller CB, McKenna RJ Jr.(2008) Video-
assisted thoracic surgery sleeve lobectomy: a case series. Ann
Thorac Surg ;85(Suppl):S729–32.
6. McKenna RJ Jr, Houck W, Fuller CB (2006). Video-assisted
thoracic surgery lobectomy: experience with 1,100 cases. Ann
Thorac Surg.;81:421–6.
7. Okada M, Sakamoto T, Yuki T, et al.(2005). Hybrid surgical
approach of video-assisted minithoracotomy for lung cancer:
significance of direct visualization on quality of surgery. Chest
;128:2696-701.
8. Rueth NM., Andrade RS. (2010). Is VATS Lobectomy Better:
Perioperatively, Biologically and Oncologically? Ann Thorac
Sur; 89:2107-2111
9. Sahai RK, Nwogu CE, Yendamuri S, et al. (2009) Is
thoracoscopic pneumonectomy safe? Ann Thorac Surg
;88:1086–92.
10. Swanson SJ, Herndon JE 2nd, D’Amico TA, et al. (2007).
Video- assisted thoracic surgery lobectomy: report of CALGB
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 289
39802—a prospective, multi-institution feasibility study. J Clin
Oncol;25:4993–7.
11. Vũ Hữu Vĩnh, Nguyễn Đức Khuê, Nguyễn Văn Khôi (2010).
VATS lobectomy – initial experience over 15 cases. ELSA.
Conference Presentation
12. Whitson BA, Groth SS, Duval SJ, et al.(2008). Surgery for early-
stage non-small cell lung cancer: a systematic review of the
video-assisted thoracoscopic surgery versus thoracotomy
approaches to lobectomy. Ann Thorac Surg.;86:2008-16;
discussion 2016-8.
13. Yan TD, Black D, Bannon PG, et al (2009). Systematic review
and meta-analysis of randomized and nonrandomized trials
on safety and efficacy of video-assisted thoracic surgery
lobectomy for early-stage non-small-cell lung cancer. J Clin
Oncol. 27:2553-62.
Ngày nhận bài: 12/03/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 26/08/2013
Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cat_thuy_phoi_noi_soi_56_truong_hop.pdf