Tại sao có sự khác biệt giữa chỉ số TVN và
TDXA ? Lý do hiển nhiên nhất là do khác biệt về
pBMD và SD. Thông thường thông số SD rất ít
dao động giữa các quần thể, cho nên có lẽ lý do
chính là pBMD được sử dụng trong máy DXA
cao hơn pBMD thực tế ở người Việt Nam. Thật
vậy, giả dụ rằng SD của BMD ở cổ xương đùi là
0.12, và TDXA chúng tôi có thể ước tính pBMD
cho nam và nữ lần lượt là 0.90 và 0.87 g/cm2.
Trong khi đó, pBMD thực tế qua nghiên cứu của
chúng tôi là 0,85 và 0,80 g/cm2. Rất có thể pBMD
đang sử dụng trong máy DXA xuất phát từ một
quần thể khác, không phải từ người Việt Nam.
Chúng ta biết rằng có sự khác biệt đáng kể về
pBMD giữa các sắc dân. Chẳng hạn như người
da đen có BMD cao hơn người da trắng, và
người da trắng có BMD cao hơn người Á châu.
Nhưng ngay cả trong quần thể người Á châu
cũng có sự khác biệt BMD giữa các sắc dân(4,6).
Trong nghiên cứu này, mối liên hệ giữa
BMD và độ tuổi tuân theo hàm số đa thức bậc 3.
Mối liên hệ này cũng được ghi nhận trong một
nghiên cứu trước đây ở Hà Nội. Theo hàm số
này, thấy phụ nữ Việt Nam đạt pBMD ở độ tuổi
27-29, tức cao hơn so với phụ nữ Âu Mĩ da trắng
(20-25 tuổi). Khó có thể xác định nguyên nhân
cho sự khác biệt này, nhưng một xu hướng
chung đã được ghi nhận trong y văn là phụ nữ
Á châu thường có kinh trễ hơn so với người da
trắng (13 tuổi so với 12 tuổi). Các yếu tố dinh
dưỡng và nồng độ estrogen cũng như các
hormone giới tính khác (sex steroids) có thể là
nguyên nhân của sự khác biệt này(2)
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 202 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chẩn đoán loãng xương: Ảnh hưởng của giá trị tham chiếu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 150
CHẨN ĐOÁN LOÃNG XƯƠNG:
ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁ TRỊ THAM CHIẾU
Hồ Phạm Thục Lan*, Phạm Ngọc Hoa***, Lại Quốc Thái**, Nguyễn Dạ Thảo Uyên*,
Nguyễn Đình Nguyên****, Nguyễn Văn Tuấn****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hiện nay, tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán loãng xương là dựa vào chỉ số T (T-score) của cổ
xương đùi đo bằng máy DXA. Chỉ số T là kết quả của 2 thông số: mật độ xương đỉnh (peak bone mineral density
– pBMD) và độ lệch chuẩn (SD). Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào để xác định 2 thông
số đó ở người Việt.
Mục tiêu: xác định pBMD và SD và đánh giá sự tương đương giữa chỉ số T của người Việt (gọi tắt là TVN)
và chỉ số T do máy cung cấp (TDXA).
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang (cross-sectional study), với 1227 cá nhân (gồm 357 nam
và 870 nữ), tuổi từ 18 đến 89 được chọn ngẫu nhiên trong các quận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Mật độ
xương (BMD) ở cổ xương đùi, xương cột sống và toàn thân được đo bằng máy DXA Hologic QDR 4500. Ngoài
ra, chúng tôi còn thu thập các dữ liệu về nhân trắc và tiền sử lâm sàng của từng cá nhân. Chúng tôi áp dụng mô
hình hồi qui đa thức (polynomial regression) và phương pháp phân tích tái chọn mẫu (resampling method hay
còn gọi là bootstraps) để xác định pBMD và SD. Dựa vào 2 thông số này, chúng tôi tính chỉ số TVN cho từng cá
nhân. Loãng xương được chẩn đoán khi TVN ≤ -2,5, thiếu xương nếu -2,5 -
1,0. Một chẩn đoán như thế cũng được áp dụng cho TDXA. Sau đó, chúng tôi so sánh kết quả của 2 chẩn đoán.
Kết quả: Ở nữ, dựa vào chỉ số TVN ở cổ xương đùi, tỷ lệ loãng xương là 28,6%, nhưng dựa vào TDXA tỷ lệ
loãng xương là 43,7%. Ở nam, tỷ lệ loãng xương dựa vào TVN là 10,4%, thấp hơn khoảng 20% khi so với tỷ lệ
loãng xương dựa vào TDXA (29,6%). Ở nam, trong số 40 người được TDXA phân nhóm là loãng xương, có đến
65% (n = 26) người thật sự là thiếu xương dựa vào tiêu chuẩn của TVN. Tương tự, ở nữ, trong số 177 người mà
TDXA xếp vào nhóm loãng xương, có đến 35% (n = 61) thật ra là thiếu xương dựa vào tiêu chuẩn của TVN. Hệ số
tương đồng (kappa) giữa 2 chẩn đoán TVN và TDXA là 0,54 cho nữ và 0,41 cho nam.
Kết luận: Những dữ liệu vừa trình bày cho thấy nếu dựa vào chỉ số T do máy DXA cung cấp có thể chẩn
đoán nhiều ca loãng xương hơn so với thực tế. Chúng tôi đề nghị sử dụng số liệu của công trình nghiên cứu này
làm giá trị tham chiếu cho chẩn đoán loãng xương ở người Việt.
Từ khóa: loãng xương, chỉ số T, mật độ xương đỉnh.
ABSTRACT
THE DIAGNOSIS OF OSTEOPOROSIS: THE INFLUENCE OF REFERENCE VALUES
Ho Pham Thuc Lan, Pham Ngoc Hoa, Lai Quoc Thai, Nguyen Da Thao Uyen, Nguyen Dinh Nguyen,
Nguyen Van Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 149 - 158
Introduction: Currently, the diagnosis of osteoporosis is based on a measurement of femoral neck bone
mineral density, which is expressed as a T-score. The T-score is provided by a specific DXA instrument.
* Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, ** Khoa khớp – Bệnh viện 115
*** Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
**** Đại học New South Wales và Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan, Sydney, Australia
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Hồ Phạm Thục Lan Email: thuclanhopham@pnt.edu.au
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 151
Theoretically, T-score is derived from two parameters: peak bone mineral density (pBMD) and standard deviation
(SD) of pBMD. In Vietnam, no study has been conducted to estimate the parameters.
Objectives: (a) to determine pBMD and SD; and (b) to assess the concordance between T-scores derived
from the Vietnamese population (TVN) and T-scores provided by the DXA instrument (TDXA).
Methods: The study was designed as a cross-sectional investigation, which involved 1227 individuals
(including 357 men and 870 women), aged between 18 and 89 years, who were randomly sampled from various
districts within the Ho Chi Minh City. BMD at the femoral neck, lumbar spine and whole body was measured by
DXA Hologic QDR 4500. In addition, we collected data concerning anthropometry and clinical history for all
individuals. We used several polynomial regression models and bootstraps method to determine pBMD and SD.
Based on the two parameters, we computed TVN for each individual in the study. Osteoporosis was defined as TVN ≤
-2.5; osteopenia: -2.5 -1.0. A similar diagnosis was also done based on TDXA.
We then compared the concordance in diagnosis between the two methods.
Results: pBMD in men was greater than in women, but the time of reaching pBMD in men was later than
women. In women, based on femoral neck TVN, the prevalence of osteoporosis was 28.6%, but when the diagnosis
was based on TDXA, the prevalence was 43.7%. In men, the TVN-based prevalence of osteoporosis was 10.4%, which
was lower than TDXA-based prevalence (29.6%). Thus, TDXA tended to over-diagnose osteoporosis than did TVN, and
the difference was mainly occurred in the osteopenic group. For example, among 40 men diagnosed by TDXA to
have osteoporosis, there was 65% (n = 26) men were actually osteopenia by TVN. Similarly, among 177 women
who were diagnosed with osteoporosis by TDXA, 35% (n = 61) were actually osteopenia by TVN. The kappa statistic
(a measure of concordance between the two diagnoses) was 0.54 for women and 0.41 for men.
Conclusion: These data suggest that the T-scores provided by the Hologic QDR4500 over-diagnosed
osteoporosis in Vietnamese men and women. We propose to use the data developed in this study as a diagnostic
reference range for the Vietnamese population.
Key words: osteoporosis, T-score, peak bone mineral density.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Loãng xương được định nghĩa là một bệnh
mà lực của xương suy giảm và dẫn đến dễ gãy
xương(1). Lực của xương có thể đo lường qua
mật độ xương (bone mineral density – BMD).
Do đó, hiện nay việc chẩn đoán loãng xương
dựa vào đo lường BMD(2). BMD biến chuyển
theo độ tuổi: tăng nhanh trong thời kỳ niên
thiếu, đạt mức độ đỉnh (peak BMD) vào khoảng
độ tuổi 20-30, và sau một thời gian ổn định,
BMD bắt đầu suy giảm theo nồng độ estrogen
(ở nữ) hay độ tuổi (ở nam)(3). Do đó, BMD của
một cá nhân thường được so sánh với mức độ
BMD đỉnh, và đơn vị tính toán là độ lệch chuẩn
(standard deviation). Nếu gọi BMD của một cá
nhân i là BMDi, BMD đỉnh của một quần thể là
pBMD, và độ lệch chuẩn của pBMD trong quần
thể là SD, chỉ số T được định nghĩa như sau:
SD
pBMDBMDiT [1]
Theo đề nghị của Tổ chức Y tế Thế giới(2),
nếu T bằng hoặc thấp hơn -2,5 thì được chẩn
đoán là loãng xương (osteoporosis); nếu T trong
khoảng -2,5 và -1,0 là thiếu xương (osteopenia);
và nếu T cao hơn -1,0 là bình thường (normal).
Mô hình [1] cho thấy 2 thông số chính của
việc chẩn đoán loãng xương chính là mật độ
xương đỉnh pBMD và độ lệch chuẩn SD. Hai
thông số này thường phải được xác định
trong một quần thể dân số. Bởi vì BMD
thường khác biệt giữa các sắc dân (chẳng hạn
như người da trắng thường có BMD cao hơn
người châu Á), nếu dựa vào thông số BMD
của người da trắng, việc chẩn đoán loãng
xương cho người Á châu sẽ không chính xác,
và tỷ lệ loãng xương ở người Á châu sẽ cao
hơn thực tế. Ngay cả ở những sắc dân châu Á,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 152
cũng có khác biệt đáng kể giữa người Trung
Quốc và Thái Lan, hay Nhật và Trung Quốc
và Ấn Độ. Do đó, việc xác định 2 thông số
này phải được thực hiện cho từng sắc dân.
Hiện nay, việc chẩn đoán loãng xương ở
nước ta thường dựa vào chỉ số T của máy DXA.
Tuy nhiên, giá trị tham chiếu (reference ranges)
và 2 thông số pBMD và SD thì chưa được rõ
ràng về xuất xứ. Ngoài ra, chưa có nghiên cứu
nào có hệ thống để xác định giá trị tham chiếu
và 2 thông số vừa đề cập cho người Việt Nam.
Do đó, chúng tôi tiến hành một công trình
nghiên cứu nhằm vào 2 mục tiêu chính: thứ nhất
là xác định giá trị tham chiếu, và xác định hai
thông số pBMD và SD; thứ hai là so sánh tỷ lệ
loãng xương dựa vào chỉ số T của máy và chỉ số
T dựa vào thông số của người Việt.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Đây là một công trình nghiên cứu được thiết
kế theo mô hình nghiên cứu một thời điểm (còn
gọi là “nghiên cứu cắt ngang”), mà theo đó dữ
liệu được thu thập hay đo lường tại một thời
điểm duy nhất. Mô hình nghiên cứu này thích
hợp với mục tiêu xác định giá trị tham chiếu và
ước tính tỷ lệ hiện hành, cũng như phân tích
tương quan giữa các yếu tố trong một quần thể.
Công trình nghiên cứu này được sự phê chuẩn
của Hội đồng Khoa học thuộc Bệnh viện 115 và
Đại học Y Phạm Ngọc Thạch, và tất cả các tình
nguyện viên ưng thuận tham gia nghiên cứu
đều được giải thích về mục đích và thủ tục
nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm nam và nữ
khoẻ mạnh bình thường, tuổi từ 18 trở lên
(không giới hạn tuổi tối đa), đang sinh sống tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Lý do nghiên cứu ở
các độ tuổi từ 18 trở lên, vì một trong những
mục tiêu của nghiên cứu là ước tính BMD tối đa
(peak BMD) và ước tính tỷ lệ loãng xương trong
cộng đồng, và qua y văn chúng tôi biết rằng
BMD tối đa có thể đạt ở độ tuổi từ 18 đến 40 và
loãng xương hay xảy ra ở người trên 50 tuổi. Để
đảm bảo việc phân tích liên tục, chúng tôi quyết
định tuyển các đối tượng trên 18 tuổi.
Các đối tượng với các bệnh liên quan đến
chuyển hóa xương, hay đang dùng các thuốc có
ảnh hưởng đến chuyển hóa calcium, hay đang
dùng thuốc ngừa thai, hay mắc các bệnh ảnh
hưởng đến hấp thu đường tiêu hóa không được
tham gia vào nghiên cứu. Ngoài ra, các đối
tượng có bệnh và nằm tại giường từ 2 tháng trở
lên cũng không tham gia vào nghiên cứu.
Ước tính cỡ mẫu dựa vào mục tiêu xác định
giá trị tham chiếu. Với giả định rằng BMD tối đa
khoảng 1,00 g/cm2 và độ lệch chuẩn (standard
deviation) là 0,11 g/cm2, nếu chúng tôi muốn
ước tính thông số này với sai số chuẩn trên dưới
2% và power 80%, thì số lượng cỡ mẫu cần thiết
cho từng nhóm là 238. Nhưng vì có 2 nhóm
(nam và nữ), nên tổng số cỡ mẫu cần thiết là 238
x 2 = 576 tuổi từ 18 đến 40. Đối với mục tiêu ước
tính tỷ lệ loãng xương, dự vào y văn chúng tôi
giả định rằng tỷ lệ loãng xương ở những người
trên độ tuổi 50 là khoảng 20%, và nếu chấp nhận
một sai số chuẩn khoảng 5% thì tổng số cỡ mẫu
cần thiết là khoảng 246 đối tượng; nếu tỷ lệ là
10% và sai số chuẩn là 3% thì số cỡ mẫu cần
thiết là 384.
Vì đây là một nghiên cứu cắt ngang và mục
tiêu là xác định giá trị tham chiếu cho chẩn đoán
nên tính đại diện cho một quần thể rất quan
trọng. Một trong những biện pháp hữu hiệu
nhất để đạt nhu cầu đại diện là chọn đối tượng
một cách ngẫu nhiên. Đối tượng nghiên cứu
được chọn ngẫu nhiên từ các quận trong Thành
phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi liên lạc với cộng
đồng địa phương như nhà thờ để có danh sách
đối tượng và chọn ngẫu nhiên những nam và
nữ tuổi trên 18.
Dữ liệu thu thập
Đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ
được một bác sĩ hay y sĩ trực tiếp phỏng vấn để
thu thập các thông tin lâm sàng và đo lường các
chỉ số nhân trắc. Một bộ câu hỏi (questionnaire)
được thiết kế để thu thập các dữ liệu liên quan
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 153
đến các yếu tố nhân trắc, tiền sử lâm sàng, lối
sống, vận động thể lực, thói quen ăn uống, tiền
sử gãy xương, và tiền sử té ngã. Độ tuổi được
tính từ ngày sinh đến ngày tham gia vào
chương trình nghiên cứu. Chỉ số khối cơ thể
(Body mass index hay BMI) được tính bằng cách
lấy trọng lượng (kg) chia cho chiều cao (m) bình
phương. Mỗi đối tượng nghiên cứu còn cung
cấp các thông tin về thói quen hút thuốc lá trong
quá khứ và hiện tại. Tương tự, thói quen uống
bia rượu cũng được thu thập qua hàm lượng và
thời gian dùng bia rượu.
Phương pháp đo BMD và chỉ số T BMD
được đo bằng máy Hologic QDR Apex 4500
(Bệnh viện Chợ Rẫy). Máy được chuẩn hóa
bằng phanton 30 phút trước mỗi đợt đo. Vị trí
đo là xương đùi, kể cả cổ xương đùi, xương
cột sống, và toàn thân (whole body BMD).
BMD xương đùi được xem là biến phân tích
chính, vì BMD cổ xương đùi được đề nghị là
vị trí để chẩn đoán loãng xương ở phụ nữ.
Máy Hologic QDR còn cung cấp chỉ số T cho
xương cột sống và xương đùi.
Chúng tôi áp dụng tiêu chuẩn của WHO để
chia chỉ số T thành 3 nhóm. Nếu một đối tượng
trên 50 tuổi có chỉ số T của cổ xương đùi ≤ -2,5
thì được chẩn đoán là loãng xương
(osteoporosis); nếu T trong khoảng -2,4 và -1,0,
chẩn đoán thiếu xương; và nếu T > -1,0, chẩn
đoán mật độ xương bình thường (normal). Cần
nhấn mạnh rằng, chẩn đoán loãng xương chỉ
dựa vào chỉ số T của cổ xương đùi, chứ không
phải xương cột sống hay xương toàn thân.
Xác định giá trị tham chiếu
Hai giá trị tham chiếu được ước tính từ
nghiên cứu này là mật độ xương đỉnh (peak
BMD) và độ lệch chuẩn (standard deviation) của
mật độ xương. Để ước tính hai giá trị tham
chiếu này, BMD của các đối tượng được mô
hình bằng một hàm số của độ tuổi của đối
tượng. Mô hình hồi qui đa thức (polynomial
regression models) được chọn để phân tích. Cụ
thể hơn, với mô hình này, giá trị kỳ vọng của
BMD cho từng đối tượng sẽ được mô hình như
sau:
BMD = + 1a + 2a2 +3a3
Trong đó , 1, 2, và 3 là những thông số
của mô hình cần được ước tính từ dữ liệu, và a
là độ tuổi. Mô hình trên có thể đơn giản thành
mô hình đa thức bậc hai, và mô hình tối ưu nhất
sẽ được chọn dựa vào chỉ số Akaike Information
Criterion (AIC). Từ mô hình tối ưu, mật độ
xương tối đa, độ lệch chuẩn, và độ tuổi đạt mật
độ đó sẽ được ước tính.
Một trong những khó khăn là ước tính
khoảng tin cậy của hai thông số pBMD và SD vì
khó tìm được một giải đáp có thể “theo đuổi”
(tractable solution). Thay vào đó, chúng tôi áp
dụng phương pháp tái chọn mẫu (bootstrap hay
resampling) để tìm khoảng tin cậy 95% cho
pBMD và SD. Theo phương pháp này, 1000
mẫu, mỗi mẫu có 300 đối tượng, được chọn
ngẫu nhiên từ quần thể và mô hình hồi qui đa
thức trên được áp dụng để phân tích, và pBMD
và SD được ước tính cho từng mẫu. Độ phân bố
của các ước số này được phân tích một lần nữa
để đảm bảo sự phù hợp với ước tính ban đầu.
Toàn bộ phân tích sẽ tiến hành bằng ngôn ngữ
thống kê R(4) với các lệnh trong thư viện
Design(5).
So sánh chỉ số T và chẩn đoán loãng xương
Dựa vào các thông số trong mô hình hồi
qui đa thức, chúng tôi xác định giá trị cho
pBMD và SD trong công thức [1] cho xương
cột sống và cổ xương đùi. Qua đó, chúng tôi
có thể ước tính chỉ số T cho người Việt Nam
như công thức [1]. Do đó, chúng tôi có hai chỉ
số T: một do máy DXA cung cấp (sẽ ký hiệu là
TDXA) và một do chúng tôi phát triển dựa trên
số liệu thực nghiệm ở người Việt Nam (ký
hiệu TVN). Chúng tôi áp dụng tiêu chuẩn cho
WHO để chẩn đoán loãng xương cho từng đối
tượng tuổi trên 50. Theo tiêu chuẩn này, loãng
xương được chẩn đoán cho bất cứ đối tượng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 154
nào có chỉ số TDXA hay TVN (cổ xương đùi)
bằng hay thấp hơn –2,5. Dựa vào TDXA và TVN
chúng tôi phân chia thành bốn nhóm:
Loãng xương theo cả hai chỉ số TDXA và TVN
Loãng xương theo chỉ số TDXA, nhưng không
loãng xương theo chỉ số TVN ;
Loãng xương theo cả hai chỉ số TVN, nhưng
không loãng xương theo chỉ số TDXA ;
Không loãng xương theo cả hai chỉ số TDXA
và TVN.
Dựa vào các kết quả này, chúng tôi phân
tích sự tương đồng (concordance) giữa hai tiêu
chuẩn chẩn đoán (TDXA và TVN) bằng kiểm định
thống kê kappa.
KẾT QUẢ
Tính chung, có 1227 cá nhân (357 nam và 870
nữ) tham gia vào công trình nghiên cứu, và các
đặc điểm nhân trắc chính cũng như BMD được
trình bày trong Bảng 1. Độ tuổi trung bình ở
nam (43,5 tuổi) thấp hơn nữ (48,6; P<0,0001).
Trong số này, có 58,5% nam và 51% nữ tuổi
dưới 50. Tính trung bình, như kì vọng, mật độ
xương ở nam cao hơn nữ khoảng 12% ở cổ
xương đùi và ~7% ở xương cột sống.
Bảng 1. Đặc điểm nhân trắc và mật độ xương của đối
tượng nghiên cứu
Chỉ số Nam Nữ Trị số p
Số đối tượng 357 870
Độ tuổi (năm) 43,5 (18,8) 48,6 (16,5) <0,0001
Trọng lượng (kg) 62,1 (9,6) 52,4 (8,6) <0,0001
Chiều cao (cm) 165,1 (6,7) 153,3 (5,5) <0,0001
BMI (kg/m2) 22,7 (3,0) 22,3 (3,5) 0,029
BMD xương cột sống
(g/cm2) a
0,93 (0,14) 0,87 (0,15) <0,0001
BMD cổ xương đùi
(g/cm2)b
0,75 (0,15) 0,67 (0,12) <0,0001
BMD xương đùi
(g/cm2)c
0,94 (0,15) 0,84 (0,13) <0,0001
BMD xương toàn thân
(g/cm2)d
1,06 (0,1) 0,99 (0,11) <0,0001
Chú thích: Số liệu trình bày là số trung bình và độ lệch
chuẩn (trong ngoặc kép). Trị số P rút ra từ kiểm định t
so sánh hai nhóm nam và nữ. alumbar spine BMD;
bfemoral neck BMD; ctotal hip BMD; dwhole body BMD.
Xác định pBMD
Mối liên hệ giữa BMD và độ tuổi tuân theo
hàm số đa thức bậc 3 (Biểu đồ 1), và mối liên hệ
này thấy ở cả hai nhóm nam và nữ. Theo hàm số
này, BMD tăng dần trong độ tuổi 18 đến 25, ổn
định trong độ tuổi 25-35, và giảm dần sau độ
tuổi 35. Các biểu đồ cho thấy ở nam và nữ, tỷ lệ
suy giảm BMD rất rõ rệt sau độ tuổi 50, nhưng
mức độ giảm ở nữ cao hơn so với nam. Chẳng
hạn như BMD ở xương cột sống ở nữ trong độ
tuổi 70 trở lên giảm 27% so với độ tuổi 20-30; ở
nam, tỷ lệ suy giảm này là ~15%. Tỷ lệ suy giảm
trong độ tuổi 70+ và 20-30 về BMD ở cổ xương
đùi cũng lớn hơn ở nữ (25%) so với nam (13%).
Nữ
Nam
20 40 60 80
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
Age (y)
Fe
m
or
al
n
ec
k
BM
D
(g
/c
m
2 )
20 40 60 80
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
Age (y)
H
ip
B
M
D
(g
/c
m
2 )
20 40 60 80
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
Age (y)
Lu
m
ba
r s
pi
ne
B
M
D
(g
/c
m
2 )
Biểu đồ 1. Mối liên hệ giữa BMD và độ tuổi
Dựa vào thông số của mô hình hồi qui đa
thức (Bảng 2), chúng tôi ước tính mật độ xương
đỉnh (peak BMD hay pBMD) và độ tuổi đạt
pBMD cho nam và nữ (Bảng 3). Nói chung,
pBMD ở nam thường cao hơn nữ, nhưng sự
khác biệt này tùy thuộc vào xương. Chẳng hạn
như xương cột sống, pBMD ở nam
(1,05±0,12g/cm2; trung bình ± độ lệch chuẩn) cao
hơn khoảng 9% so với nữ (0,96±0,11g/cm2).
Tương tự, pBMD ở cổ xương đùi ở nam
(0,85±0,13g/cm2) cao hơn khoảng 6% so với nữ
(0,80±0,11g/cm2). Ở xương đùi, độ khác biệt
2
0 40 60 80
0.
4
0.
6
0.
8
1.
0
1.
2
1.
4
Age
(y)
Femoral neck BMD
(g/cm
2
2 ) )
2
0 40 60 80
0.
4
0.
6
0.
8
1.
0
1.
2
1.
4
Age
(y)
Hip BMD (g/cm
Hip BMD (g/cm
2
2 ) )
2
0 40 60 80
0.
4
0.
6
0.
8
1.
0
1.
2
1.
4
Age
(y)
Lumbar spine BMD (g/cm
Lumbar spine BMD (g/cm
2
2 ) )
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 155
khoảng 5% (1,00±0,13 vs. 0,95±0,12g/cm2). Kết
quả phân tích trình bày trong Bảng 2 còn cho
thấy một xu hướng chung là tuổi đạt pBMD ở
nữ tương đối sớm hơn nam. Chẳng hạn như
tuổi đạt pBMD cổ xương đùi ở nữ là 22 tuổi,
sớm hơn 4 năm so với nam (26 tuổi). Tương tự,
tuổi đạt pBMD xương cột sống ở nữ cũng sớm
hơn nam (25 vs 27 tuổi).
Bảng 2. Thông số của mô hình đa thức
Cổ xương đùi Xương đùi Xương cột sống Thông
số
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
1 age 0,01098
(0,00698)
0,01119
(0,0044)
0,0198
(0,0082)
0,0194
(0,0050)
0,0228
(0,0082)
0,0423
(0,0053)
2 age2 -0,00038
(0,00015)
-0,00029
(0,00009
)
-0,0005
(0,0001)
-0,0004
(0,0001)
-0,00053
(0,00018
)
-0,0009
(0,0001)
3 age3 0,0000027
(0,000001)
0,00000
16
(0,00000
06)
0,000003
(0,00000
1)
0,00000
2
(0,00000
07)
0,00000
3
(0,00000
1)
0,00000
5
(0,00000
08)
R2 0,38 0,38 0,18 0,29 0,08 0,39
SEE1 0,11 0,10 0,13 0,11 0,14 0,12
Chú thích: Số liệu trình bày là hệ số và sai số chuẩn (trong
ngoặc kép) của mô hình BMD = + 1a + 2a2 +3a3
trong đó a là độ tuổi.
1SEE: Standard error of estimate (độ lệch chuẩn của mật độ
xương sau khi đã điều chỉnh cho độ tuổi).
Bảng 3. Mật độ xương đỉnh (peak bone mineral
density hay pBMD) và tuổi đạt được mật độ xương
đỉnh ở nam và nữ
Giới tính
pBMD (g/cm2)a Nam Nữ
Cổ xương đùi (femoral neck) 0,85 (0,13) 0,80 (0,11)
Xương đùi (total hip BMD) 1,00 (0,13) 0,95 (0,12)
Xương cột sống (lumbar spine) 1,05 (0,12) 0,96 (0,11)
Tuổi đạt pBMD (năm)b
Cổ xương đùi (femoral neck) 26 (24 – 29) 22 (19 – 24)
Xương đùi (total hip BMD) 32 (29 – 35) 27 (25 – 30)
Xương cột sống (lumbar spine) 27 (25 – 29) 25 (23 – 27)
Chú thích: Số liệu trình bày là a trung bình (mean), và
số trong ngoặc là độ lệch chuẩn (SD); btrung bình
(mean), và số trong ngoặc là khoảng tin cậy 95%.
Tỷ lệ loãng xương và thiếu xương
Dựa vào pBMD và độ lệch chuẩn, chúng
tôi tính chỉ số T cho từng cá nhân tuổi trên 50,
và chúng tôi gọi chỉ số này là TVN để phân biệt
với chỉ số T do máy DXA cung cấp -- TDXA. Ở
nữ trên 50 tuổi, chỉ số TVN cao hơn TDXA ở cổ
xương đùi (-1,84 ± 0,96 và -2,27 ± 0,96; P <
0,0001) và xương cột sống (-1,61 ± 1,28 và -2,39
± 1,31; P<0,0001). Ở nam trên 50 tuổi, một xu
hướng tương tự cũng được ghi nhận: chỉ số
TVN cao hơn TDXA ở cổ xương đùi (-1,50±0,90 và
-2,01±0,86; P<0,0001) và xương cột sống
(-1,33±1,33 và -1,81±1,43; P<0,0001).
Như có thể đoán được, mặc dù hai chỉ số TVN
và TDXA khác nhau, nhưng hệ số tương quan
giữa hai chỉ số T rất chặt chẽ (r > 0,98). Phân tích
thêm, chúng tôi thấy mối liên hệ giữa 2 chỉ số có
thể mô tả bằng một mô hình hồi qui tuyến tính
phi intercept như sau: đối với cổ xương đùi, TVN
= 1,177×TDXA cho nữ và TVN = 1,246×TDXA cho nam;
đối với xương cột sống, TVN = 1,298×TDXA cho nữ,
và TVN = 1,207×TDXA cho nam. Nói cách khác, ở cổ
xương đùi, chỉ số TVN cao hơn TDXA khoảng 0,18
đến 0,25 SD; và ở xương cột sống, chỉ số TVN cao
hơn TDXA khoảng 0,21 đến 0,30 SD.
Dựa vào chỉ số TVN và TDXA chúng tôi chia
các đối thượng thành 3 nhóm theo tiêu chuẩn
của WHO: bình thường, thiếu xương, và loãng
xương. So sánh tần số và tỷ lệ của 3 nhóm này
được trình bày trong Bảng 4. Ở nữ, dựa vào chỉ
số TVN ở cổ xương đùi, tỷ lệ loãng xương là
28,6% (n = 116) được chẩn đoán là loãng xương;
nhưng dựa vào TDXA tỷ lệ loãng xương là 43,7%
(n = 177). Ở nam, tỷ lệ loãng xương (cổ xương
đùi) dựa vào TVN là 10,4% (n = 14), thấp hơn
khoảng 20% khi so với tỷ lệ loãng xương dựa
vào TDXA (29,6%, n = 40).
Bảng 4. Tần số loãng xương, thiếu xương và bình
thường ở nam và nữ
Dựa vào chỉ số TDXA Dựa vào chỉ số TVN
Nam Nữ Nam Nữ
Cổ xương đùi
Bình thường 14 (10,4) 41 (10,1) 43 (31,8) 76 (18,8)
Thiếu xương 81 (60,0) 187 (46,2) 78 (57,8) 213 (52,6)
Loãng xương 40 (29,6) 177 (43,7) 14 (10,4) 116 (28,6)
Tổng số 135 (100,0) 405 (100,0) 135 (100,0) 405 (100,0)
Xương đùi
Bình thường 66 (48,9) 141 (34,8)
Thiếu xương 61 (45,2) 190 (46,9)
Loãng xương 8 (5,9) 74 (18,3)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 156
Dựa vào chỉ số TDXA Dựa vào chỉ số TVN
Nam Nữ Nam Nữ
Tổng số 135 (100,0) 405 (100,0)
Xương cột sống
Bình thường 37 (27,4) 62 (15,3) 129 (31,9) 49 (36,3)
Thiếu xương 56 (41,5) 127 (31,4) 159 (39,3) 62 (45,9)
Loãng xương 42 (31,1) 216 (53,3) 117 (28,9) 24 (17,8)
Tổng số 135 (100,0) 405 (100,0) 135 (100,0) 405 (100,0)
Chú thích: Số liệu trình bày là số đối tượng trong từng
nhóm chẩn đoán và phần trăm cho từng giới.
Khác biệt trong chẩn đoán loãng xương
giữa TVN và TDXA
Do đó, số cá nhân được chẩn đoán loãng
xương dựa chỉ số TDXA có xu hướng cao hơn so
với chẩn đoán dựa chỉ số TVN, và những khác
biệt này chủ yếu xảy ra ở nhóm thiếu xương
(Bảng 5). Ở nam, trong số 40 người được TDXA
phân nhóm là loãng xương, có đến 65% (n = 26)
người thật sự là thiếu xương dựa vào tiêu chuẩn
của TVN. Tương tự, ở nữ, trong số 177 người mà
TDXA xếp vào nhóm loãng xương, có đến 35% (n
= 61) thật ra là thiếu xương dựa vào tiêu chuẩn
của TVN. Hệ số tương đồng (kappa) giữa 2 chẩn
đoán là 0,54 cho nữ và 0,41 cho nam.
Bảng 5. So sánh kết quả chẩn đoán loãng xương giữa
hai chỉ số T (giới hạn đối tượng tuổi 50 hoặc cao hơn).
Cổ xương đùi
Chẩn đoán dựa vào chỉ số TVN
Bình
thường
Thiếu
xương
Loãng
xương
Tổng số
Chẩn đoán dựa vào chỉ số TDXA
Nam
Bình
thường
14 (100,0) 0 (0,0) 0 (0,0) 14 (100,0)
Thiếu
xương
29 (35,8) 52 (64,2) 0 (0,0) 81 (100,0)
Loãng
xương
0 (0,0) 26 (65,0) 14 (35,0) 40 (100,0)
Nữ
Bình
thường
40 (97,6) 1 (2,4) 0 (0,0) 41 (100,0)
Thiếu
xương
36 (19,4) 151 (80,6) 0 (0,0) 187 (100,0)
Loãng
xương
0 (0,0) 61 (34,5) 116 (65,5) 177 (100,0)
Chú thích: Số liệu trình bày là số đối tượng trong từng
nhóm chẩn đoán và phần trăm cho từng giới. Kappa cho
nam: = 0,41 (khoảng tin cậy 95%: 0,30 – 0,52); cho
nữ: = 0,54 (khoảng tin cậy 95%: 0,48 – 0,60)
BÀN LUẬN
Loãng xương được ghi nhận là một trong
những vấn nạn y tế công cộng trong thế kỷ 21,
vì tình trạng lão hóa dân số và sự gia tăng liên
tục số người cao tuổi trong cộng đồng. Để đánh
giá đúng qui mô của vấn đề chúng ta cần một
chỉ số lâm sàng để chẩn đoán chính xác thế nào
là loãng xương. Vì loãng xương được định
nghĩa là sự suy giảm về lực của xương (bone
strength), và lực của xương chủ yếu được phản
ảnh qua mật độ chất khoáng trong xương
(BMD)(1). Tuy nhiên, BMD thay đổi theo độ tuổi,
có lẽ một phần lớn phụ thuộc vào estrogen (ở
nữ và nam)(2) hay testosterone (ở nam)(7). Do đó,
BMD thường được chuẩn hóa bằng chỉ số T như
mô tả trong phần dẫn nhập(2). Để tính chỉ số T
chúng ta cần 2 thông số chính là mật độ xương
đỉnh (hay pBMD) và độ lệch chuẩn SD. Hiện
nay, các máy DXA đang sử dụng cho chẩn đoán
loãng xương ở Việt Nam cung cấp chỉ số T,
nhưng chưa rõ 2 thông số để tính chỉ số T trong
máy DXA dựa vào quần thể nào. Nếu sử dụng
thông số của các quần thể ngoài Việt Nam, có
thể kết quả chẩn đoán sẽ không chính xác. Mặt
khác, theo chúng tôi biết, ở Việt Nam chưa có
một nghiên cứu nào để làm giá trị tham chiếu
cho ước tính chỉ số T cho máy Hologic. Do đó,
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm cung
cấp một giá trị tham chiếu và 2 thông số cần
thiết cho chẩn đoán loãng xương ở người Việt.
So sánh hai chỉ số T của người Việt Nam và
chỉ số T do máy DXA cung cấp, chúng tôi phát
hiện một sự khác biệt rất đáng kể. Thật vậy,
phân tích tương đồng của hai chỉ số TDXA và TVN
cho thấy sự nhất quán thấp hơn 50%! Nếu dựa
vào TDXA, có đến 44% nữ trên tuổi 50 được chẩn
đoán là loãng xương; nhưng nếu dựa vào TVN,
tỷ lệ loãng xương ở nữ là 29%. Do đó, chỉ số
TDXA có xu hướng chẩn đoán loãng xương nhiều
hơn thực tế. Vấn đề đặt ra là chỉ số nào hợp lý
hơn? Trong y văn, chưa ghi nhận được một
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 157
quần thể nữ nào có tỷ lệ loãng xương lên đến
44%. Một nghiên cứu mới đây ở Hà Nội trên 328
nữ dùng máy DXA Lunar Prodigy và dùng giá
trị tham chiếu của người Việt cho thấy ở nữ trên
50 tuổi, tỷ lệ loãng xương là 26%(12). Một nghiên
cứu khác ở phụ nữ Việt Nam sau mãn kinh sống
ở Mỹ cho thấy tỷ lệ loãng xương là 37%(7).
Nghiên cứu ở Thái Lan cũng cho thấy tỷ lệ
loãng xương ở nữ sau mãn kinh là 29%(4). Ở các
sắc dân da trắng, tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ
sau mãn kinh được ghi nhận là 20% (Úc)(7) và
21% (Mỹ)(5). Nói tóm lại, các nghiên cứu ở người
Việt Nam và Á châu cho thấy tỷ lệ loãng xương
rất tương đương với tỷ lệ ghi nhận qua nghiên
cứu của chúng tôi.
Nghiên cứu về loãng xương ở nam giới còn
rất hiếm(7). Nghiên cứu của chúng tôi là một
trong những nghiên cứu qui mô về loãng xương
ở nam giới châu Á. Qua nghiên cứu này, chúng
tôi ghi nhận ở nam trên 50 tuổi, khoảng 1 phần
10 là loãng xương (tuy nhiên, nếu dựa vào chỉ số
T của máy DXA thì tỷ lệ này là 30%). Nói cách
khác, sự chênh lệch giữa hai chỉ số ảnh hưởng
đến chẩn đoán loãng xương ở nam giới cao hơn
nữ giới. Tỷ lệ 10% trong nghiên cứu của chúng
tôi rất khó so sánh với các nước Á châu vì thiếu
dữ liệu so sánh. Tuy nhiên, kinh nghiệm từ các
nước phương Tây(15), tỷ lệ loãng xương ở nam
luôn thấp hơn nữ; do đó xu hướng khác biệt về
tỷ lệ loãng xương giữa nam và nữ trong nghiên
cứu này cũng phù hợp với xu hướng ghi nhận
trong y văn.
Tại sao có sự khác biệt giữa chỉ số TVN và
TDXA ? Lý do hiển nhiên nhất là do khác biệt về
pBMD và SD. Thông thường thông số SD rất ít
dao động giữa các quần thể, cho nên có lẽ lý do
chính là pBMD được sử dụng trong máy DXA
cao hơn pBMD thực tế ở người Việt Nam. Thật
vậy, giả dụ rằng SD của BMD ở cổ xương đùi là
0.12, và TDXA chúng tôi có thể ước tính pBMD
cho nam và nữ lần lượt là 0.90 và 0.87 g/cm2.
Trong khi đó, pBMD thực tế qua nghiên cứu của
chúng tôi là 0,85 và 0,80 g/cm2. Rất có thể pBMD
đang sử dụng trong máy DXA xuất phát từ một
quần thể khác, không phải từ người Việt Nam.
Chúng ta biết rằng có sự khác biệt đáng kể về
pBMD giữa các sắc dân. Chẳng hạn như người
da đen có BMD cao hơn người da trắng, và
người da trắng có BMD cao hơn người Á châu.
Nhưng ngay cả trong quần thể người Á châu
cũng có sự khác biệt BMD giữa các sắc dân(4,6).
Trong nghiên cứu này, mối liên hệ giữa
BMD và độ tuổi tuân theo hàm số đa thức bậc 3.
Mối liên hệ này cũng được ghi nhận trong một
nghiên cứu trước đây ở Hà Nội. Theo hàm số
này, thấy phụ nữ Việt Nam đạt pBMD ở độ tuổi
27-29, tức cao hơn so với phụ nữ Âu Mĩ da trắng
(20-25 tuổi). Khó có thể xác định nguyên nhân
cho sự khác biệt này, nhưng một xu hướng
chung đã được ghi nhận trong y văn là phụ nữ
Á châu thường có kinh trễ hơn so với người da
trắng (13 tuổi so với 12 tuổi). Các yếu tố dinh
dưỡng và nồng độ estrogen cũng như các
hormone giới tính khác (sex steroids) có thể là
nguyên nhân của sự khác biệt này(2).
Nhiều nghiên cứu dịch tễ học cho thấy khi
chỉ số T giảm thấp hơn -2,5, nguy cơ gãy xương
tăng cao(3,4,6). Do đó, những kết quả này cho thấy
có đến gần 1 phần 3 phụ nữ và 1 phần 10 nam
trên tuổi 50 có nguy cơ gãy xương cao. Hiện
nay, tỷ lệ người cao tuổi (trên 50) trong dân số
Việt Nam là khoảng 11% (nam) và 15% (nữ),
nhưng sẽ gia tăng lên 18% (nam) và 20% (nữ)
vào năm 2020. Qua tỷ lệ loãng xương của
nghiên cứu này, chúng tôi ước tính rằng hiện
nay có khoảng 2 triệu nữ và 0,5 triệu nam trên
50 tuổi đang ở trong tình trạng loãng xương. Vì
loãng xương và gãy xương tăng theo độ tuổi,
cho nên kết quả nghiên cứu này còn có ý nghĩa
rằng trong tương lai, loãng xương và gãy xương
là một gánh nặng cho hệ thống y tế toàn quốc.
Kết quả của nghiên cứu này cần phải diễn
giải trong khuôn khổ của một số ưu điểm và
nhược điểm. Đây là một công trình nghiên cứu
loãng xương lớn nhất ở Việt Nam và một trong
những nghiên cứu qui mô nhất trong vùng Á
châu, bao gồm cả nam và nữ, đảm bảo đầy đủ
số liệu cho việc phân tích xác định các thông số
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 158
cần thiết cho chẩn đoán loãng xương. Các đối
tượng nam và nữ được chọn một cách ngẫu
nhiên trong cộng đồng qua những tiêu chuẩn
lâm sàng, do đó kết quả mang tính hợp lý ngoại
tại (external validity) cao. Một ưu điểm khác của
nghiên cứu là sử dụng công nghệ DXA, một
công nghệ chuẩn để đo BMD và chẩn đoán
loãng xương. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu
cũng có một số nhược điểm. Trước hết, đây là
một nghiên cứu cắt ngang, cho nên việc xác
định pBMD và độ tuổi đạt pBMD có thể chịu sự
chi phối của các yếu tố ngẫu nhiên không thể
kiểm soát được trong nghiên cứu quan sát. Một
cách lý tưởng để xác định các thông số pBMD và
SD là qua một nghiên cứu theo thời gian, theo
đó các đối tượng được theo dõi từ 5 đến 30 năm.
Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, một công trình
nghiên cứu như thế rất khó thực hiện (ngay cả
trên thế giới chưa nhóm nào làm được), và do
đó, mô hình nghiên cứu cắt ngang vẫn là một
mô hình thực tế nhất. Nghiên cứu được thực
hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi mà dinh
dưỡng và lối sống có thể khác biệt so với cư dân
nông thôn, nên có thể xem những kết quả này
chưa đại diện cho quần thể ở nông thôn.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu này cho thấy
việc chẩn đoán loãng xương bằng chỉ số T của
máy DXA Hologic QDR4500 có thể gây nên
tình trạng chẩn đoán thiếu chính xác, nhiều ca
loãng xương hơn thực tế, và dẫn đến tình
trạng điều trị không cần thiết. Để khắc phục
vấn đề, chúng tôi đề nghị sử dụng giá trị
tham chiếu ở người Việt qua chỉ số TVN của
nghiên cứu này. Kết quả của chúng tôi còn
cho thấy có khoảng 30% nữ và 10% nam trên
50 tuổi bị loãng xương, tức là tương đương
hay cao hơn so với người Âu Mỹ, và những
tần số này cho thấy loãng xương là một vấn
đề y tế lớn cần được quan tâm ở nước ta.
CẢM TẠ
Công trình nghiên cứu này được sự hỗ trợ
một phần từ chương trình hợp tác Viện –
Trường trong khổ của Ủy hội Đại học Bỉ. Chúng
tôi chân thành cám ơn Linh mục Phạm Bá Lãm,
Linh mục Vũ Minh Danh, các ông Phạm Doãn
Phong, Lương Thành Phát, Nguyễn Công Phú,
và Tiền Ngọc Tuấn đã tích cực hỗ trợ cho
chương trình nghiên cứu của chúng tôi, kể cả
khuyến khích các giáo dân tham gia vào công
trình nghiên cứu. Chúng tôi cũng chân thành
ghi nhận sự giúp đỡ quý báu của Bs Lê Thị
Ngọc Linh, Bs Phạm Ngọc Khánh thuộc Bệnh
viện Nhân dân 115; và các sinh viên thuộc
Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch:
Nguyễn Thị Thanh Mai, Nguyễn Hải Đăng, Võ
Thị Thúy An, Nguyễn Thị Thanh Thảo, Mai
Duy Linh, Nguyễn Vũ Đạt, Diêm Đăng Khoa,
và Trần Hồng Bảo đã hết lòng giúp đỡ trong
việc hướng dẫn và phỏng vấn các đối tượng
nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ammann P, Rizzoli R (2003): Bone strength and its
determinants. Osteoporos Int 14 Suppl 3:S13-18.
2. Kanis JA (2002): Diagnosis of osteoporosis and assessment of
fracture risk. Lancet 359:1929-1936.
3. Kung AW, Lee KK (2006): Knowledge of vitamin D and
perceptions and attitudes toward sunlight among Chinese
middle-aged and elderly women: a population survey in Hong
Kong. BMC Public Health 6:226.
4. Limpaphayom KK, Taechakraichana N, Jaisamrarn U,
Bunyavejchevin S, Chaikittisilpa S, Poshyachinda M,
Taechamahachai C, Havanond P, Onthuam Y, Lumbiganon P,
Kamolratanakul P (2001): Prevalence of osteopenia and
osteoporosis in Thai women. Menopause 8:65-69.
5. Looker AC, Orwoll ES, Johnston CC, Jr., Lindsay RL, Wahner
HW, Dunn WL, Calvo MS, Harris TB, Heyse SP (1997):
Prevalence of low femoral bone density in older U.S. adults from
NHANES III. J Bone Miner Res 12:1761-1768.
6. Lynn HS, Lau EM, Au B, Leung PC (2005): Bone mineral density
reference norms for Hong Kong Chinese. Osteoporos Int
16:1663-1668.
7. Marquez MA, Melton LJ, 3rd, Muhs JM, Crowson CS, Tosomeen
A, O'Connor MK, O'Fallon WM, Riggs BL (2001): Bone density
in an immigrant population from Southeast Asia. Osteoporos Int
12:595-604.
8. Marshall D, Johnell O, Wedel H (1996): Meta-analysis of how
well measures of bone mineral density predict occurrence of
osteoporotic fractures. BMJ 312:1254-1259.
9. Meier C, Nguyen TV, Handelsman DJ, Schindler C, Kushnir
MM, Rockwood AL, Meikle AW, Center JR, Eisman JA, Seibel
MJ (2008): Endogenous sex hormones and incident fracture risk
in older men: the Dubbo Osteoporosis Epidemiology Study.
Arch Intern Med 168:47-54.
10. Nguyen TV, Maynard LM, Towne B, Roche AF, Wisemandle W,
Li J, Guo SS, Chumlea WC, Siervogel RM. (2001): Sex differences
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 159
in bone mass acquisition during growth: the Fels Longitudinal
Study. J Clin Densitom 4:147-157.
11. Nguyen Văn Tuấn. (2006): Phân tích số liệu và tạo biểu đồ bằng
R. Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật TPHCM.
12. Nguyen HTT, Schoultz B, Pham DMT, Nguyen DB, Le QH,
Nguyen DV, Hirschberg AL, Nguyen TV. (2009): Peak bone
mineral density in Vietnamese women. Arch Osteoporos 4:9-15.
13. Nguyen TV, Center JR, Eisman JA. (2000): Osteoporosis in
elderly men and women: effects of dietary calcium, physical
activity, and body mass index. J Bone Miner Res 15:322-331.
14. Nguyen TV, Eisman JA, Kelly PJ, Sambrook PN. (1996): Risk
factors for osteoporotic fractures in elderly men. Am J Epidemiol
144:255-263.
15. Nguyen ND, Ahlborg HG, Center JR, Eisman JA, Nguyen TV.
(2007): Residual lifetime risk of fractures in women and men. J
Bone Miner Res 22:781-788.
16. Nguyen ND, Pongchaiyakul C, Center JR, Eisman JA, Nguyen
TV. (2005): Identification of high-risk individuals for hip fracture:
a 14-year prospective study. J Bone Miner Res 20:1921-1928.
17. Riggs BL, Khosla S, Melton LJ, 3rd. (1998): A unitary model for
involutional osteoporosis: estrogen deficiency causes both type I
and type II osteoporosis in postmenopausal women and
contributes to bone loss in aging men. J Bone Miner Res 13:763-
773.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chan_doan_loang_xuong_anh_huong_cua_gia_tri_tham_chieu.pdf