Nghiên cứu của chúng tôi có
7 trường hợp sốc mất máu nặng vì can thiệp này
và hai trường hợp phải cắt tử cung. Hai phương
pháp điều trị được xem là hiệu quả với ít tai biến
nhất là nội soi buồng tử cung lấy túi thai và tiêm
Methotrexate trực tiếp vào túi thai(18). Năm 2011
chúng tôi có thực hiện vài trường hợp lấy túi
thai qua nội soi buồng tử cung. Tuy thành công
nhưng cuộc mổ lại mất khá nhiều thời gian và
chi phí cho bệnh nhân. Đó là chưa nói đến phải
có sự đầu tư về dụng cụ nội soi cũng như đòi
hỏi bác sĩ phụ khoa phải thật kinh nghiệm.
Những yêu cầu đó mang lại nhiều bất lợi trong
công tác điều trị thai VMC hiện nay. Năm 2012,
việc tiếp cận với phương pháp tiêm
Methotrexate trực tiếp vào khối thai mang lại
nhiều thành công. 100% trường hợp bảo tồn
được tử cung – chức năng sinh sản của người
phụ nữ với chi phí điều trị thấp, trong đó 73%
trường hợp chỉ tiêm 1 mũi Methotrexate duy
nhất. Tuy nhiên thời gian theo dõi khá dài, trung
bình 2 tháng. Thời gian để βhCG âm tính trung
bình 57,4 ± 34,0 ngày và thời gian để mất hình
ảnh thai VMC trên siêu âm ngã âm đạo trung
bình là 67,8 ± 35,7 ngày. Nghiên cứu của Seow
KM và cộng sự năm 2004 cũng có những ghi
nhận tương tự, khối thai VMC thoái triển chậm
từ 2 tháng đến 1 năm sau điều trị(15). Tuy nhiên
khi βHCG âm tính mà khối thai VMC còn lớn >=
3cm, chúng tôi sẽ tiến hành nong CTC và thoát
lưu khối máu tụ dưới sự hướng dẫn của siêu
âm. Về mặt thống kê y học, có vẻ như can thiệp
hút lòng tử cung hoặc uống thuốc phá thai nội
khoa có thể rút ngắn thời gian theo dõi (p=0,44
và p=0,46) nhưng thực sự không nhiều mà tai
biến do hai can thiệp này gây ra lại hết sức nặng
nề. Thay vào đó, tuổi thai ở thời điểm điều trị có
liên quan đến thời gian lành bệnh hơn: tuổi thai
càng nhỏ thì việc điều trị càng thuận lợi và thời
gian càng ngắn.
Tuy mẫu nghiên cứu chưa nhiều nhưng
cũng cho chúng tôi một cái nhìn tổng quát về
những gì đã và đang diễn ra xung quanh chẩn
đoán thai VMC, đồng thời giúp chúng tôi đánh
giá được phần nào hiệu quả điều trị thai VMC
bằng tiêm MTX taị chỗ.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chẩn đoán và điều trị bảo tồn thai vết mổ cũ tại bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 189
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN THAI VẾT MỔ CŨ
TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Tạ Thị Thanh Thủy *, Đỗ Ngọc Xuân Trang**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thai bám vết mổ cũ (Thai VMC) là một dạng hiếm gặp của thai lạc chỗ do thai làm tổ ở sẹo mổ
lấy thai cũ. Ngày nay, thai VMC thường gặp hơn do tỉ lệ mổ lấy thai tăng. Đây là loại bệnh lý rất nguy hiểm, có
thể đưa đến vỡ tử cung, xuất huyết ồ ạt và những biến chứng đe dọa mạng sống nếu thai phát triển lớn. Chẩn
đoán sớm và chính xác thai bám VMC có vai trò quan trọng trong việc quyết định điều trị nhằm giảm bệnh suất
và tử suất của bệnh nhân.
Mục tiêu: Tổng kết tình hình chẩn đoán và điều trị thai VMC tại bệnh viện Hùng Vương trong năm 2012
nhằm; (1) Xác định tỉ lệ thai VMC bị chẩn đoán lầm với thai trong tử cung ; (2) Xác định tỉ lệ điều trị bảo tồn
thành công thai VMC; (3) Xác định thời gian chờ đợi để βhCG và siêu âm âm tính sau điều trị.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả 58 trường hợp thai VMC được chẩn đoán và điều trị
bảo tồn trong năm 2012 tại bệnh viện Hùng Vương.
Kết quả: Tuổi thai trước điều trị của thai VMC thay đổi từ 4,5 đến 13 tuần. Trước nhập viện, tỉ lệ thai
VMC bị chẩn đoán lầm với thai trong tử cung hay sẩy thai là 55%. Hút nạo lòng tử cung hoặc phá thai nội
khoa ở thai VMC trước nhập viện gây xuất huyết âm đạo nặng nề. Có 7 trong 58 trường hợp rơi vào trạng
thái sốc và 2 trường hợp buộc phải cắt tử cung cấp cứu để cầm máu. 100% trường hợp thai VMC được điều
trị bảo tồn thành công với tiêm Methotrexate (MTX) tại chỗ dưới sự hướng dẫn của siêu âm hoặc đường
toàn thân. Không có trường hợp nào có tác dụng phụ trầm trọng trong thời gian điều trị. Thời gian chờ đợi
để βhCG âm tính và hình ảnh thai VMC biến mất trên siêu âm lần lượt là 57,4 ± 34,0 ngày (7‐127 ngày), và
67,8 ± 35,7 ngày (20‐150 ngày).
Kết luận: Siêu âm giúp chẩn đoán sớm và chính xác thai bám VMC. Tiêm MTX tại chỗ dưới hướng dẫn
của siêu âm là phương pháp cho tỷ lệ thành công cao nhằm giúp bảo tồn chức năng sinh sản của người phụ nữ
với tỉ lệ biến chứng thấp nhất.
Từ khóa: thai bám VMC, điều trị bảo tồn, tiêm Methotrexate tại chỗ hoặc toàn thân
ABSTRACT
DIAGNOSIS AND TREATMENT OF CESAREAN SCAR PREGNANCY
AT HUNG VUONG HOSPITAL
Ta Thi Thanh Thuy, Do Ngoc Xuan Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 189 ‐196
Background: Cesarean scar pregnancy (CSP) is the development of a gestational sac in a cesarean scar of
the lower uterine segment. It is a rare form of ectopic pregnancy. The incidence of cesarean scar pregnancy has
risen during the past few years because of rising cesarean section rates worldwide. The CSP is a dangerous
condition, possibly leading to uterine rupture, profuse bleeding, and life‐threatening complications as the
pregnancy advances. An early and accurate diagnosis of CSF may constitute pivotal points in the management in
order to decrease morbidity and mortality rate for patients.
* Khoa Phụ ngoại Phụ khối u Bệnh viện Hùng Vương, ** Bộ môn Sản Đại học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: TS. Tạ Thị Thanh Thủy ĐT: 0913633899 Email: thuyta.pkt@gmail.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 190
Objectives: To review the diagnosis and treatment of CSF among patients admitted Hung Vuong hospital
in 2012 for: (1) To determine rate of misdiagnosis from CSF with intrauterine pregnancy; (2) To determine
successful rate of conservative treatment of CSF, and (3) To determine time for serum βhCG to drop to normal,
and for the CSP mass to be resolved completely.
Methods: Retrospectively review of 58 CSF cases which were diagnosed and conservatively treated at Hung
Vuong hospital in 2012
Results: Gestational age fluctuated from 4.5 to 13 weeks. Before admitting the hospital, 55% CSF cases were
misdiagnosed with intrauterine pregnancy. D&C or medical abortion of CSF caused profuse bleeding. 7 in these
58 cases were fallen in serious shock and had to suffered hysterectomy for avoiding life threatening. 100% CSF
cases were successfully treated with local or systemic methotrexate without any complication. Waiting time for
serum βhCG to drop to normal and for the CSP mass to be resolved completely were 57.4 ± 34.0 days (7 ‐ 127
days) and 67.8 ± 35.7 days (20 ‐ 150 days), respectively.
Conclusions: Cesarean scar pregnancy could be diagnosed early and accurately by transvaginal ultrasound.
Local or systemic methotrexate was found to be effective in conservative treatment of CSF without any
complication.
Key words: cesarean scar pregnancy, local or systemic methotrexate injection.
GIỚI THIỆU
Thai bám vết mổ cũ (thai VMC) là một dạng
hiếm gặp của thai lạc chỗ, do thai làm tổ tại mô
xơ sẹo của vết mổ lấy thai cũ, với ca đầu tiên
được mô tả bởi Larsen và Solomon vào năm
1978(11). Chẩn đoán chỉ được đặt ra sau khi bệnh
nhân này bị cắt tử cung do nỗ lực cầm máu thất
bại. Tiếp đó rải rác các trường hợp vỡ tử cung
sớm(1,8) hay nhau cài răng lược(5,16) sớm lần lượt
được báo cáo khiến cho tình trạng thai bám vết
mổ cũ ngày càng được chú ý nhiều hơn. Từ năm
1990 đến năm 1999 chỉ có khoảng 19 bài báo
dưới dạng mô tả từng trường hợp(18), kết thúc
năm 2012 đã xuất hiện hơn 110 bài báo lớn với
các nghiên cứu tổng quan có giá trị. Hầu hết các
tác giả đều ghi nhận sự xuất hiện ngày càng
nhiều của thai bám VMC đòi hỏi một phương
tiện chẩn đoán sớm và chính xác(2,4,20,18). Siêu âm
ngã âm đạo với đầu dò tần số cao, có hay không
sự giúp đỡ của Doppler cho phép phát hiện
được các trường hợp thai bám VMC với độ nhạy
86,4%(3,10). Tuy nhiên khoảng 13,6% các trường
hợp thai bám VMC được chẩn đoán nhầm với
sẩy thai diễn tiến, thai ở cổ tử cung và thai trong
tử cung(18). Hút nạo lòng tử cung hay phá thai
nội khoa những trường hợp này gây nên nhiều
hậu quả nghiêm trọng như băng huyết, sốc mất
máu, vỡ tử cung, mở bụng cầm máu hay thậm
chí cắt tử cung(6,9,12,15). Do đó khảo sát siêu âm
(SA) một túi thai trên một bệnh nhân có vết mổ
lấy thai cũ phải hết sức cẩn thận. Việc chẩn đoán
sớm cho kết cục tốt hơn với bất kỳ phương pháp
điều trị nào(18). Khoảng 31 phương pháp điều trị
thai VMC được tổng kết trong báo cáo của Ilan
E. Timor‐Tritsh và Ana Monteagudo năm
2012(18), nhưng nội soi buồng tử cung lấy túi thai
và chích Methotrexate trực tiếp vào túi thai được
xem là 2 phương pháp điều trị hiệu quả với ít tai
biến nhất(15,18). Bệnh viện Hùng Vương là một
trong các bệnh viện sản phụ khoa lớn ở thành
phố Hồ Chí Minh với số sanh hằng năm hơn
40.000 ca (theo báo cáo thống kê năm 2011 và
2012 của phòng KHTH – BV Hùng Vương).
Trong năm 2010, số ca thai VMC xuất hiện rải
rác và thường được chẩn đoán lầm với thai ở cổ
tử cung. Đến năm 2011, số ca thai VMC vào
khoảng 26 trường hợp và được điều trị bằng
nhiều phương pháp khác nhau. Trong năm
2012, các ca thai VMC nhập viện tăng đáng kể
và đa số được điều trị bằng một phương pháp
thống nhất chung. Nhằm đánh giá hiệu quả của
phương pháp điều trị đang áp dụng tại bệnh
viện, một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện.
Mục tiêu của nghiên cứu này là: (1) Xác định
tỉ lệ thai VMC bị chẩn đoán lầm với thai trong tử
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 191
cung ; (2) Xác định tỉ lệ điều trị bảo tồn thành
công thai VMC; (3) Xác định thời gian chờ đợi
để βhCG và siêu âm âm tính sau điều trị.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả những hồ sơ bệnh án của những
trường hợp thai VMC được chẩn đoán và điều
trị tại bệnh viện Hùng Vương từ 01/01/2012 đến
31/12/2012 ‐ thoả tiêu chí thu nhận và loại trừ ‐
đều được hồi cứu để tìm những dữ liệu cần
thiết. Điều kiện thu nhận là những hồ sơ bệnh
án có chứa đầy đủ thông tin của những bệnh
nhân được chẩn đoán, điều trị đủ liều và theo
dõi tại bệnh viện cho đến khi điều trị kết thúc.
Những trường hợp điều trị dở dang hoặc hồ sơ
bệnh án không có đủ thông tin đều bị loại trừ
khỏi nghiên cứu.
Tất cả thông tin từ hồ sơ bệnh án đều được
ghi chép vào phiếu thu thập số liệu cấu trúc sẵn.
Phương pháp điều trị đang được áp dụng
tại bệnh viện phụ thuộc 2 nhóm bệnh nhân
khác nhau:
‐Nhóm bệnh nhân được chẩn đoán thai
VMC và chưa được can thiệp gì trước đó, và:
‐Nhóm bệnh nhân đã được can thiệp trước
khi nhập viện bằng cách hút nạo lòng tử cung
hoặc phá thai nội khoa. Những bệnh nhân này
khi nhập viện thường có khối máu tụ tại vị trí
thai VMC, có thể lớn hay nhỏ tùy theo mức độ
can thiệp ngoại viện.
Ở nhóm (1), bệnh nhân được điều trị bằng
Methotrexate tiêm tại chỗ vào khối thai qua ngã
bụng hoặc âm đạo dưới hướng dẫn của siêu âm,
có hoặc không có bổ sung bằng Methotrexate
tiêm bắp (đường toàn thân). Khám siêu âm và
xét nghiệm βhCG được thực hiện mỗi tuần. Khi
lượng βhCG bắt đầu giảm, đồng thời với sự
hình thành khối máu tụ tại vị trí thai VMC, thì
bệnh nhân được theo dõi ngoại trú mỗi tuần.
Đến thời điểm βhCG âm tính (< 5 UI/L) thì tùy
theo kích thước khối máu tụ tại VMC mà bệnh
nhân được chỉ định can thiệp thêm hay không.
Ở nhóm (2), do sự hình thành của khối tụ
máu ở vị trí thai VMC sau can thiệp ngoại viện
nên chỉ định điều trị rất thay đổi, tùy thuộc tình
trạng bệnh nhân lúc nhập viện. Ở những bệnh
nhân có xuất huyết ồ ạt lúc nhập viện thường
được nạo cầm máu và đặt sonde foley (bóng
chèn) chèn ép nơi chảy máu. Chỉ định
Methotrexate sau đó tùy thuộc vào kích thước
khối tụ máu được hình thành và lượng βhCG
sau cấp cứu ban đầu.
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần
mềm thống kê Stata 12.0. Thống kê mô tả và
các test so sánh χ2, ttest, Anova được áp dụng
để xử lý số liệu.
KẾT QUẢ
Hình 1: Thai ở VMC
Hình 2: Khối máu tụ do thai VMC
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 192
Hình 3: Thai có nhau bám ở VMC
Hình 4: Thai ở VMC sau điều trị MTX 2 liều
Trong năm 2012, 58 trường hợp thai bám
VMC được chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện
với một số đặc tính được mô tả ở bảng 1.
Bảng 1: Một số đặc tính của mẫu nghiên cứu
Đặc tính Số ca Tỉ lệ %
Tuổi
< 29 8 14
– 34 27 46
> 34 – 39 16 28
≥ 39 7 12
Số lần mổ sanh
trước
1 lần 31 53
2 lần 26 45
3 lần 1 2
Khoảng cách từ lần
mổ sanh cuối đến
lần thai này
< 12 tháng 5 9
12 – 23 tháng 4 7
≥ 24 tháng 49 84
Số con sống ≤ 2 con 51 88 ≥ 3 con 7 12
Tuổi thai lúc nhập
viện
< 7 tuần 40 69
– 9 tuần 15 26
> 9 tuần 3 5
Tuổi trung bình 34 ± 4,5, với gần 2/3 trường
hợp có tuổi còn rất trẻ <34 tuổi, cho thấy nhu cầu
bảo tồn chức năng sinh sản là cần thiết.
Số lần mang thai trung bình 2,7 ± 1,4 lần (1‐7
lần) với 53% trường hợp có vết mổ cũ mổ sanh 1
lần, 45% mổ sanh 2 lần và 2% mổ sanh 3 lần.
Khoảng cách từ lần mổ sanh cuối cùng đến
lúc thai VMC trung bình 43,2 ± 26,6 tháng (8‐120
tháng), trong đó đa số trường hợp có khoảng
cách thời gian ≥ 24 tháng.
Tuổi thai trước can thiệp nhỏ nhất 4,5 tuần,
lớn nhất 13 tuần, tuổi thai trung bình 6 ± 1,4
tuần.
Bảng 2: Bệnh cảnh lâm sàng của những trường hợp
nhập viện
Triệu chứng Số ca Tỉ lệ %
Lý do nhập viện
Khám thai
Ra huyết âm đạo bất thường
Muốn phá thai nội khoa
Đau bụng
Không đau
Đau ít
Đau nhiều
Ra huyết âm đạo
Không ra huyết
Ra huyết ít
Ra huyết nhiều
Có can thiệp trước nhập viện
Hút lòng tử cung (nạo/ ĐHKN)
Phá thai nội khoa
Điều trị MTX (đã chẩn đoán +)
Không can thiệp
Lượng βhCG/máu lúc nhập viện
≤ 1000 UI/L
1001 – 10000 UI/L
10001 - 100000 UI/L
> 100000 UI/L
11
8
39
30
26
2
28
20
10
6
14
1
37
5
21
27
5
19
14
67
52
45
3
48
34
18
10
24
2
64
9
36
46
9
Trong 58 trường hợp nhập viện có 7
trường hợp sốc mất máu nặng được mô tả chi
tiết như sau:
‐1 trường hợp băng huyết ồ ạt tại tuyến dưới
khi đang hút thai 8 tuần. Khi đến viện, bệnh
nhân đang trong tình trạng sốc mất máu nặng
tri giác lơ mơ. Lượng máu ước tính 3000mL và
chỉ định cắt tử cung cấp cứu được thực hiện.
Hậu phẫu ổn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 193
‐5 trường hợp sốc mất máu sau hút thai và
phá thai nội khoa do tuyến dưới chuyển được
kiểm soát cầm máu tốt với bóng Foley chèn cổ
tử cung song song với hồi sức truyền dịch,
truyền máu. Tình trạng bệnh nhân ổn định sau
đó và được can thiệp tiếp theo như một
Hematome VMC.
‐1 trường hợp thai 13 tuần, phá thai nội khoa
tại viện do chẩn đoán nhầm thai trong tử cung,
gây sốc mất máu 1000mL lúc sẩy thai. Can thiệp
chèn bóng Foley ở cổ tử cung được thực hiện
ngay. Tuy nhiên mỗi sau lần rút bóng Foley, chỗ
nhau bám xuất huyết trở lại gây thiếu máu
nghiêm trọng. Phẫu thuật mở bụng cầm máu và
tái tạo vết mổ thất bại dẫn cắt tử cung.
Bệnh cảnh lâm sàng của những trường hợp
nghiên cứu được mô tả chi tiết trong bảng 2.
Đa số bệnh nhân trong nhóm này là có thai
ngoài ý muốn và muốn phá thai (67%).
Đa số bệnh nhân thai VMC không có triệu
chứng đau bụng hoặc đau rất nhẹ (97%).
Xuất huyết âm đạo cũng không thường gặp
(49%), trừ trường hợp có can thiệp hút nạo lòng
tử cung hoặc phá thai nội khoa trước đó (χ2 =
32,8 ; p < 0,000).
Những bệnh nhân được can thiệp trước
nhập viện có lượng máu mất nhiều hơn so với
những trường hợp không có can thiệp (bảng 3).
Bảng 3: Lượng máu mất của các trường hợp nhập viện
Can thiệp trước nhập viện
Lượng máu mất (ml)
1000
Số ca (%)
Cộng
Số ca (%)
Hút lòng tử cung (nạo/ ĐHKN)
Phá thai nội khoa
Điều trị MTX (đã chẩn đoán +)
Không can thiệp
1 (02,2) 1 (66,7) 2 (28,6) 2 (66,7)
8 (17,8) 2 (33,3) 3 (42,8) 1 (33,3)
1 (02,2) 0 0 0
35 (77.8) 0 2 (28,6) 0
6 (10,3)
14 (24,2)
1 (01,7)
37 (63,8)
Tổng cộng 45 (77,5) 3 (5,2) 7 (12,1) 3 (5,2) 58 (100)
Hút nạo lòng tử cung gây mất máu nhiều so
với phá thai nội khoa ở những trường hợp thai
VMC (p < 0,001). Thai VMC nhập viện chưa có
can thiệp trước đó thường ít mất máu ngoại trừ
trường hợp thai quá to.
Lúc nhập viện chỉ có 7% trường hợp được
chẩn đoán thai VMC, so với 98% trường hợp
được chẩn đoán thai VMC khi nhập khoa (chỉ có
1 ca được chẩn đoán sẩy thai) (Bảng 4).
Tổng số bệnh nhân được điều trị tại khoa
nội trú là 56 trường hợp (1 trường hợp cắt TC
trước khi nhập khoa, 1 trường hợp cắt TC khi
nhập khoa).
Chi tiết điều trị của 56 trường hợp này được
mô tả ở bảng 5.
Bảng 4: Chẩn đoán thai ở VMC
Chẩn đoán Số ca Tỉ lệ %
Trước nhập viện
Chưa xác định vị trí
Thai trong TC
Thai đang sẩy
Thai đoạn eo TC
Thai VMC
Tại khoa
Sẩy thai
Thai VMC
Khối tụ máu do thai VMC
Thai trứng bán phần ở VMC
Cắt TC do thai VMC chảy máu
19
25
7
3
4
1
43
12
1
1
33
43
12
5
7
2
74
20
2
2
* Phá thai nội khoa với Misoprostol. ** Bệnh nhân được điều trị đủ 3 liều MTX ngoại viện nên chỉ chọc hút ối và theo dõi. ¶
Theo dõi không chích thuốc MTX. ¥ MTX toàn thân theo phác đồ hóa trị trong thai trứng
Trong số 51 trường hợp chích MTX (không
kể trường hợp thai trứng) có 37 ca (73%) chỉ tiêm
1 mũi MTX tại chỗ duy nhất. Số trường hợp còn
lại phải tiêm hỗ trợ mũi MTX thứ 2 (tại chỗ hoặc
toàn thân). Không có trường hợp nào phải tiêm
mũi thứ 3.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 194
Tỉ lệ điều trị bảo tồn thành công là 100%
trường hợp với lượng máu mất không đáng kể.
Khi lượng βhCG/ máu trở về âm tính, có 41/ 54
trường hợp (75,9 %) không cần can thiệp gì
thêm. Số trường hợp còn lại (24,1%) được thoát
khối máu tụ ngã âm đạo, trong đó chỉ có 2
trường hợp cần dùng bóng chèn bổ sung sau
thoát lưu máu tụ.
Thời gian trung bình để βhCG âm tính: 57,4
± 34,0 ngày (7‐127 ngày).
Thời gian trung bình để khối thai (khối máu
tụ) ly giải hoàn toàn quan sát qua siêu âm ngã
âm đạo là 67,8 ± 35,7 ngày (20‐150 ngày).
Sự khác biệt về thời gian lành bệnh của 2
nhóm bệnh nhân khi nhập viện được mô tả ở
bảng 6.
Bảng 5: Điều trị thai VMC tại khoa nội trú
Chẩn đoán tại khoa
Điều trị
CộngMTX tại chỗ
Số ca (%)
MTX toàn thân
Số ca (%)
Khác
Số ca (%)
Sẩy thai
Thai VMC
Khối tụ máu do thai VMC
Thai trứng bán phần/ VMC
36 (83,7)
1¥
6 (14,0)
9 (81,8)
1*
1 (2,3)**
2 (8,2)¶
1
43
11
1
Cộng 36 16 4 56
Bảng 6: So sánh thời gian lành bệnh của 2 nhóm bệnh nhân
Thai VMC (N = 43) Máu tụ VMC (N = 12) P*
Nồng độ βhCG khi nhập khoa (UI/L)
Thời gian trung bình βhCG âm tính (ngày)
Thời gian ly giải hết khối máu tụ (ngày)
25.440 ± 4.760
60,9 ± 5,1
70,9 ± 5,4
9.412 ± 3.708
46,3 ± 9,8
58,0 ± 10,4
0, 05
0,44
0,46
* T.test
Nhóm thai VMC chưa can thiệp có nồng độ
βhCG cao hơn nhóm đã có can thiệp trước đó.
Nhóm có can thiệp trước (tạo khối tụ máu) có
thời gian βhCG về âm tính cũng như thời gian
cho khối tụ máu ly giải hoàn toàn ngắn hơn
nhóm có thai VMC chưa xử lý. Tuy nhiên sự
khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê.
Sự tương quan giữa tuổi thai và thời gian
lành bệnh được mô tả ở bảng 7:
Bảng 7: So sánh thời gian lành bệnh theo tuổi thai
Tuổi thai P*
9 tuần
Thời gian trung bình βhCG âm tính (ngày)
Thời gian ly giải hết khối máu tụ (ngày)
51,3 ± 31,4
61,4 ± 32,7
67,8 ± 36,3
78,1 ± 37,6
106,5 ± 17,7
124,0 ± 22,6
0, 03
0,02
* Test Anova
Có sự tương quan giữa thời gian lành bệnh
với tuổi thai: Tuổi thai càng lớn thì thời gian
lành bệnh càng kéo dài (cả thời gian βhCG trở
về âm tính lẫn thời gian ly giải khối máu tụ).
BÀN LUẬN
Thai VMC là một dạng thai lạc chỗ nguy
hiểm với nhiều biến chứng nặng nề. 58 trường
hợp thai VMC được thu thập với tuổi thai trung
bình là 6 ± 1,4 tuần (4,5 ‐ 13 tuần). Đa số các
trường hợp thai VMC ít có triệu trứng đặc hiệu.
Việc chẩn đoán sớm và can thiệp tích cực thai
VMC mang lại hiệu quả an toàn và cải thiện
chức năng sinh sản trong những lần có thai tiếp
theo. Đặc biệt thai VMC tập trung vào những
phụ nữ trẻ ≤ 34 tuổi (60%). Tổng quan của
Timor‐Tritsch và cộng sự(18) cho rằng việc chẩn
đoán sớm thai VMC không đơn giản. Nghiên
cứu của chúng tôi ghi nhận 58 trường hợp thai
vết mổ cũ, trong đó có 20 trường hợp chẩn đoán
nhầm thai VMC với thai trong tử cung và sẩy
thai diễn tiến. Quyết định hút nạo lòng tử cung
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Sản Phụ Khoa 195
và uống thuốc phá thai nội khoa tạo ra 20%
trường hợp biến thể của thai VMC – Hematome
VMC, trong đó 7 trường hợp rơi vào trạng thái
sốc mất máu nặng 600‐3000mL. Can thiệp hồi
sức chống sốc, truyền dịch, truyền máu, truyền
huyết tương đông lạnh cùng đặt bóng Foley
chèn cổ tử cung giúp bảo tồn được 5 tử cung.
Hai trường hợp buộc phải cắt tử cung để cầm
máu. Vì quan niệm thai VMC ở Việt Nam chỉ
được chú ý trong 5 năm gần đây, tập trung ở
những bệnh viện lớn, những báo cáo về thai
VMC lại chưa được phổ biến rộng rãi nên tỉ lệ
chẩn đoán nhầm với thai trong tử cung hay sẩy
thai tiến triển còn khá cao. Siêu âm ngã âm đạo
với đầu dò tần số cao, có hay không phối hợp
với Doppler cộng với thái độ thận trọng sẽ giúp
chẩn đoán sớm thai bám VMC ở những thai phụ
từng có vết mổ lấy thai. Việc chẩn đoán muộn
hay nhầm với thai trong tử cung cho tiếp tục
dưỡng thai có thể dẫn đến vỡ tử cung tự phát
khi thai được 13‐17 tuần(7,14), thậm chí thoát vị
bàng quang vào tử cung(8). Can thiệp khi vỡ thai
VMC có tiên lượng khá xấu. Một số khác sẽ diễn
tiến thành nhau cài răng lược sớm(16,18). Cắt tử
cung thường là kết cục thường gặp(15,18,17,19,,21).
Điều trị sớm và tích cực mang lại hiệu quả an
toàn cao. 31 phương pháp được đề nghị(18)
nhưng hút nạo lòng tử cung hay phá thai nội
khoa không phải là lựa chọn hàng đầu. Hầu hết
các nghiên cứu đều gặp phải tai biến xuất huyết
nặng và đôi khi phải cắt tử cung khi can thiệp
hút nạo lòng tử cung được thực hiện ở thai
VMC(11,13,14,15,18,17,19,21). Nghiên cứu của chúng tôi có
7 trường hợp sốc mất máu nặng vì can thiệp này
và hai trường hợp phải cắt tử cung. Hai phương
pháp điều trị được xem là hiệu quả với ít tai biến
nhất là nội soi buồng tử cung lấy túi thai và tiêm
Methotrexate trực tiếp vào túi thai(18). Năm 2011
chúng tôi có thực hiện vài trường hợp lấy túi
thai qua nội soi buồng tử cung. Tuy thành công
nhưng cuộc mổ lại mất khá nhiều thời gian và
chi phí cho bệnh nhân. Đó là chưa nói đến phải
có sự đầu tư về dụng cụ nội soi cũng như đòi
hỏi bác sĩ phụ khoa phải thật kinh nghiệm.
Những yêu cầu đó mang lại nhiều bất lợi trong
công tác điều trị thai VMC hiện nay. Năm 2012,
việc tiếp cận với phương pháp tiêm
Methotrexate trực tiếp vào khối thai mang lại
nhiều thành công. 100% trường hợp bảo tồn
được tử cung – chức năng sinh sản của người
phụ nữ với chi phí điều trị thấp, trong đó 73%
trường hợp chỉ tiêm 1 mũi Methotrexate duy
nhất. Tuy nhiên thời gian theo dõi khá dài, trung
bình 2 tháng. Thời gian để βhCG âm tính trung
bình 57,4 ± 34,0 ngày và thời gian để mất hình
ảnh thai VMC trên siêu âm ngã âm đạo trung
bình là 67,8 ± 35,7 ngày. Nghiên cứu của Seow
KM và cộng sự năm 2004 cũng có những ghi
nhận tương tự, khối thai VMC thoái triển chậm
từ 2 tháng đến 1 năm sau điều trị(15). Tuy nhiên
khi βHCG âm tính mà khối thai VMC còn lớn >=
3cm, chúng tôi sẽ tiến hành nong CTC và thoát
lưu khối máu tụ dưới sự hướng dẫn của siêu
âm. Về mặt thống kê y học, có vẻ như can thiệp
hút lòng tử cung hoặc uống thuốc phá thai nội
khoa có thể rút ngắn thời gian theo dõi (p=0,44
và p=0,46) nhưng thực sự không nhiều mà tai
biến do hai can thiệp này gây ra lại hết sức nặng
nề. Thay vào đó, tuổi thai ở thời điểm điều trị có
liên quan đến thời gian lành bệnh hơn: tuổi thai
càng nhỏ thì việc điều trị càng thuận lợi và thời
gian càng ngắn.
Tuy mẫu nghiên cứu chưa nhiều nhưng
cũng cho chúng tôi một cái nhìn tổng quát về
những gì đã và đang diễn ra xung quanh chẩn
đoán thai VMC, đồng thời giúp chúng tôi đánh
giá được phần nào hiệu quả điều trị thai VMC
bằng tiêm MTX taị chỗ.
KẾT LUẬN
Siêu âm thận trọng thai trong giai đoạn sớm
ở bệnh nhân có vết mổ lấy thai cũ giúp phát hiện
sớm thai VMC. Can thiệp hút lòng tử cung hay
phá thai nội khoa không nên được chọn lựa đầu
tay để điều trị thai VMC. Trong bối cảnh Việt
Nam hiện tại, chích Methotrexate (tại chỗ hoặc
toàn thân) giúp bảo tồn tử cung thành công
100% cho bệnh nhân thai VMC với nguy cơ tai
biến thấp nhất.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 196
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abraham RJ & Weston MJ (2012). Expectant management of a
caesarean scar pregnancy. Journal of Obstetrics and Gynaecology ;
32: 695–696.
2. Anis Fadhlaoui, Mohamed Khrouf, Khaled Kh´ emiri, Kais
Nouira, Anis Chaker and Fethi Zhioua (2012). Successful
Conservative Treatmentofa CesareanScar Pregnancy with
Systemically Administered Methotrexate and Subsequent
Dilatation and Curettage: A Case Report. Obstetrics and
Gynecology; 1‐6.
3. Ash A, Smith A, Maxwell D (2007). Caesarean scar pregnancy.
BJOG; 114:253‐263.
4. Bignardi T and Condous G (2010). Transrectal ultrasound‐
guided surgical evacuation of Cesarean scar ectopic pregnancy.
Ultrasound Obstet Gynecol 2010; 35: 481–485.
5. Clark SL, Koonings PP, Phelan JP (1985). Placenta previa/accrete
and prior cesarean section. Obstet Gynecol; 66:89‐92.
6. Deniz Cemgil Arikan, EmreTurgut, Gὕrkan Kiran, Hakan Kiran
(2012). Cesarean scar pregnancy treated with methotrexate and
dilatation‐currettage: case report. Dicle Medical Journal 39(1):
102‐104.
7. Godin PA, Bassil S, Donnez J(1997). An ectopic pregnancy
developing in a previous caesarian section scar. Fertility And
Steriltty; 67:398‐400.
8. Goodyear ES, Freeman AJ (1956). Ceasarean scar rupture:
Herniation of bladder wall into uterus through rupture of low
cervical cesarean scar; report a case. Obstetric and Gynecology;
7(1): 78‐79.
9. Halperin R, Schneider D, Mendlovic S, Pansky M, Herman A,
and Maymon R (2009). Uterine‐preserving emergency surgery
for cesarean scar pregnancies: another medical solution to an
iatrogenic problem. Fertility and Sterilit; 91(6): 2623‐2627.
10. Jurkovic D, Hillaby K, Woelfer B, Lawrence A, Salim R, Elson
CJ (2003). First trimester diagnosis and management of
pregnancies implanted into the lower uterine Caesarean section
scar. Ultrasound Obstet Gynecol; 21:220‐7.
11. Larsen JV, Solomon MH (1978). Pregnancy in a uterine scar
sacculus – an unusual cause of postabortal haemorrhage. Acase
report. S Afr Med J; 53:142‐3.
12. Maymon R, Svirsky R, Smorgick N, Mendlovic S, Halperin R,
Gilad K, Tobvin Y(2011). Fertility Performance and Obstetric
Outcomes Among Women With Previous Cesarean Scar
Pregnancy. J Ultrasound Med ; 30:1179–1184.
13. Osborn DA, Williams TR, Craig BR (2012). Cesarean Scar
Pregnancy: Sonographic and Magnetic Resonance Imaging
Findings, Complications, and Treatment. J Ultrasound Med;
31:1449–1456.
14. Rotas MA, Haberman S, Levgur M (2006). Cesarean scar ectopic
pregnancies: Etiology, Diagnosis, and Management. Obstet
Gynecol; 107(6): 1373‐81.
15. Seow KM, Huang LW, Lin YH, Yan‐Sheng Lin M,Tsai YL
(2004). Cesarean scar pregnancy: issues in management.
Ultrasound Obstet Gynecol; 23: 247‐253.
16. Sinha P, Mishra M (2012). Caesarean scar pregnancy: A
precursor of placenta percreta/accreta. Journal of Obstetrics and
Gynaecology; 32: 621–623.
17. Tan WC, Pang YPC, Yong TT, Koh PKE, Tan HK, Ho TH (2012).
Caesarean section scar pregnancy: a case series at a single
tertiary centre. Singapore Med J 53(10) : 638.
18. Timor‐Tritsch IE, Monteagudo A (2012). Unforeseen
consequences of the increasing rate of cesarean deliveries: early
placenta accrete and cesarean scar pregnancy. A review. Am J
Obstet Gynecol: 14‐29.
19. Vaknin Z, Maymon R, Halperin R, Mendlovic S, Schneider D,
Herman A, Pansky M (2004). Ectopic pregnancies in Caesarean
section scar: the 8 year experience of one medical center. Human
Reproduction; 19(2): 278‐284.
20. Vikhareva OO et al (2011). Clinical Importance of Appearance
of Cesarean Hysterotomy Scar at Transvaginal
Ultrasonography in Nonpregnant Women. Obstetrics &
Gynecology ; 117( 3): 525‐532.
21. Yam PKL, Hong SC, Lau MSK, (2011). Ectopic pregnancy in
previous Caesarean section scar. Singapore Med J; 52(6) : 115.
Ngày nhận bài báo : 30/09/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo : 30/10/2013
Ngày bài báo được đăng : 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chan_doan_va_dieu_tri_bao_ton_thai_vet_mo_cu_tai_benh_vien_h.pdf