0,05). Kết quả này phù hợp nghiên cứu của Daiana P.
Rodrigues-De-Souza [6]. Chúng tôi cho rằng sự khác
nhau về CLGN giữa 2 giới có thể do trong xã hội hiện
đại, người phụ nữ phải chịu áp lực công việc nhiều
hơn nam giới vì ngoài công việc xã hội họ còn luôn
phải chăm lo, quan tâm, quán xuyến cho gia đình.
Ngoài ra người phụ nữ với thiên chức làm mẹ, sinh
con và nuôi con nhỏ kéo dài nhiều tháng, nhiều năm
nên dễ làm rối loạn giấc ngủ cũng như hao tổn âm
huyết. Sách Linh Khu viết “Người phụ nữ sinh ra, có
thừa về Khí, bất túc về Huyết, là vì bị thoát huyết
nhiều lần”[3]. Huyết không nuôi Tâm nên tâm thần
không yên mà dẫn đến không ngủ được. Ngoài ra
CLGN giữa nam và nữ còn do nhiều yếu tố khác chi
phối, ví dụ trong nghiên cứu của chúng tôi tình trạng
đau ảnh hưởng không nhỏ tới CLGN. Nữ giới thường
cảm nhận đau cao hơn nam giới, do vậy nữ giới có
CLGN kém hơn.
Thể lâm sàng Y học cổ truyền: Thể lâm sàng Y
học cổ truyền với CLGN tốt và kém có tỷ lệ khác biệt
không đáng kể. Theo Y học cổ truyền, chứng không
ngủ được có hư thực khác nhau. Đối với không ngủ
được do hư chứng đều do chính khí bất túc. Hải
Thượng Lãn Ông cho rằng: Mất ngủ dẫn đến ngũ
tạng bị hư, ngũ tạng bị hư gây nên mất ngủ. Còn đối
với không ngủ được thuốc thực chứng phần nhiều
là do tà quấy rối tâm thần, phát sinh đột ngột, khó
đi vào giấc ngủ [2]. Đó cũng là một số yếu tố mà thể
phong hàn thấp kèm can thận hư (thể mạn) và thể
khí trệ huyết ứ (thể cấp) làm giảm chất lượng giấc
ngủ trên bệnh nhân.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 29 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng giấc ngủ và các yếu tố liên quan theo y học cổ truyền ở bệnh nhân đau thần kinh tọa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
30
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Địa chỉ liên hệ: Trương Văn Trí, email: drtruongtri@gmail.com
Ngày nhận bài: 5/10/2018, Ngày đồng ý đăng: 22/10/2018; Ngày xuất bản: 8/11/2018
CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN THEO
Y HỌC CỔ TRUYỀN Ở BỆNH NHÂN ĐAU THẦN KINH TỌA
Nguyễn Quang Tâm, Đoàn Văn Minh
Khoa Y học cổ truyền, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Đau thần kinh tọa là một bệnh thường gặp trên lâm sàng. Bệnh có xu hướng tiến triển kéo dài,
dễ tái phát và thường kèm theo các triệu chứng toàn thân như: ăn kém, ngủ kém. Trong đó chất lượng giấc
ngủ giảm sút là một trong những than phiền phổ biến nhất của bệnh nhân đau thần kinh tọa. Nó gây nhiều
ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý làm giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả điều
trị bệnh chính. Hiện nay việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân, đặc biệt là cải thiện chất lượng
giấc ngủ đang được nhiều nhà khoa học quan tâm. Mục tiêu: Khảo sát chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân đau
thần kinh tọa, tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên
cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 90 bệnh nhân ≥ 18 tuổi vào điều trị tại Bệnh viện Y học cổ truyền
Thừa Thiên Huế, Khoa Y hoc cổ truyền Bệnh viện Trung ương Huế được chẩn đoán xác định đau thần kinh
tọa. Kết quả: Các bệnh nhân có tuổi trung bình là 56,2 ± 14,5. Tỷ lệ bệnh nhân đau thần kinh tọa có chất lượng
giấc ngủ kém là 78,9% (n=71) với chỉ số PSQI trung bình là 9,5 ± 4. Có mối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ
với tuổi, mức độ đau và giới. Chưa tìm thấymối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ với thể lâm sàng Y học cổ
truyền bệnh đau thần kinh tọa. Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân có chất lượng giấc ngủ kém trên bệnh nhân đau
thần kinh tọa khá cao. Có mối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ với tuổi, giới, mức độ đau.
Từ khóa: Thang đo chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (PSQI), chất lượng giấc ngủ, đau thần kinh tọa.
Abstract
SLEEP QUALITY AND RELATED FACTORS
ACCORDING TO TRADITIONAL MEDICINE IN SCIATICA PATIENTS
Nguyen Quang Tam, Doan Van Minh
Faculty of Traditional Medicine, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Sciatica is a common desease in clinical. This disease tends to progress over time, easy
to relapse, often accompanied by the systemic symptoms such as: eat less, sleep less. In which reduced
sleep quality is one of the most common complaints of patients with sciatica. It causes many health and
psychological affect, leading to reduces the quality of life, impact negatively on the efficient treatment.
Therefore, improving sleep quality is being considered by many scientists. Objective: To survey sleep quality
in patients with sciatica and to find out a number of factors related to sleep quality. Methods: Cross-section
was used in this study. The reseach was conducted on 90 patients over 18 years of age were diagnosed sciatica
at Thua Thien Hue Traditional Medicine Hospital and Department of Traditional Medicine of Hue Central
Hospital. Results: The patients had a mean age of 56.2 ± 14.5. The percentage of patients who have poor
sleep quality was 78.9% (n = 71) with the average PSQI index was 9.5 ± 4. There was significant relationship
between sleep quality and some factor, such as age, pain, gender. We did notfind outthe relationship between
sleep quality and thesciatica classification according to traditional medicine. Conclusion: The rate of patients
who have poor sleep quality was quite high. There was significant relationship between sleep quality and
age, gender and pain level.
Keywords: Scale Pittsburgh sleep quality (PSQI), sleep quality, sciatica.
Nguyễn Quang Tâm, email: nqtam huemed-univ.edu.vn DOI: 10.34071/jmp.2019.1.5
23/5 /2019; Ngày xuất bản: 25 2/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau thần kinh tọa là một bệnh thường gặp trên
lâm sàng, ở mọi lứa tuổi với tỷ lệ từ 13% đến 40% và
tỉ lệ hàng năm tương ứng của đau thần kinh tọa là
từ 1-5% [14]. Trong Y học cổ truyền, đau thần kinh
tọa được miêu tả trong phạm vi “chứng tý” với các
bệnh danh như yêu thống, yêu cước thống, tọa cốt
phong Bệnh có xu hướng tiến triển kéo dài, dễ tái
phát, và thường đi kèm theo triệu chứng toàn thân
như ăn kém, ngủ kém. Trong đó chất lượng giấc
31
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
ngủ kém là một trong những than phiền phổ biến
nhất của bệnh nhân đau thần kinh tọa [9]. Nó gây
nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý, khả năng
làm việc của bệnh nhân làm giảm chất lượng cuộc
sống từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả điều
trị bệnh chính [1]. Hiện nay, vấn đề nâng cao chất
lượng cuộc sống cho bệnh nhân, đặc biệt là cải thiện
chất lượng giấc ngủ đang được nhiều nhà khoa học
quan tâm. Tại Việt Nam, đã có những nghiên cứu về
rối loạn giấc ngủ trong một số bệnh lý nhưng vẫn
chưa tập trung nghiên cứu về tình trạng rối loạn
chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân đau thần kinh tọa.
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Chất lượng giấc ngủ và các yếu tố liên quan theo Y
học cổ truyền ở bệnh nhân đau thần kinh tọa” với
2 mục tiêu:
1. Khảo sát chất lượng giấc ngủ ở bệnh nhân đau
thần kinh tọa dựa vào thang đánh giá chất lượng
giấc ngủ PSQI.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan với rối loạn
chất lượng giấc ngủ theo học cổ truyền ở bệnh nhân
đau thần kinh tọa.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Đối tượng: Nghiên cứu được thực hiện trên
bệnh nhân (BN) được chẩn đoán xác định là đau
thần kinh tọa đang được điều trị tại bệnh viện Y
học cổ truyền tỉnh Thừa thiên Huế và Khoa Y học cổ
truyền, bệnh viện Trung ương Huế.
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 7 đến tháng 12
năm 2016
• Các tiêu chuẩn lựa chọn gồm:
- BN ≥ 18 tuổi, đồng ý tham gia nghiên cứu
- BN được chẩn đoán là đau thần kinh tọa theo
Y học hiện đại
• Các tiêu chuẩn loại trừ gồm:
- BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Bệnh đau thần kinh tọa kèm theo các bệnh mạn
tính nặng như suy gan, suy thận, suy tim, cao huyết
áp
- BN bị rối loạn chất lượng giấc ngủ (CLGN) trước
khi phát hiện bệnh lý đau thần kinh tọa (khai thác
qua các triệu chứng than phiền về thời gian cũng
như chất lượng giấc ngủ).
- BN có các sang chấn tâm lý trước khi nhập viện.
- Phụ nữ có thai.
- BN có chỉ định phẫu thuật.
- BN quá suy kiệt không thể trả lời các câu hỏi
trong quá trình thăm khám.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang
2.3. Cỡ mẫu:
Cỡ mẫu được tính theo công thức ước tính một
tỷ lệ:
Trong đó:
α: là mức có ý nghĩa thống kê, chọn α = 0,05.
Z2
a/2
: ở đây Z (0,05/2) = 1,96.
p = 0,87 (tỷ lệ bệnh nhân có chất lượng giấc ngủ
kém, PSQI > 5 theo nghiên cứu về chất lượng giấc
ngủ trên bệnh nhân có bệnh lý cột sống gây đau của
Canada) [10].
d: là sai số cho phép, chọn tỉ lệ này là 10%.
Cỡ mẫu tối thiểu: 44.
Cỡ mẫu trong nghiên cứu: n =90
2.4. Phương pháp thu thập thông tin: Số liệu
được thu thập theo bộ câu hỏi soạn sẵn.
2.5. Công cụ đánh giá:
- Thang đo chất lượng giấc ngủ Pittsburgh
(PSQI) [5]: Thang đo chất lượng giấc ngủ - Pittsburgh
Sleep Quality Index – PSQI được đề nghị sử dụng cả
trong thực hành lâm sàng và nghiên cứu tâm thần.
Chỉ số PSQI là tổng hợp điểm của một bảng câu hỏi
mà người được hỏi tham gia trả lời gồm 4 câu hỏi có
kết thúc mở, 14 câu hỏi khi trả lời cần dựa trên tần
suất sự kiện (không, ít hơn 1 lần/ tuần, 1-2 lần/tuần,
3 hoặc trên 3 lần/tuần) trên 7 phương diện: Chất
lượng giấc ngủ chủ quan, thời gian để đi vào giấc
ngủ, hiệu quả giấc ngủ theo thói quen (tỷ lệ toàn
bộ thời gian ngủ và thời gian nằm trên giường), các
yếu tố ảnh hưởng đến giấc ngủ, việc sử dụng thuốc
kích thích giấc ngủ (bao gồm cả thuốc được kê đơn
và không kê đơn) và những bất thường về thời gian
ngủ trong ngày.
Với số điểm dao động từ 0-21 điểm, với điểm
càng cao thì chất lượng giấc ngủ càng kém, nếu tổng
điểm PSQI lớn hơn 5 điểm thì đánh giá có chất lượng
giấc ngủ kém. Độ nhạy đạt 89,6%, độ đặc hiệu đạt
86,5%.
- Thang điểm đánh giá mức độ mức độ đau VAS
(visual analog scales): Công cụ này thường được sử
dụng cho người trưởng thành để xác định mức độ
đau hiện tại và mức độ của đau trong quá khứ.
- Trước khi đo, bệnh nhân phải được nghỉ ngơi
yên tĩnh, không bị các kích thích khác từ bên ngoài,
sau đó giải thích và mô tả cho bệnh nhân hiểu rõ
phương pháp đánh giá cảm giác đau để bệnh nhân
tự chỉ ra mức độ đau của mình.
32
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Hình 1. Thang điểm số học VAS
Điểm đau VAS được phân loại: VAS = 0 điểm là không đau; VAS từ 1 - 2,5 điểm là đau nhẹ; VAS từ 2,6 - 5
điểm là đau vừa; VAS ≥ 5 là đau nặng.
2.7. Phân tích số liệu: Số liệu thu thập được mã hóa sau đó được xử lý và phân tích bằng phần mềm SPSS
20.0. Khác biệt với ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Phân tích đơn biến với kiểm định khi bình phương.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3.1. Đặc điểm phân bố theo tuổi
Biểu đồ 3.2. Đặc điểm phân bố theo giới.
Nhận xét: Đa số bệnh nhân nằm trong độ tuổi từ ≥ 60 tuổi chiếm tỷ lệ 45,6%. Tỷ lệ nữ/nam = 1,73. Độ tuổi
trung bình là 56,2 ±14,5.
3.2. Phân bố thể lâm sàng Y học cổ truyền bệnh đau thần kinh tọa
Thể Phong hàn thấp kèm can thận hư có 51 BN chiếm 56,7%. Thể khí trệ huyết ứ có 37 BN chiếm 41,1%.
Thể phong hàn có 2 BN chiếm 2,2%.
3.3. Chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân Đau thần kinh tọa
Điểm PSQI trung bình của 90 BN là 9,5 ± 4.
Số giờ ngủ trung bình mỗi đêm của 90 BNlà 5,2 ± 1,5 giờ.
33
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Bảng 3.1. Chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân au thần kinh tọa theo PSQI
Chất lượng giấc ngủ Số lượng Tỷ lệ
Tốt 19 21,1
Kém 71 78,9
Nhận xét: Đa số bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều có chất giấc ngủ kém.
3.4. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân
Bảng 3.2. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ
Đặc điểm
Chất lượng giấc ngủ
p Tốt Kém
n % n %
Tuổi ≤ 45 8 8,9 14 15,6
45 11 12,2 57 63,3
Giới Nam 8 8,9 25 27,8
< 0,05
Nữ 10 11,1 47 52,2
Mức độ đau
theo VAS
Đau nhẹ 8 8,9 10 11,1
< 0,05Đau vừa 6 6,7 33 36,7
Đau nặng 5 5,6 28 31,1
Thể lâm sàng
Phong hàn thấp kèm can
thận hư
9 10,2 42 47,7
> 0,05
Khí trệ huyết ứ 9 10,2 28 31,9
Nhận xét: Có mối liên quan giữa chất lượng giấc ngủ với nhóm tuổi, giới, mức độ đau (p < 0,05). Chưa tìm
thấy mối liên quan đến thể lâm sàng Y học cổ truyền đau thần kinh tọa (p > 0,05).
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Qua biểu đồ 3.1 ta thấy sự phân bố bệnh chiếm
tỷ lệ cao nhất là ≥ 60 tuổi (45,6%). Theo chúng tôi
BN tuổi càng cao thì thoái hóa cột sống càng nhiều
do sự lão hóa, đây là nguyên nhân quan trọng dẫn
tới đau thần kinh tọa. Tỷ lệ mắc bệnh ở nữ giới cao
hơn nam giới, tỷ lệ nữ/nam = 1,73. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của Kika Konstantinou, tỷ lệ nữ/
nam là 1,67 [9].
4.2. Chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân Đau
thần kinh tọa
Trong nghiên cứu của National Sleep Foundation
Hoa Kỳ (NSF) thời gian ngủ được kiến nghị ở nhóm
18 -64 tuổi là7 - 9 giờ còn lớn hơn 65 tuổi là 7 - 8 giờ
[8]. Trong nghiên cứu của chúng tôi thời gian ngủ
trung bình của 90 BN là 5,2 ± 1,5 giờ mỗi đêm, thời
gian ngủ này ít hơn rất nhiều so với thời gian kiến
nghị của NSF.
Sau khi tổng hợp và tính điểm từ nhân tố cấu
thành bộ câu hỏi, chúng tôi đưa ra kết quả đa số
bệnh nhân (78,9%) có chất lượng giấc ngủ kém
(điểm PSQI > 5). Tỷ lệ này thấp hơn kết quả của một
số tác giả: M.M. Zarrabianlà 87%[10]; Yeh CH là 87%
[13]. Thêm vào đó nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy tỷ lệ BN có chất lượng giấc ngủ kém do một số
nguyên nhân: thời gian ngủ mỗi đêm quá ít, khó đi
vào giấc ngủ, hiệu suất giấc ngủ thấp...
4.3. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng
giấc ngủ
Tuổi: Trong nghiên cứu của chúng tôi, có mối liên
quan giữa tuổi và chất lượng giấc ngủ (p < 0,05). Kết
quả này phù hợp với các nghiên cứu của WilsonS
and NuttD [12]. Chúng ta biết rằng khi độ tuổi càng
cao con người càng có nhiều vấn đề cần bận tâm,
lo lắng. Bên cạnh những stress từ xã hội như công
việc, thu nhậpthì các yếu tố về thể chất cũng tác
động không nhỏ đến giấc ngủ của con người. Y học
cổ truyền cho rằng Âm huyết là phần vật chất quan
trọng tạo thành cơ thể con người. Nếu âm huyết hư
sẽ gây chứng ngủ kém. Hơn nữa dương khí có đầy
đủ hay không cũng phải nương nhờ âm huyết mà
tồn tại. Theo Nội kinh “người đến 40 tuổi thì âm khí
đã kém đến phân nữa” nên nói khí dương thường
thừa mà khí âm thường thiếu. Do đó tuổi cũng là
một yếu tố ảnh hưởng đến giấc ngủ.
Giới tính: Đối tượng nữ giới có CLGN kém hơn
nam giới. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <
34
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
0,05). Kết quả này phù hợp nghiên cứu của Daiana P.
Rodrigues-De-Souza [6]. Chúng tôi cho rằng sự khác
nhau về CLGN giữa 2 giới có thể do trong xã hội hiện
đại, người phụ nữ phải chịu áp lực công việc nhiều
hơn nam giới vì ngoài công việc xã hội họ còn luôn
phải chăm lo, quan tâm, quán xuyến cho gia đình.
Ngoài ra người phụ nữ với thiên chức làm mẹ, sinh
con và nuôi con nhỏ kéo dài nhiều tháng, nhiều năm
nên dễ làm rối loạn giấc ngủ cũng như hao tổn âm
huyết. Sách Linh Khu viết “Người phụ nữ sinh ra, có
thừa về Khí, bất túc về Huyết, là vì bị thoát huyết
nhiều lần”[3]. Huyết không nuôi Tâm nên tâm thần
không yên mà dẫn đến không ngủ được. Ngoài ra
CLGN giữa nam và nữ còn do nhiều yếu tố khác chi
phối, ví dụ trong nghiên cứu của chúng tôi tình trạng
đau ảnh hưởng không nhỏ tới CLGN. Nữ giới thường
cảm nhận đau cao hơn nam giới, do vậy nữ giới có
CLGN kém hơn.
Thể lâm sàng Y học cổ truyền: Thể lâm sàng Y
học cổ truyền với CLGN tốt và kém có tỷ lệ khác biệt
không đáng kể. Theo Y học cổ truyền, chứng không
ngủ được có hư thực khác nhau. Đối với không ngủ
được do hư chứng đều do chính khí bất túc. Hải
Thượng Lãn Ông cho rằng: Mất ngủ dẫn đến ngũ
tạng bị hư, ngũ tạng bị hư gây nên mất ngủ. Còn đối
với không ngủ được thuốc thực chứng phần nhiều
là do tà quấy rối tâm thần, phát sinh đột ngột, khó
đi vào giấc ngủ [2]. Đó cũng là một số yếu tố mà thể
phong hàn thấp kèm can thận hư (thể mạn) và thể
khí trệ huyết ứ (thể cấp) làm giảm chất lượng giấc
ngủ trên bệnh nhân.
Mức độ đau theo thang điểm VAS: Có mối liên
quan giữa mức độ đauvới chất lượng giấc ngủ (p <
0,05). Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu
của một số tác giả: Gerhart JI [7], Smith MT [11].
Họ đưa ra kết luận rằng yếu tố đau quấy rầy liên
tục giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ kém làm trầm
trọng thêm cơn đau. Nghiên cứu của Choy EH cũng
cho biết việc cải thiện chất lượng giấc ngủ có thể
làm giảm đau và mệt mỏi nên việc nâng cao chất
lượng giấc ngủ có ảnh hưởng tốt trong điều trị bệnh
chính [4].
5. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân
có chất lượng giấc ngủ kém trên bệnh nhân đau
thần kinh tọa là 78,9%. Có mối liên quan giữa chất
lượng giấc ngủ với tuổi, giới, mức độ đau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Chương (2004), “Thực hành lâm sàng
thần kinh học”, Nhà xuất bản Y học, tr 81- 84.
2. Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác) (1997), Hải
Thượng Y tông tâm lĩnh, Nxb Y học Hà Nội.
3. Viện Nghiên cứu Trung Y (chủ biên) - Nguyễn Thiện
Quyến (dịch) (1998), “Chẩn đoán phân biệt các chứng hậu
trong Đông Y”, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, tr 520-527.
4. Choy EH (2015), “The role of sleep in pain and
fibromyalgia”, Nat Rev Rheumatol, 11(9):513-20.
5. Daniel J. Buysse, Charles F. Reynolds III, Timothy
H. Monk, Susan R. Berman, David J. Kupfer (1989), “The
Pittsburgh sleep quality index: A new instrument for
psychiatric practice and research” Retrieved Department
of Psychiatry, University of Pittsburgh School of Medicine.
6. Daiana P. Rodrigues-De-Souza, César Fernández-
De-Las-Penas, Francisco J. Martín-Vallejo, Juan F.
Blanco-Blanco, Lourdes Moro-Gutiérrez, và Francisco
Alburquerque-Sendín (2016), “Differences in pain
perception, health-related quality of life, disability, mood,
and sleep between Brazilian and Spanish people with
chronic non-specific low back pain”, 20 (5): 412-421.
7. Gerhart JI, Burns JW, Post KM, Smith DA, Porter LS,
Burgess HJ, Schuster E, Buvanendran A, Fras AM, Keefe FJ
(2016), “Relationships Between Sleep Quality and Pain-
Related Factors for People with Chronic Low Back Pain:
Tests of Reciprocal and Time of Day Effects”, Ann Behav
Med, 95(8):1504-9.
8. Hirshkowitz M và cộng sự (2015), “National sleep
Founation’s sleep time duration recommmedations:
methodology and results summary”, Sleep Health.
9. Kika Konstantinou, Kate M. Dunn, Reuben Ogollah,
Steven Vogel, Elaine M. Hay ( 2015), “Characteristics of
patients with low back and leg pain seeking treatment
in primary care: baseline results from the ATLAS cohort
study” BMC Musculoskelet Disord, 16: 332.
10. M.M. Zarrabian, M. Johnson, and D. Kriellaars
(2014), “The relationship between sleep, pain and
disability in patients with spinal pathology”, Arch Phys
Med Rehabil,95(8):1504-9.
11. Smith MT, Haythornthwaite JA (2004), “How do
sleep disturbance and chronic pain inter-relate? Insights
from the longitudinal and cognitive-behavioral clinical
trials literature” , Sleep Med Rev, 8(2):119-32.
12.Wilson S and Nutt D (2008), “Insomnia: guide to
diagnosis and choice of treatment”, Prescriber, 19(8), tr.
14-24.
13. Yeh CH, Suen LK, Shen J, Chien LC, Liang Z, Glick
RM, Morone NE, Chasens ER (2016), “Changes in Sleep
With Auricular Point Acupressure for Chronic Low Back
Pain”, Behav Sleep Med, 14(3):279-94.
14. Zongshi Qin, Xiaoxu Liu, Qin Yao, Yanbing Zhai,
Zhishun Liu (2016) “Acupuncture for treating sciatica:
Asystematic review protocol”, BMJ Open.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
chat_luong_giac_ngu_va_cac_yeu_to_lien_quan_theo_y_hoc_co_tr.pdf