Chất lượng môi trường trầm tích đầm Nại
khá tốt với hàm lượng C hữu cơ phù hợp cho
đời sống động vật đáy, hàm lượng Nt và Pt
không cao, hàm lượng các kim loại nặng (Zn,
Cu, Fe, Cr, Pb, Mn, Cd) không gây ảnh hưởng
xấu cho đời sống thủy sinh. Vật chất hữu cơ
trong trầm tích đầm chủ yếu có nguồn gốc lục
nguyên (terrigeneous organic matter), trong
trầm tích lạch có sự ưu thế của các nguồn vật
chất hữu cơ từ hoạt động con người.
Theo thời gian từ năm 1995 đến nay hàm
lượng các chất hữu cơ (N và P) và các kim loại
nặng (Zn, Cu, Pb, Cd) trong trầm tích có xu thế
gia tăng trong khi hàm lượng C hữu cơ có xu
thế giảm.
Hàm lượng các chất hữu cơ (C, N và P) trong
trầm tích đầm Nại tương đương với đầm Thị Nại,
thấp hơn so với đầm Ô Loan và cao hơn so với
đầm Đề Gi trong khi hàm lượng các kim loại
nặng không có xu thế biến đổi rõ ràng.
Lời cảm ơn: Tác giả xin chân thành cảm ơn
các đồng nghiệp, phòng Thủy Địa hóa - Viện
Hải dương học đã cho phép sử dụng số liệu.
9 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 644 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng môi trường trầm tích Đầm Nại, tỉnh Ninh Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
59
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 1; 2014: 59-67
ISSN: 1859-3097
CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG TRẦM TÍCH ĐẦM NẠI,
TỈNH NINH THUẬN
Lê Thị Vinh
Viện Hải dương học-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
E-mail: levinh62@gmail.com
Ngày nhận bài: 8-7-2013
TÓM TẮT: Bài báo trình bày một số kết quả nghiên cứu chất lượng môi trường trầm tích đầm
Nại vào tháng 5 năm 2011. Kết quả phân tích cho thấy hàm lượng các chất hữu cơ và kim loại nặng
trong trầm tích đầm Nại biến đổi trong phạm vi rộng (C hữu cơ từ 0,08 - 1,44 %, N tổng từ 505,3 -
1.279 μg/g, P tổng số từ 349,0 - 834,2 μg/g, Zn từ 5,2 - 49,9 μg/g, Cd từ 0,12 - 0,5 μg/g, Cu từ 0,8 -
11,1 μg/g, Pb từ 13,7 - 21,1 μg/g, Fe từ 3.066 - 15.999 μg/g, Cr từ 3,5 - 23,4 μg/g và Mn từ 57,9 -
352 μg/g). Nhìn chung, hàm lượng C hữu cơ và các kim loại nặng có xu thế giảm dần từ đỉnh đầm ra
đến cửa đầm (lạch nối với vịnh Phan Rang), trong khi N và P tăng cao trong khu vực giữa và cửa
đầm. Vật chất hữu cơ trong trầm tích đỉnh đầm chủ yếu có nguồn gốc lục địa (terrigeneous organic
matter), trong trầm tích cửa đầm có ưu thế của các nguồn vật chất hữu cơ từ hoạt động con người.
Chất lượng môi trường trầm tích đầm Nại còn khá tốt, hàm lượng các chất hữu cơ và kim loại
nặng trong trầm tích đầm Nại đều thích hợp cho đời sống thủy sinh. Tuy nhiên, cần lưu ý là trong
thời gian từ 1995 đến nay, có sự gia tăng hàm lượng của N, P và một số kim loại nặng (Zn, Cu, Cd
và Pb) và sự giảm hàm lượng của C hữu cơ.
Từ khóa: Môi trường trầm tích, chất hữu cơ, kim loại nặng.
MỞ ĐẦU
Đầm Nại có hệ tọa độ 11o36’ - 11o38’ vĩ độ
bắc và 109o00’ - 109o03’ kinh độ đông, nằm ở
phía Nam huyện Ninh Hải, phía Bắc vịnh Phan
Rang có một vị trí vô cùng quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện
Ninh Hải nói riêng và của tỉnh Ninh Thuận nói
chung. Đầm có diện tích tự nhiên gần 1.200ha,
trong đó diện tích vùng bãi triều chiếm 800ha,
thông ra vịnh Phan Rang (bằng cửa Ma Vân)
qua một lạch dài 2km, độ sâu từ 3 đến 5m, rộng
150 – 300 m, chỗ hẹp nhất là 140 m tại cầu Tri
Thủy, là điều kiện để phát triển tàu đánh cá xa
bờ. Nước ngọt cung cấp vào đầm từ các kênh
mương thủy lợi như là Mương Khê, Ngòi Quạ,
Đồng Lớn, Gò Thao, T5, Mương Tháo, Màn
Màn, Tri Thủy ... và từ các suối như là Đông
Nha (nằm phía Đông Bắc đầm). Xung quanh
đầm có 5 xã là Tân Hải, Hộ Hải, Tri Hải,
Phương Hải và thị trấn Khánh Hải, với hơn
11.800 hộ và khoảng 54.500 nhân khẩu, trong
đó có hơn 4.500 hộ/35.000 nhân khẩu sống ven
đầm, có sinh kế hàng ngày dựa vào tài nguyên
đầm (nguồn: UBND các xã, 2010). Vì vậy, chất
lượng môi trường đầm nói chung và môi
trường trầm tích nói riêng luôn là vấn đề cần
được quan tâm.
Theo các nghiên cứu trước đây của Phạm
Văn Thơm (1996) và ; Trịnh Thế Hiếu (2006),
chất lượng môi trường trầm tích đầm Nại nhìn
chung còn khá tốt với hàm lượng các chất hữu
cơ không cao và hàm lượng các kim loại nặng
không lớn.
Tuy nhiên, sau hơn 5 năm chất lượng môi
trường trầm tích đầm Nại có thể đã thay đổi
Lê Thị Vinh
60
dưới tác động của hoạt động kinh tế - xã hội
cũng như điều kiện tự nhiên. Trong bài báo
này, chất lượng trầm tích đầm Nại sẽ được
đánh giá là cơ sở khoa học góp phần xây dựng
các giải pháp phát triển vùng đầm một cách
bền vững.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thu mẫu:
Mẫu trầm tích bề mặt (0-5 cm) được thu
bằng cuốc vào mùa khô (tháng 5/2011). Vị trí
các trạm thu mẫu được trình bày trong sơ đồ
hình 1.
1
2 3
4
5
6
7
8 9
10
11
12
13
109.00 109.01 109.02 109.03 109.04 109.05 109.06
11.58
11.59
11.60
11.61
11.62
11.63
11.64
11.65
Phöông HaûiTaân Haûi
Hoä Haûi
TT. Khaùnh Haûi
Tri Haûi
V. Phan Rang
Hình 1. Vị trí các trạm thu mẫu
Bảo quản mẫu:
Mẫu trầm tích được giữ lạnh trong bao
polyethylene ở nhiệt độ 40C cho đến khi phân
tích trong thời gian 10 ngày.
Chỉ tiêu phân tích:
Tổng C hữu cơ (Corg), Nitơ và photpho (Nt
và Pt) tổng số, các kim loại nặng (Fe, Zn, Cu,
Cd, Mn, Cr, Pb) và cấp hạt bùn sét của trầm
tích bề mặt (<0,063 mm). Các mẫu kim loại
nặng chỉ được phân tích tại 8 trạm dọc theo 2
trục đầm (1, 4, 5, 6, 7, 8, 11, và 13).
Phương pháp phân tích
C hữu cơ: oxi hóa mẫu bằng hỗn hợp
sunfochromic, lượng K2Cr2O7 dư được chuẩn
độ ngược bằng muối Mohr [7];
N tổng số: phương pháp Kjeldahn;
P tổng số: phá mẫu bằng hỗn hợp axit
mạnh, phosphate tạo ra được phân tích bằng
phương pháp xanh molibden;
Kim loại nặng: được chiết trong axit nitric
10% và đun ở nhiệt độ 100oC trong thời gian
24 h [5] và được phân tích bằng phương pháp
quang phổ hấp thu nguyên tử AAS. Axit nitric
chỉ hòa tan hầu hết các kim loại có nguồn gốc
từ hoạt động con người [1].
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thành phần cơ học và hóa học của trầm tích
Dựa trên sự khác biệt về địa hình, chất lượng
môi trường đầm Nại được xem xét theo các khu
vực khác nhau: khu vực đỉnh đầm (trạm 1- 4),
khu vực giữa đầm (trạm 5-10) và khu vực cửa
đầm (lạch nối đầm với vịnh Phan Rang, trạm 11-
13). Kết quả thống kê thành phần cơ học và hóa
học của các mẫu trầm tích được trình bày trong
bảng 1. Xu thế phân bố của các thông số tại các
trạm được trình bày trong hình 2.
Các dẫn liệu trong bảng 1 và hình 2 cho
thấy: về thành phần cơ học, trầm tích bề mặt
trong khu vực đỉnh đầm chủ yếu được cấu tạo
bởi cấp hạt bùn sét, trầm tích trong khu vực
giữa đầm cấu tạo chủ yếu bởi bùn sét chứa cát,
trong khi trầm tích tại khu vực lạch được cấu
tạo chủ yếu bởi cấp hạt cát (trừ trạm 12). Về
thành phần hóa học, hàm lượng C hữu cơ và
các kim loại nặng có xu thế giảm dần từ đỉnh
đầm ra đến khu vực lạch, trong khi N và P có
xu thế cao hơn trong khu vực giữa đầm và khu
vực cửa (trạm 12). Các kim loại nặng : Fe, Zn,
Cu, Cd, Mn, Cr, Pb (bảng 2 và hình 2) đều có
hàm lượng cao trong trầm tích bề mặt tại đỉnh
đầm và giảm dần đến cửa đầm. Điều này chứng
tỏ nguồn cung cấp các kim loại nặng có liên
quan đến bùn sét của trầm tích lục nguyên cung
cấp thống trị.
Chất lượng môi trường trầm tích Đầm Nại
61
Bảng 1. Các chất dinh dưỡng và tỉ lệ cấp hạt bùn sét trong trầm tích
Khu vực Giá trị Corg (%) Nt (µg/g) Pt (µg/g) Tỉ lệ bùn sét (%) Tỉ số mol
Đỉnh đầm
Trung bình 1,10 686,8 398,8 82,63 19,05 3,84
Cực tiểu 0,90 596,0 349,0 50,78 14,02 3,48
Cực đại 1,44 749,0 476,6 97,41 25,26 4,22
Số mẫu 4 4 4 4 4 4
Giữa đầm
Trung bình 0,57 941,3 522,9 45,08 7,15 3,96
Cực tiểu 0,29 649,7 458,5 5,25 2,98 3,03
Cực đại 1,03 1.137 605,4 86,6 14,22 4,35
Số mẫu 6 6 6 6 6 6
Cửa đầm
(Lạch)
Trung bình 0,16 794 552,5 19,14 2,29 3,11
Cực tiểu 0,08 728 406,8 0,05 1,85 2,69
Cực đại 0,25 1.279 834,2 54,71 2,74 3,39
Số mẫu 3 3 3 3 3 3
Bảng 2. Các kim loại nặng trong trầm tích
Khu vực Giá trị Zn(µg/g) Cu (µg/g)
Fe
(µg/g)
Cr
(µg/g)
Pb
(µg/g) Mn (µg/g) Cd (µg/g)
Đỉnh đầm
Trung bình 46,8 10,3 15.434 21,6 19,1 318,9 0,45
Cực tiểu 43,6 9,4 14.870 19,9 17,0 285,5 0,43
Cực đại 49,9 11,1 15.999 23,4 21,1 352,4 0,46
Số mẫu 2 2 2 2 2 2 2
Giữa đầm
Trung bình 32,9 6,7 10.587 13,8 16,0 236,8 0,24
Cực tiểu 25,0 4,0 8.819 10,1 13,7 204,8 0,17
Cực đại 41,7 11,0 12.841 15,8 18,5 273,2 0,3
Số mẫu 4 4 4 4 4 4 4
Cửa đầm
(Lạch)
Trung bình 6,1 1,1 3.364 7,4 1,8 64,8 0,12
Cực tiểu 5,2 0,8 3.066 3,5 1,3 57,9 0,12
Cực đại 6,9 1,4 3.663 11,3 2,4 71,6 0,12
Số mẫu 2 2 2 2 2 2 2
QCVN 43:
2012/BTNMT 271 108 - 160
112 - 4,2
QCVN 43:
2012/BTNMT
C hữu cơ (%)
0
0.3
0.6
0.9
1.2
1.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
N hữu cơ (mg/g)
0
350
700
1050
1400
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
Lê Thị Vinh
62
P tổng số (mg/g)
0
300
600
900
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
Zn (µg/g)
0
10
20
30
40
50
60
1 4 5 6 7 8 11 13
Cu (µg/g)
0
2
4
6
8
10
12
1 4 5 6 7 8 11 13
Fe (µg/g)
0
4000
8000
12000
16000
1 4 5 6 7 8 11 13
Cr (µg/g)
0
5
10
15
20
25
1 4 5 6 7 8 11 13
Tỉ lệ bùn sét (%)
0
20
40
60
80
100
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
Pb (µg/g)
0
5
10
15
20
25
1 4 5 6 7 8 11 13
Mn (µg/g)
0
100
200
300
400
1 4 5 6 7 8 11 13
Cd (µg/g)
0.0
0.2
0.4
0.6
1 4 5 6 7 8 11 13
Hình 2. Thành phần một số yếu tố hóa học và cơ học của các mẫu trầm tích tại các trạm
Chất lượng môi trường trầm tích Đầm Nại
63
Mối quan hệ (tương quan) giữa các yếu tố
hóa học với độ hạt trầm tích
Kết quả tính toán tương quan giữa hàm
lượng các chất hữu cơ và kim loại nặng với tỷ
lệ bùn sét của trầm tích bề mặt (bảng 3) đã cho
thấy chỉ có các kim loại nặng có tương quan rất
chặt. Điều này chứng tỏ có sự khác biệt trong
hành vi của các nguyên tố kim loại nặng với
Corg, Nt và Pt. Các kim loại nặng có trong bùn
sét là các khoáng vật sét từ các trầm tích lơ
lửng từ các sông suối lục địa đưa ra và lắng
đọng trong đầm Nại bởi quá trình hình thành
các thể keo tụ kết bông (floc) trong khi các chất
hữu cơ có xu thế ngược lại. Vấn đề này cần
được nghiên cứu thêm. Hệ số tương quan giữa
hàm lượng cấp hạt bùn sét và Corg đồng biến
không cao, chứng tỏ nguồn gốc cung cấp có
liên quan chủ yếu từ trầm tích lục nguyên là
chính và một phần nội tại từ chính hệ sinh thái
trong đầm Nại.
Bảng 3. Hệ số tương quan (R2 ) giữa tỷ lệ bùn sét (%) với các chất hữu cơ, kim loại nặng
C. hc N ts P ts Zn Cu Fe Cr Pb Mn Cd
0,4975 0,0241 0,0032 0,9806 0,8269 0,9416 0,8687 0,9036 0,7515 0,8367
Kết quả tính toán các mối tương quan: Pt -
Nt , Nt - Corg và Pt - Corg cho thấy nitơ và
photpho có các mối tương quan đồng biến chặt
với nhau (bảng 4), điều đó chứng tỏ chúng có
cùng nguồn gốc cung cấp thống trị. Tuy nhiên
mối tương quan Pt - Corg đồng biến không cao,
do đó nguồn cung cấp Pt ở dạng khoáng cung
cấp từ lục địa đóng vai trò quan trọng. Mối
tương quan Nt - Corg đồng biến rất thấp có thể
coi như không có tương quan đồng biến
(R2<0,35), trong khi đó nguồn cung cấp Corg
trong trầm tích đầm lại có nguồn gốc từ trầm
tích lục nguyên thống trị. Từ đó có thể suy
đoán rằng nguồn cung cấp Nt trong trầm tích bề
mặt đầm Nại có liên quan đến các chất Corg
cung cấp nội tại từ các hệ sinh thái và tác động
đổ thải của con người xung quanh đầm Nại.
Bảng 4. Hệ số tương quan (R2 ) giữa các chất
hữu cơ trong trầm tích
Pt – Nt Nt - Corg Pt - Corg
0,780 0,023 0,568
Tỉ số mol của các chất dinh dưỡng
Về sự tương quan giữa các chất hữu cơ
trong trầm tích, các dẫn liệu trong bảng 1 nêu
trên cũng cho thấy tỉ số mol C/N trong đầm khá
cao, nhất là trong khu vực đỉnh đầm (luôn >12)
trong khi tỉ số này trong khu vực cửa đầm lại
rất thấp (1,85 - 2,74). Điều này gợi ý trầm tích
trong khu vực đỉnh đầm có ưu thế của vật chất
hữu cơ lục nguyên, trầm tích trong khu vực cửa
đầm có sự ưu thế nguồn vật chất hữu cơ từ hoạt
động con người với các nguồn thải chất hữu cơ
giàu N và P, trầm tích trong khu vực giữa đầm
có nguồn gốc hỗn hợp (lục nguyên và biển) [3].
Tỉ số mol N/P dao động từ 3 - 4 cho thấy tỉ
lệ của P dạng vô cơ trong trầm tích là rất cao
liên quan đến trầm tích lục nguyên thống trị
trong Đầm Nại.
THẢO LUẬN
Đánh giá chất lượng môi trường trầm tích
Về hàm lượng các chất hữu cơ, do quy
chuẩn Việt Nam không qui định các giá trị cho
phép đối với trầm tích nên các tài liệu nước
ngoài liên quan đến vấn đề này đã được tham
khảo để đánh giá. Theo Hyland et al., [4] các
trầm tích có dưới 0,05% và trên 3% chất hữu
cơ sẽ làm giảm sự phong phú cũng như sinh
khối của sinh vật đáy mềm. Như vậy trầm tích
ở khu vực Đầm Nại với hàm lượng C hữu cơ
dao động trong khoảng 0,08 - 1,44% đều không
gây ra những tác động xấu này. Chúng cũng
thấp hơn giá trị 2% qui định trong chuẩn mực
của Trung Quốc về hàm lượng C hữu cơ trong
trầm tích với mục đích bảo vệ đời sống thủy
sinh [2].
Về mức độ nhiễm các kim loại nặng, theo
QCVN 43: 2012/BTNMT, áp dụng cho trầm
tích nước mặn, nước lợ với mục đích bảo vệ
đời sống thủy sinh như đã được trình bày trong
bảng 2 trên đây thấy là hàm lượng các kim loại
nặng trong trầm tích đầm Nại luôn thấp hơn các
giá trị giới hạn rất nhiều và không ảnh hưởng
tới đời sống thủy sinh.
Lê Thị Vinh
64
Sơ lược về diễn biến chất lượng môi trường
trầm tích
Các dẫn liệu trong bảng 5 đã cho thấy một
cách sơ bộ, theo thời gian hàm lượng C hữu cơ
giảm và có sự gia tăng của N tổng, nhất là P
tổng. Điều này đã làm cho tỉ số mol C/N vào
đợt khảo sát tháng 5 năm 2011 giảm rất nhiều
so với đợt khảo sát tháng 9 năm 1995. Như
vậy, theo thời gian chất thải hữu cơ (chủ yếu N
và P) từ hoạt động con người đã được tích lũy
trong trầm tích đầm, trong đó khả năng tích lũy
của P cao hơn nhiều so với N. Sự giảm hàm
lượng C hữu cơ gợi ý là lượng vật chất hữu cơ
từ hệ thống dòng chảy lục địa (đặc trưng bởi
hàm lượng cao của carbon hữu cơ) giảm liên
tục từ khoảng 1995 đến nay. Về mặt kim loại
nặng, hàm lượng của chúng cũng có xu thế gia
tăng rõ ràng như đối với P và N. Tuy nhiên, cần
lưu ý là vị trí thu mẫu tại các đợt khảo sát
không hoàn toàn giống nhau nên đây nhận xét
mang tính chất tham khảo.
Theo Trịnh Thế Hiếu [8], điều kiện thủy
động lực trong Đầm Nại tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình lắng đọng trầm tích trong đầm.
Điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia
tăng của hàm lượng N, P và các kim loại trong
trầm tích theo thời gian. Về phương diện hóa
học, theo Lars Stenvang Hanse và Thomas
Henry Blackburn [6], các quá trình khoáng hóa
các chất hữu cơ chứa N trong trầm tích không
khác nhau trong điều kiện hiếu khí và yếm khí.
Trong lúc đó, các hợp chất chứa P, Fe, Pb, Zn,
Mn rất bền vững trong môi trường oxi hóa
và các yếu tố này chỉ bị khoáng hóa đáng kể
trong tình trạng thiếu oxi. Trong vực nước đầm
Nại, nồng độ oxy hòa tan khá cao (DO luôn >
5mg/l), điều này gợi ý khả năng biến đổi hàm
lượng của các yếu tố nói trên là rất thấp so với
N và có thể là nguyên nhân dẫn đến sự tích lũy
của N trong trầm tích theo thời gian thấp hơn
so với P cũng như các kim loại khác như đã
trình bày.
Bảng 5. Diễn biến chất lượng môi trường trầm tích Đầm Nại
(khu vực đỉnh đầm và khu vực giữa đầm)
Thời
gian
Giá
trị
C h.cơ
(%)
Nh.cơ
(µg/g)
P tổng
(µg/g)
Tỉ số mol
C/N
Fe
(µg/g)
Zn
(µg/g)
Cu
(µg/g)
Cd
(µg/g)
Pb
(µg/g)
9/1995a
TB 1,39 464 161 33,0 - - - - -
CT 0,26 329 65 8,2 - - - - -
CĐ 4,60 599 248 100,9 - - - - -
n 7 7 7 7 - - - - -
7/2005b
TB - 810 270 - 4.670* 6,3 3,3 0,003 12,2
CT - 20 70 - 55 1,95 0,31 0 0
CĐ - 2.010 410 - 7.742 9,7 6,21 0,084 25,8
n - 11 11 - 13 13 13 13 13
5/2011
TB 0,78 839 473 11,99 10.983 37,5 7,9 0,3 17,0
CT 0,29 596 349 2,98 3.663 25 4 0,2 13,7
CĐ 1,44 1.137 605 25,26 15.999 49,9 11,1 0,5 21,1
n 10 10 10 10 6 6 6 6 6
*: Phá mẫu bằng HCl (chỉ có Fe2); a: Phạm Văn Thơm, 1996; b: Trịnh Thế Hiếu
TB: Trung bình; CT:Cực tiểu; CĐ: Cực đại; n: Số mẫu
So sánh chất lượng môi trường trầm tích
đầm Nại với một số đầm trong khu vực miền
Trung
Kết quả phân tích thành phần hóa học và cơ
học của trầm tích tại một số đầm trong khu vực
miền trung và đầm Nại được thống kê trong
bảng 6. Từ các dẫn liệu trong bảng này cho
thấy, một cách tương đối, hàm lượng các chất
hữu cơ trong trầm tích đầm Nại tương đương
với đầm Thị Nại, thấp hơn so với đầm Ô Loan
và cao hơn so với đầm Đề Gi. Về mặt kim loại
nặng, không có sự khác biệt lớn về hàm lượng
Pb trong trầm tích giữa các đầm, Fe trong đầm
Chất lượng môi trường trầm tích Đầm Nại
65
Nại và đầm Ô Loan tương đương và cao hơn so
với đầm Đề Gi và Thị Nại, Zn trong trầm tích
đầm Nại và Đề Gi tương đương và thấp hơn so
với đầm Thị Nại và Ô Loan, trong khi hàm
lượng Cu trong trầm tích đầm Nại tương đương
so với đầm Thị Nại và thấp hơn so với đầm Đề
Gi và Ô Loan.
Về tương quan giữa các chất hữu cơ thấy là tỉ
số mol C/N tại đầm Nại và đầm Ô Loan thấp hơn
đầm Đề Gi và Thị Nại rất rõ. Điều này gợi ý là 2
đầm này chịu ảnh hưởng của chất thải từ hoạt
động con người nhiều hơn [3]. Nguyên nhân có
lẽ là do hình thái của 2 đầm này (nối với vịnh
bởi lạch) nên sự trao đổi nước với bên ngoài
khá hạn chế. Tỉ số mol N/P trong trầm tích đầm
Nại và nhất là đầm Ô Loan cũng thấp hơn so
với đầm Đề Gi và Thị Nại nhiều. Điều này có
thể do sự sử dụng phân bón phosphate, sự
khuấy trộn đưa trầm tích trở lại môi trường
nước (sediment resuspension) và khả năng
khoáng hóa của P trong trầm tích tại 2 đầm này
lớn hơn [9].
Bảng 6. Thành phần một số yếu tố hóa học của trầm tích tại các đầm
Đầm Giá trị C hc
(%)
N hc
(µg/g)
P tổng
(µg/g)
Fe
(µg/g)
Zn
(µg/g)
Cu
(µg/g)
Pb
(µg/g)
TLBS
(%)
Tỉ số mol
C/N N/P
Đề Gi*
(4/2010)
TB 0,45 397,9 211,6 8.098 28,2 12,1 17,5 53,06 12,94 4,73
CT 0,06 99,7 37,3 1.540 1,9 0,9 1,4 0,00 5,30 3,54
CĐ 0,82 821,3 482,0 14.156 56,2 26,6 34,0 97,13 27,39 6,86
n 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15
Thị Nại*
(4/2009)
TB 0,69 899 499 8.746 38,9 6,7 17,1 40,28 13,96 4,33
CT 0,14 89 53 3.057 7,9 0,9 2,8 0,11 5,36 3,04
CĐ 1,14 1.826 938 13.918 75,6 13,1 33,5 87,65 31,30 7,06
n 15 15 15 15 15 15 15 15 15 15
Ô Loan*
(4/2009)
TB 0,73 1.564 1.069 9.418 44,2 10,6 15,1 61,52 5,85 3,36
CT 1,68 2.515 1.884 17.199 74,8 19,3 6,5 96,79 2,93 2,95
CĐ 0,03 269 108 222 0,4 0,1 27,8 0,07 8,36 3,83
n 14 14 14 9 9 9 9 14 14 14
Đầm Nại
(5/2011)
TB 0,64 829,0 491,5 9.993 29,6 6,2 17,0 50,64 9,69 3,73
CT 0,08 505,3 349,0 3.066 5,2 0,8 13,7 0,05 1,85 2,69
CĐ 1,44 1279 834,2 15.999 49,9 11,1 21,1 97,41 25,26 4,35
n 13 13 13 13 8 8 17,0 13 13 13
*: Lê Thị Vinh, 2010; TLBS: tỉ lệ bùn sét; TB: Trung bình; CT: Cực tiểu; CĐ: Cực đại
KẾT LUẬN
Chất lượng môi trường trầm tích đầm Nại
khá tốt với hàm lượng C hữu cơ phù hợp cho
đời sống động vật đáy, hàm lượng Nt và Pt
không cao, hàm lượng các kim loại nặng (Zn,
Cu, Fe, Cr, Pb, Mn, Cd) không gây ảnh hưởng
xấu cho đời sống thủy sinh. Vật chất hữu cơ
trong trầm tích đầm chủ yếu có nguồn gốc lục
nguyên (terrigeneous organic matter), trong
trầm tích lạch có sự ưu thế của các nguồn vật
chất hữu cơ từ hoạt động con người.
Theo thời gian từ năm 1995 đến nay hàm
lượng các chất hữu cơ (N và P) và các kim loại
nặng (Zn, Cu, Pb, Cd) trong trầm tích có xu thế
gia tăng trong khi hàm lượng C hữu cơ có xu
thế giảm.
Hàm lượng các chất hữu cơ (C, N và P) trong
trầm tích đầm Nại tương đương với đầm Thị Nại,
thấp hơn so với đầm Ô Loan và cao hơn so với
đầm Đề Gi trong khi hàm lượng các kim loại
nặng không có xu thế biến đổi rõ ràng.
Lời cảm ơn: Tác giả xin chân thành cảm ơn
các đồng nghiệp, phòng Thủy Địa hóa - Viện
Hải dương học đã cho phép sử dụng số liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bryan, G. W., 1984. Pollution due to heavy
metals and their compounds. Marine
Ecology Vol. 5, Chapter 3. 1,289-1,402.
Lê Thị Vinh
66
Edited by Otto Kinne. Jonn Wiley and Sons,
New York.
2. CCME, 2003. Canadian Environmental
Quality Guidelines. Online publication.
3. Horst D. Schulz, Matthias Zabel, 2006.
Marine geochemistry - Science - 574 pp.
books.google.com.vn/books?isbn=35403214
38.
4. Hyland J., Karakassis, I., Magni, P, Petrov,
A. Shine J., 2000. Summary Report:
Results of initial planning meeting of the
United Nations Educational, Scientific and
Cultural Organization (UNESCO). Benthic
Indicator Group. 70 p.
5. Hungspreugs, M., Dharmvanij, S.,
Utoomprookpoom, W. and Windom, H. L.,
1991. A comparative study for the trace
metals fluxes of the Ban PaKong and the
Mae Klong river, Thailand-IOC workshop
report No. 79, pp. 34-44.
6. Lars Stenvang Hanse and Thomas Henry
Blackburn, 1991. Aerobic and anaerobic
mineralization of organic material in marine
sediments microcosms - Marine Ecology.
Progress Series - Vol. 75: 283-291.
7. FAO, 1975. Manual of Methods in Aquatic
Environment Research- Part2: Methods for
Detection, Measurement and Monitoring of
water polution. Pp. 201-202.
8. Santos, I. R., Baisch, P., Lima, G. T. N. P.
& Silvafilho, E. V., 2004. Nutrients in
surface sediments of Mirim lagoon, Brazil -
Uruguay border, Acta Limnol. Bras, 16(1):
85-94.
Chất lượng môi trường trầm tích Đầm Nại
67
QUALITY OF SEDIMENTARY ENVIRONMENT IN NAI LAGOON,
NINH THUAN PROVINCE
Le Thi Vinh
Institute of Oceanography-VAST
ABSTRACT: The paper represents some aspects on the quality of the sedimentary environment in
Nai lagoon. Results performed in May, 2011 shows that the contents of the organic materials and heavy
metals in the sediment were considerably various ( Corg.: 0.08 - 1.44%, Norg: 505.3 - 1279.0 μg/g, Pt:
349.0 - 834.2 μg/g; Zn: 5.2 - 49.9 μg/g; Cd: 0.12 - 0.5 μg/g, Cu: 0.8 - 11.1 μg/g, Pb:13.7 - 21.1 μg/g,
Fe: 3,066 - 15,999 μg/g, Cr: 3.5 - 23.4 μg/g and Mn: 57.9 - 352 μg/g). Overall, content of Corg. and
heavy metals decreased from the top toward the mouth of lagoon, while N and P were highest in the
middle area and mouth of lagoon. The most part of the organic matters in the top of lagoon are
terrigeneous in origin particularly, while those in mouth are mainly from human activities.
Generally, the sedimentary environment in Nai lagoon, in term of organic materials and heavy
metals, was suitable for the aquatic life. However, from 1995 to now, there have been the increasing
trend in organic matter (N and P) and heavy metal contents and the decreasing trend in Corg.
Keywords: Sedimentary environment, organic materials, heavy metals.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4030_14210_1_pb_0187_2079622.pdf