Trầm tích tầng mặt khu vực nghiên cứu
thuộc vịnh Nha Trang có độ hạt thay đổi rất
rộng theo không gian, tỉ lệ của cấp hạt bột, sét
(< 0,062 mm) dao động từ rất thấp tới rất cao.
Hàm lượng C, N, P trong các chất hữu cơ và
kim loại nặng (Zn, Cu, Pb và Fe) cũng thay đổi
rất lớn theo xu thế đồng biến với tỉ lệ bùn sét
trong trầm tích. Bên cạnh đó, không có sự khác
biệt lớn về hàm lượng hydrocarbon giữa các
khu vực và mật độ coliform thường cao hơn tại
khu vực phía nam.
Chất lượng môi trường trầm tích tầng mặt
khu vực nghiên cứu khá tốt với hàm lượng C
hữu cơ phù hợp cho đời sống động vật đáy,
hàm lượng N và P không cao, hàm lượng các
kim loại nặng (Zn, Cu, Fe, Pb) không gây ảnh
hưởng xấu cho đời sống thủy sinh.
Theo thời gian từ năm 2007 đến 2012 chất
lượng trầm tích vịnh Nha Trang không có sự
thay đổi rõ rệt mặc dù có xu thế gia tăng nhẹ
của hàm lượng các chất hữu cơ và giảm mật độ
coliform.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 532 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng môi trường trầm tích tầng mặt phía nam vịnh Nha Trang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
91
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 1; 2015: 91-97
DOI: 10.15625/1859-3097/15/1/4431
CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG TRẦM TÍCH
TẦNG MẶT PHÍA NAM VỊNH NHA TRANG
Lê Thị Vinh*, Phạm Hữu Tâm
Viện Hải dương học-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
*E-mail: levinh62@gmail.com
Ngày nhận bài: 13-8-2014
TÓM TẮT: Kết quả phân tích 11 mẫu trầm tích bề mặt thu thập tháng 6/2012 ở khu vực phía
nam vịnh Nha Trang cho thấy: Hàm lượng nguyên tố carbon, nitơ và photpho trong hợp chất hữu
cơ và kim loại nặng trong trầm tích dao động mạnh (C: từ 0,12% đến 1,46%, N: 135,8 - 987,7 µg/g,
tổng P: 44,0 - 551,1 µg/g, Zn: 2,2 - 28,7 µg/g, Cu: 2,6 - 22,2 µg/g, Pb: 2,7 - 28,1 µg/g, Fe: 514 -
17.337 µg/g) theo xu thế đồng biến với tỉ lệ cấp hạt bột, sét trong trầm tích (0 - 99,75%); Tại khu
vực gần Hòn Tre và Hòn Tằm, hàm lượng C và các kim loại nặng có xu thế cao ở gần bờ, nhưng
thấp ở xa bờ; Giữa các khu vực có mẫu phân tích: i) Không có sự khác biệt lớn về hàm lượng
hydrocarbon (từ 115 - 188 µg/g); ii) Liên quan đến tình trạng nhiễm bẩn vi sinh, mật độ coliform (0
- 8197 MPN/100 g) cao nhất ở khu vực Hòn Miếu và Hòn Một. Đánh giá chung, chất lượng môi
trường trầm tích khu vực phía nam vịnh Nha Trang còn khá tốt, hàm lượng các chất hữu cơ và kim
loại nặng trong trầm tích đều phù hợp cho đời sống thủy sinh. Tuy nhiên, vật chất hữu cơ (N và P)
có xu thế tăng nhẹ từ năm 2007 đến 2012.
Từ khóa: Chất hữu cơ, kim loại nặng, hydrocarbon, trầm tích, vịnh Nha Trang.
GIỚI THIỆU
Vịnh Nha Trang được công nhận là một
trong số 20 vịnh biển đẹp trên thế giới. Vịnh
nổi tiếng không chỉ bởi phong cảnh mà còn về
các giá trị đa dạng sinh học, nhất là ở các rạn
san hô. Ngoài lợi ích mang lại từ hoạt động du
lịch, các rạn san hô còn mang lại nguồn lợi
thủy sản rất đáng kể bởi vì các rạn san hô là nơi
cư trú, nuôi dưỡng và sinh sản nhiều loài cá.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh, quá trình đô thị hóa khu vực
quanh vịnh, kéo theo các hoạt động du lịch,
dịch vụ, giao thông vận tải, sản xuất nông
nghiệp, sinh hoạt dân cư, ... đã làm phát sinh
nhiều vấn đề về môi trường. Do đó, việc theo
dõi chất lượng môi trường vịnh là rất cần thiết
để bảo tồn thủy sinh và rạn san hô. Tuy nhiên,
cho đến nay các công bố về chất lượng môi
trường vịnh Nha Trang không nhiều. Một số
nghiên cứu về chất lượng nước vịnh Nha Trang
đã được công bố trong thời gian trước đây [1]
trong lúc chất lượng môi trường trầm tích của
vịnh hầu như chưa được đề cập.
Nhằm cung cấp các thông tin về chất lượng
môi trường vịnh Nha Trang, bài báo này sẽ đề
cập đến một số vấn đề liên quan đến chất lượng
trầm tích đáy vịnh. Các dẫn liệu trong nội dung
bài báo là một phần các kết quả nghiên cứu của
chương trình quan trắc định kỳ vịnh Nha Trang
được Viện Hải dương học thực hiện trong thời
gian từ năm 2007 đến năm 2012.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thu mẫu và bảo quản mẫu
Thu mẫu: Mẫu trầm tích bề mặt (0 - 5 cm)
được thu bằng cuốc thu mẫu vào mùa khô
(tháng 6/2012) trong toàn vịnh Nha Trang. Vị
trí các trạm được trình bày trong hình 1.
Lê Thị Vinh, Phạm Hữu Tâm
92
Tỷ lệ: 1/100.000
Hình 1. Vị trí các trạm quan trắc và lấy mẫu
Bảo quản mẫu: Mẫu trầm tích được giữ
lạnh trong bao polyetylen ở nhiệt độ 40C cho
đến khi phân tích trong thời gian 10 ngày.
Phân tích mẫu
Chỉ tiêu phân tích: Tổng carbon hữu cơ
(C hc), nitơ hữu cơ (N hc) và photpho tổng
(Pts), các kim loại nặng (Fe, Zn, Cu, Pb),
hydrocarbon (HC), vi sinh (coliform) và thành
phần cơ học của trầm tích bề mặt.
Phương pháp phân tích:
Carbon hữu cơ: oxi hóa mẫu bằng hỗn
hợp sunfocromic, lượng K2Cr2O7 dư được
chuẩn độ ngược bằng muối Mohr;
Nitơ hữu cơ: phương pháp Kjeldahl;
Photpho tổng: phá mẫu bằng hỗn hợp axit
mạnh, phosphate tạo ra được phân tích bằng
phương pháp xanh molipden;
Kim loại nặng: được tách chiết trong axit
nitric 10% và đun ở nhiệt độ 1000C trong thời
gian 24 h [2] và được phân tích bằng phương
pháp quang phổ hấp thu nguyên tử AAS. Axit
nitric chỉ hòa tan hầu hết các kim loại có nguồn
gốc từ hoạt động con người [3].
Hydrocarbon: được chiết bằng dung môi
CCl4, chảy qua cột oxit nhôm hoạt tính; sau đó
dung môi được cho bốc hơi và hàm lượng
hydrocarbon được xác định bằng phương pháp
khối lượng.
Coliform: phương pháp cấy nhiều ống.
Độ hạt trầm tích được xác định bằng
phương pháp rây (theo hệ thống tiêu chuẩn của
Mỹ) ở các cấp hạt cát và phương pháp pipet ở
các cấp hạt nhỏ hơn 0,062 mm.
Một cách tổng quát, các mẫu trầm tích
được bảo quản và phân tích theo FAO, 1975
[4].
Bên cạnh đó, các kết quả khảo sát trong
các năm trước đây (2007 - 2012) trong vịnh
Nha Trang cũng được sử dụng để xem xét sự
thay đổi của chất lượng môi trường.
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN
Thành phần cơ học và hóa học của trầm tích
Kết quả phân tích thành phần cơ học, hoá
học và vi sinh của các mẫu trầm tích thu trong
đợt khảo sát tháng 6 năm 2012 được trình bày
trong hình 2 và thống kê trong bảng 1, 2. Từ
bảng và hình này cho thấy trầm tích trong vịnh
Nha Trang có độ hạt thay đổi trong phạm vi rất
rộng. Điều này được chứng minh qua tỉ lệ của
cấp hạt bùn sét (< 0,063 mm) thay đổi từ 0%
(trạm 1- trạm nền, xa bờ) đến 99,75% (trạm 3-
gần Hòn Ngọc Việt). Tỉ lệ cấp hạt bùn sét tại
trạm 9 (khu vực Hòn Tầm) cũng có giá trị
tương đối cao.
Về thành phần hóa học, các dẫn liệu trong
bảng 1 và hình 2 cho thấy các nguyên tố C, N và
P trong vật liệu hữu cơ cao nhất tại khu vực Hòn
Tằm (trạm 9) và gần Hòn Tre (trạm 3). Tương tự
như trên, hàm lượng các kim loại nặng (Zn, Cu,
Pb và Fe) cũng thường cao nhất tại 2 khu vực
này. Không có sự khác biệt lớn về hàm lượng
HC giữa các trạm. Về mặt vi khuẩn gây bệnh,
mật độ coliform cao nhất tại khu vực Hòn Một
(trạm 8) và Hòn Miếu (trạm 10 và 11).
Nhìn chung, trạm 1 là nơi có hàm lượng
các chất dinh dưỡng và kim loại nặng thấp nhất
do trầm tích trạm này chủ yếu là trầm tích hạt
thô. Tuy nhiên, trầm tích tại trạm này đã bị
nhiễm bẩn coliform.
Về trầm tích tại các rạn san hô trong vịnh,
theo Lê Thị Vinh và cộng sự [5], kết quả khảo
sát vào năm 2009 cho thấy do trầm tích tại các
rạn san hô được cấu tạo chủ yếu bởi vật liệu cát
(tỉ lệ cấp hạt bùn sét rất thấp, trung bình 4,04%,
dao động từ 0,21 - 17,62%) nên hàm lượng các
chất hữu cơ trong trầm tích đều thấp (C hc từ
Chất lượng môi trường trầm tích tầng mặt
93
0,01 - 0,15%, trung bình 0,10%; Nhc từ 132,6 -
495,3 µg/g, trung bình 262,1 µg/g; P tổng từ
80,2 - 305,8 µg/g, trung bình 152,7 µg/g). Như
vậy, nhìn chung hàm lượng các chất hữu cơ
trong trầm tích toàn vịnh Nha Trang cao hơn so
với trầm tích tại các rạn san hô.
Tỉ lệ bùn sét trong trầm tích
0
20
40
60
80
100
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
% C hữu cơ trong trầm tích
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
%
N hữu cơ trong trầm tích
0
200
400
600
800
1000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
mg/g
P tổng số trong trầm tích
0
200
400
600
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
mg/g
Zn trong trầm tích
0
10
20
30
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
mg/g
Cu trong trầm tích
0
5
10
15
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
mg/g
Pb trong trầm tích
0
10
20
30
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
mg/g
Fe trong trầm tích
0
5000
10000
15000
20000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
mg/g
HC trong trầm tích
0
50
100
150
200
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
mg/g
Coliform trong trầm tích
0
500
1000
1500
2000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
MPN/100g
Hình 2. Biểu đồ độ hạt, thành phần hóa học và vi sinh trong trầm tích tại các trạm
Lê Thị Vinh, Phạm Hữu Tâm
94
Bảng 1. Các chất dinh dưỡng và độ hạt trầm tích
Giá trị C hc (%) P tổng (ppm)
N hc
(ppm)
Tỉ số mol Tỉ lệ cấp hạt (%)
C/N N/P Graven (> 2 mm)
Hạt cát (2 -
0,063 mm)
Hạt bùn sét
(< 0,063 mm)
Trung bình 0,52 252,0 473,8 12,85 4,57 1,68 68,99 29,33
Cực tiểu 0,12 44,0 135,8 5,97 3,37 0,00 0,25 0,00
Cực đại 1,46 551,1 987,7 19,65 6,83 10,04 100,0 99,75
Số mẫu 11 11 11 11 11 11 11 11
Bảng 2. Kim loại nặng, hydrocarbon (HC) và vi sinh trong trầm tích
Giá trị Zn (µg/g) Cu (µg/g) Pb (µg/g) Fe (µg/g) HC (µg/g) Coliform (MPN/100 g)
Trung bình 10,6 7,8 8,4 6.189,8 147 1.238
Cực tiểu 2,2 2,6 2,7 514,0 115 0
Cực đại 28,7 22,2 28,1 17.337,5 188 8.197
Số mẫu 11 11 11 11 11 11
GTGH* 271 108 112 - 100 -
*: Giá trị giới hạn (QCVN 43: 2012/BTNMT)
Mối tương quan giữa các yếu tố
Kết quả tính toán tương quan giữa hàm
lượng các chất hữu cơ và kim loại nặng với tỷ
lệ bùn sét của trầm tích bề mặt (bảng 3) đã cho
thấy chúng có tương quan đồng biến rất chặt
trong khi hàm lượng HC và mật độ vi sinh hầu
như không có tương quan. Điều này cho thấy
sự khác biệt trong hành vi của các nguyên tố:
Các kim loại nặng và chất hữu cơ có trong bùn
sét là các khoáng vật sét từ vật chất lơ lửng từ
các sông suối lục địa đưa ra và lắng đọng trong
vịnh Nha Trang bởi quá trình hình thành các
thể keo tụ (flocculation) trong khi HC và vi
sinh có xu thế ngược lại.
Bảng 3. Hệ số tương quan (R2) giữa tỷ lệ bùn sét (%) với chất hữu cơ, kim loại nặng
C hc N hc P ts Zn Cu Fe Pb HC Coliform
0,8427 0,8272 0,8154 0,9301 0,8323 0,8617 0,8653 0,0343 0,0752
Kết quả tính toán các mối tương quan của
yếu tố này với yếu tố kia cho thấy các chất hữu
cơ (bảng 4) và kim loại nặng (bảng 5) có các
mối tương quan đồng biến chặt với nhau.
Bảng 4. Ma trận hệ số tương quan (R2) giữa các chất hữu cơ
Nguyên tố C N P
C 1 0,7761 0,7438
N 0,7761 1 0,9818
P 0,7438 0,7438 1
Bảng 5. Ma trận hệ số tương quan (R2) giữa các kim loại nặng
Nguyên tố Zn Cu Pb Fe
Zn 1 0,8727 0,8538 0,9517
Cu 0,8727 1 0,9199 0,8218
Pb 0,8538 0,9199 1 0,8270
Fe 0,9517 0,8218 0,8270 1
Chất lượng môi trường trầm tích tầng mặt
95
Tỉ số mol của các chất dinh dưỡng
Về sự tương quan giữa các chất hữu cơ
trong trầm tích, các dẫn liệu trong bảng 1 nêu
trên cũng cho thấy tỉ số mol C/N trong vịnh khá
cao với giá trị trung bình là 12,85 (từ 5,97 đến
1965. Điều này chứng tỏ trầm tích phía nam
vịnh Nha Trang có thể có ưu thế của vật chất
hữu cơ lục nguyên [6, 7].
Tỉ số mol N/P dao động từ 3,37 - 6,83
(trung bình 4,57) cho thấy tỉ lệ của photpho (P)
nguồn gốc vô cơ trong trầm tích là khá cao và
liên quan đến trầm tích lục nguyên thống trị
trong vịnh Nha Trang.
Đánh giá chất lượng môi trường trầm tích
bề mặt
Theo Hyland và cộng sự [8] các trầm tích
có dưới 0,05% và trên 3% vật chất hữu cơ sẽ
làm giảm sự phong phú cũng như sinh khối của
sinh vật đáy mềm. Như vậy, trầm tích ở vịnh
Nha Trang (với hàm lượng C hữu cơ dao động
trong khoảng 0,12 - 1,46%) đều không gây ra
những tác động xấu này. Chúng cũng thấp hơn
giá trị 2% theo quy định trong chuẩn mực của
Trung Quốc [9] về hàm lượng C hữu cơ trong
trầm tích (dùng bảo vệ đời sống thủy sinh).
Bảng 6. Chất lượng trầm tích phía nam vịnh Nha Trang (2007 - 2012)
a. Các chất hữu cơ, tỉ lệ bùn sét và vi sinh
Thời gian Giá trị C hc (%) P ts (ppm) N hc (ppm) Coliform (MPN/g) Bùn sét (%)
11/2007 TB 0,39 177,7 360 19 44,9
CT 0,05 28,4 118 0 0,9
CĐ 1,20 620,0 849 172 97,9
n 18 18 18 18 18
11/2010 TB 0,35 161,9 364 9 37,1
CT 0,04 30,4 111 0 0
CĐ 0,98 476,1 721 63 99,28
n 13 13 13 13 13
5/2011 TB 0,45 279,2 573 5 37,7
CT 0,05 57,8 102 0 0
CĐ 0,85 503,9 968 42 94,2
n 13 13 13 13 13
6/2012 TB 0,52 252,0 474 12 29,3
CT 0,12 44,0 136 0 0,0
CĐ 1,46 551,1 988 82 99,9
n 11 11 11 11 11
b. Kim loại nặng và HC
Thời gian Giá trị Zn (ppm) Cu (ppm) Pb (ppm) Fe (ppm) HC (ppm)
11/2007 TB 32,2 6,5 17,6 - 293
CT 3,3 0,3 3,8 - 162
CĐ 68,5 15,6 37,1 - 379
n 18 18 18 - 18
11/2010 TB 18,3 4,0 9,1 7.493 123
CT 2,7 0,8 0,7 2.267 73
CĐ 40,8 9,4 23,0 15.088 204
n 13 13 13 13 13
5/2011 TB 25,2 4,9 13,1 8.799 171
CT 2,3 0,5 2,8 816 90
CĐ 51,3 13,8 29,4 17.416 282
n 13 13 13 13 13
6/2012 TB 10,6 7,8 8,4 6.190 147
CT 2,2 2,6 2,7 514 115
CĐ 28,7 22,2 28,1 17.337 188
n 11 11 11 11 11
Chú thích: TB: trung bình, CT: cực tiểu; CĐ: cực đại; n: số mẫu.
Lê Thị Vinh, Phạm Hữu Tâm
96
Về mức độ nhiễm các kim loại nặng và HC,
theo QCVN 43: 2012/BTNMT (áp dụng cho
trầm tích nước mặn, nước lợ với mục đích bảo
vệ đời sống thủy sinh), hàm lượng các kim loại
nặng trong trầm tích vịnh Nha Trang (bảng 1)
thấp hơn các giá trị giới hạn (GTGH) rất nhiều
trong khi hàm lượng HC cao hơn GTGH với
mức độ không lớn (từ 1,2 đến 1,9).
Như vậy, có thể nhận định là chất lượng trầm
tích bề mặt vịnh Nha Trang là khá tốt và không
ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống thủy sinh.
So sánh với các kết quả khảo sát trong thời
gian trước đây (bảng 6) có thể thấy là không có
sự thay đổi rõ rệt về thành phần hóa học của
trầm tích bề mặt mặc dù có xu thế gia tăng nhẹ
của hàm lượng các chất dinh dưỡng (C hữu cơ,
P tổng số và N hữu cơ), và xu thế giảm nhẹ của
các kim loại nặng (Zn, Pb, Fe) và HC.
Liên quan tình trạng nhiễm bẩn vi sinh
trong trầm tích, kết quả phân tích cho thấy là
mức độ nhiễm bẩn coliform có xu thế giảm.
Tuy nhiên, cần lưu ý là do vị trí trạm trong các
đợt khảo sát không hoàn toàn giống nhau nên
các nhận xét về xu thế diễn biến chỉ mang tính
tham khảo.
NHẬN ĐỊNH
Trầm tích tầng mặt khu vực nghiên cứu
thuộc vịnh Nha Trang có độ hạt thay đổi rất
rộng theo không gian, tỉ lệ của cấp hạt bột, sét
(< 0,062 mm) dao động từ rất thấp tới rất cao.
Hàm lượng C, N, P trong các chất hữu cơ và
kim loại nặng (Zn, Cu, Pb và Fe) cũng thay đổi
rất lớn theo xu thế đồng biến với tỉ lệ bùn sét
trong trầm tích. Bên cạnh đó, không có sự khác
biệt lớn về hàm lượng hydrocarbon giữa các
khu vực và mật độ coliform thường cao hơn tại
khu vực phía nam.
Chất lượng môi trường trầm tích tầng mặt
khu vực nghiên cứu khá tốt với hàm lượng C
hữu cơ phù hợp cho đời sống động vật đáy,
hàm lượng N và P không cao, hàm lượng các
kim loại nặng (Zn, Cu, Fe, Pb) không gây ảnh
hưởng xấu cho đời sống thủy sinh.
Theo thời gian từ năm 2007 đến 2012 chất
lượng trầm tích vịnh Nha Trang không có sự
thay đổi rõ rệt mặc dù có xu thế gia tăng nhẹ
của hàm lượng các chất hữu cơ và giảm mật độ
coliform.
Lời cảm ơn: Tác giả xin chân thành cảm ơn
Ban quản lý khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang và
các đồng nghiệp, phòng Thủy Địa hóa - Viện
Hải dương học đã cho phép sử dụng số liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Vinh, Nguyễn Hồng Thu, Dương
Trọng Kiểm, Phạm Hữu Tâm, 2005. Hàm
lượng các yếu tố dinh dưỡng trong nước
vịnh Nha Trang năm 2004. Tạp chí khoa
học và Công nghệ biển, 5(Phụ trương 4):
77-82.
2. Bryan, G. W., 1984. Pollution due to heavy
metals and their compounds. Marine
ecology, 5(Part 3): 1289-1431.
3. Hungspreugs, M., Dharmvanij, S.,
Utoomprookpoom, W., and Windom, H. L.,
1991. A comparative study for the trace
metals fluxes of the Ban PaKong and the
Mae Klong river. In Thailand-IOC
workshop report (No. 79, pp. 34-44).
4. Portmann, J. E., Bernhard, M., Moeller, F.,
Bellan, G., Stirn, J., Ward, G. S., ... and
MacIntyre, A. D., 1975. Manual of methods
in aquatic environment research. Rome:
FAO.
5. Lê Thị Vinh, Dương Trọng Kiểm, Nguyễn
Hồng Thu, Phạm Hữu Tâm, Phạm Hồng
Ngọc, Lê Hùng Phú và Võ Trần Tuấn Linh,
2013. Chất lượng môi trường tại các rạn
san hô trong vịnh Nha Trang. Kỷ yếu Hội
nghị quốc tế “Biển Đông 2012”, Nha Trang
12-14/9/2012. Nxb. Khoa Học Tự Nhiên và
Công nghệ. Tập 2. Tr. 254-262.
6. Schulz, Horst D., Zabel, Matthias (Eds.),
2008. Marine geochemistry. Elsevier. 574
pp.
7. Faganeli, J., Malej, A., Pezdic, J., and
Malacic, V., 1988. C:N:P ratios and stable
c-isotopic ratios as indicators of sources of
organic-matter in the gulf of trieste
(northern adriatic). Oceanologica Acta,
11(4): 377-382.
8. Hyland, J., Karakassis, I., Magni, P.,
Petrov, A., and Shine, J., 2000. Summary
report: Results of initial planning meeting
of the United Nations Educational,
Scientific and Cultural Organization.
Chất lượng môi trường trầm tích tầng mặt
97
9. Liu, C., Wang, Z. Y., He, Y., and Wei, H.,
2003. Water quality and sediment quality of
waters near Shanghai sewage outfalls.
Journal of China Institute of Water
Resources and Hydropower Research, 11,
275-280.
ENVIRONMENTAL QUALITY OF SURFACE SEDIMENTS
IN THE SOUTH OF NHA TRANG BAY
Le Thi Vinh, Pham Huu Tam
Institute of Oceanography-VAST
ABSTRACT: Analyzed results of 11 surface sediment samples collected in June 2012 in the
south of Nha Trang bay showed that: The contents of the organic materials and heavy metals in the
sediments were considerably various (organic C: 0.12 - 1.46% , organic N: 135.8 - 987.7 µg/g, total P:
44.0 - 551.1 µg/g; Zn: 2.2 - 28.7 µg/g; Cu: 2.6 - 22.2 µg/g, Pb: 2.7 - 28.1 µg/g, Fe: 514 -
17,337 µg/g) and correlated with the rate of mud fraction; Organic carbon and heavy metal
contents tended to be higher in areas near Tre and Tam Islands and lower value in off - shore
areas; Among studied areas: i) There was no significant difference in hydrocarbon content (from
115 - 188 µg/g); ii). Related to microbiology, coliform density (from 0 - 8,197 MPN/100g) was
highest at Mieu and Mot Islands. Generally, the surface sediments in Nha Trang bay, in terms of
organic materials and heavy metals, were suitable for the aquatic life. However, there was the
lightly increasing trend in organic matters (N and P) from 2007 to 2012.
Keywords: Organic matters, heavy metals, hydrocarbons, sediments, Nha Trang bay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4431_22083_1_pb_826_2079631.pdf