KẾT LUẬN
Vào giai đoạn tháng 6 đến 10 hàng năm, các
tuyến kênh ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và các
tuyến kênh như kênh 9000, kênh Xáng thuộc
tỉnh Bạc Liêu đã bị ngọt hóa, độ mặn giảm thấp
xấp xỉ 5‰. Các kênh cấp khác thuộc tỉnh Bạc
Liêu và Cà Mau độ mặn vẫn duy trì ở mức cao
(10‰), phù hợp cho nuôi tôm nước lợ. pH trong
các kênh cấp đa số phù hợp cho nuôi tôm nước
lợ theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT và nằm
trong giới hạn cho phép bảo vệ đời sống thủy
sinh theo QCVN 38:2011/BTNMT (6,5-8,5).
Các thông số chất lượng nước và vi sinh trong
các kênh cấp được quan trắc tại Bạc Liêu và Cà
Mau kém hơn so với Bến Tre và Trà Vinh. Các
thông số chỉ thị ô nhiễm dinh dưỡng và hữu cơ
như TAN, NO2--N, PO43--P, và các thông số vi
sinh như Vibrio tổng số tại Cà Mau và Bạc Liêu
thường xuyên cao hơn giới hạn cho phép. Hầu
hết hàm lượng cao của chất chỉ thị ô nhiễm cao
tập trung trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến
tháng 9.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 623 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng nước vùng nuôi tôm nước lợ trọng điểm ở đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2015-2019, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
23TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÙNG NUÔI TÔM NƯỚC LỢ TRỌNG ĐIỂM Ở 
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG GIAI ĐOẠN 2015-2019
Nguyễn Thanh Trúc1, Lê Hồng Phước1, Thới Ngọc Bảo1, Đặng Ngọc Thùy1, 
Trần Minh Thiện1, Đặng Thị Ngọc Hân1, Lâm Quốc Huy2
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá diễn biến chất lượng nước vùng nuôi tôm nước lợ ở 
Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2015-2019. Mẫu được thu ở 20 vị trí thuộc các tỉnh Cà Mau, 
Bạc Liêu, Trà Vinh và Bến Tre trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 với các thông số nhiệt 
độ, pH, độ mặn, độ kiềm, DO (Dissolved Oxygen), TAN, NO2
--N, PO
4
3--P, TSS (Total suspended 
solids), Vibrio tổng số. Các thông số được quan trắc với tần suất 02 lần/tháng. Kết quả cho thấy đối 
với nhiệt độ dao động từ 24-35oC, trung bình 29,9 ± 1,7oC, pH = 6,6 - 9,0 trung bình 7,6 ± 0,4, DO 
từ 1-7 mg/L, trung bình 3,9 ± 1,2 và TSS trung bình 209 ± 406 mg/L. Các thông số chỉ thị ô nhiễm 
dao động như sau: TAN 0,3 ± 0,5 mg/L, nitrit 0,062 ± 0,066 mg/L, phosphat 0,082 ± 0,158 mg/L. 
Các thông số chỉ thị ô nhiễm dinh dưỡng và hữu cơ như TAN, NO2
--N, PO
4
3--P và Vibrio tổng số 
thường xuyên cao hơn giới hạn cho phép tại Cà Mau và Bạc Liêu. Hầu hết các chất chỉ thị ô nhiễm 
cao tập trung trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm. 
Từ khoá: quan trắc, chất lượng nước, tôm, ĐBSCL.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời gian qua, nghề nuôi thuỷ sản 
nói chung và tôm nuôi nước lợ nói riêng của 
vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) 
ngày càng phát triển. Cùng với sự phát triển 
mạnh mẽ này nghề nuôi tôm nước lợ đang đứng 
trước những thách thức, mối nguy về ô nhiễm 
môi trường, con giống, mầm bệnh, ảnh hưởng 
của biến đổi khí hậu. Từ năm 2015, dưới sự 
chỉ đạo của Tổng cục Thuỷ sản (TCTS) “Dự án 
quan trắc môi trường phục vụ nuôi trồng thủy 
sản giai đoạn 2015-2020” đã được triển khai 
nhằm hạn chế dịch bệnh, bảo vệ môi trường 
sinh thái, góp phần thiết thực đảm bảo an ninh 
lương thực và thực phẩm, tăng kim ngạch xuất 
khẩu. Dự án quan trắc này đã trở thành công cụ 
hữu hiệu để quản lý môi trường và dịch bệnh 
của vùng nuôi, góp phần to lớn cho sự thành 
công của nghề nuôi, giúp cho cơ quan quản lý 
đưa ra những chỉ đạo sản xuất và quản lý nuôi 
trồng thủy sản hiệu quả. Vì vậy, mục tiêu của 
nghiên cứu này là nhằm đánh giá hiện trạng 
chất lượng nước vùng nuôi tôm nước lợ trọng 
điểm ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) 
giai đoạn 2015-2019. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Lựa chọn điểm quan trắc
Các điểm quan trắc vùng nuôi tôm nước lợ 
tập trung được lựa chọn dựa trên tiêu chí: (1) 
Phục vụ vùng nuôi tôm nước lợ tập trung thuộc 
tỉnh các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Bến Tre và Trà 
Vinh, (2) Vùng nuôi đại diện cho địa phương 
về diện tích và sản lượng, (3) Điểm quan trắc 
thuộc các sông hoặc kênh rạch cấp trực tiếp 
vào vùng nuôi, có tính ổn định và đại diện cho 
toàn vùng.
1 Viện Nghiện cứu Nuôi trồng Thủy sản II
* Email: ksthanhtruc2002@yahoo.com
2 Khoa Nông nghiệp, Trường đại học Bạc Liêu
24 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 1: Vị trí các điểm thu mẫu.
Bảng 1. Các điểm quan trắc vùng nuôi cá tra tập trung.
Tỉnh Mã trạm Điểm quan trắc Tọa độ
Bến Tre BT-1 Bến Thủ N 10o06’15”, E 106040’40”
BT-2 Cống Bể N 10o09’10”, E 106046’10”
BT-3 Cầu Ván N 9o53’25”, E 106036’04”
BT-4 Rạch Rừng Giá N 9o54’52”, E 106032’55”
Trà Vinh TV-1 Mỹ Long Nam N 9o43’48”, E 106°31’17”
TV-2 Cửa Vĩnh Kim N 9o38’03”, E 106°29’29”
TV-3 Sông Long Toàn N 9°38’03”, E 106°29’29” 
Bạc Liêu BL-1 Kênh 30/4 N 9°12’09”, E 105°44’33”
BL-2 Kênh Xáng N 9°17’53”, E 105°44’30”
BL-3 Cái Cùng N 9°08’31”, E 105°34’54”
BL-4 Kênh Chùa Phật N 9°10’51”, E 105°40’10”
BL-5 Kênh Gò Cát N 9°06’13”, E 105°29’46”
BL-6 Kênh Hộ Phòng N 9°02’01”, E 105°25’15”
BL-7 Kênh 9000 N 9°31’06”, E 105°25’32”
Cà Mau CM-1 Ngã 3 Vàm Đầm N 8°51’31”, E 105°14’33”
CM-2 Sông Đầm Dơi N 8°59’27”, E 105°11’53”
CM-3 Sông Cái Đôi N 8°54’29”, E 104°51’53”
CM-4 Ngã 3 Vàm Đình N 8°54’54”, E 104°56’25”
CM-5 Hòa Mỹ - Cống Đá N 8°59’15”, E 105°00’53”
CM-6 Lương Thế Trân N 9°08’16”, E 105°07’32”
2.2. Thời gian quan trắc
Từ năm 2015 chương trình quan trắc chất 
lượng nước vùng nuôi tôm trọng điểm ở ĐBSCL 
được Tổng cục Thuỷ sản phê duyệt hàng năm 
nhằm phục vụ cho công tác quản lý và chỉ đạo 
sản xuất theo hướng bền vững. Tuy nhiên thời 
gian quan trắc của các năm không thống nhất và 
liên tục do phụ thuộc nguồn kinh phí được cấp.
25TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Từ tháng 4/2015 đến tháng 11/2015
Từ tháng 7/2016 đến tháng 11/2016
Từ tháng 1/2017 đến tháng 11/2017
Từ tháng 1/2018 đến tháng 11/2018
Từ tháng 1/2019 đến tháng 11/2019
2.3. Thông số và tần suất quan trắc
Các thông số quan trắc: Nhiệt độ, pH, độ 
mặn, DO (Dissolved Oxygen), TAN (NH
4
+-N), 
NO2
--N, PO
4
3--P, TSS (Total suspended solids), 
Vibrio tổng số. Tần suất quan trắc là 2 tuần/lần.
2.4. Phương pháp thu mẫu
2.4.1. Thời điểm thu mẫu
Nhằm đánh giá chất lượng các nguồn nước 
cấp cho khu vực nuôi tôm nước lợ, mẫu được 
thu bằng bathomet ở tầng mặt cách mặt nước 
0,5 mét, vào thời điểm nước lớn (2/3 nước lớn 
đến đỉnh triều) trong vòng 3 ngày quanh kỳ triều 
cường của mỗi đợt quan trắc. 
2.4.2. Phương pháp thu mẫu, bảo quản mẫu
- TCVN 6663-1:2011 – Chất lượng nước – 
Lấy mẫu – Phần 1: Hướng dẫn lập chương trình 
lấy mẫu và kỹ thuật lấy mẫu;
- TCVN 6663-3:2016 – Chất lượng nước 
– Lấy mẫu – Phần 3: Bảo quản và xử lý mẫu 
nước;
- TCVN 6663-6:2018 - Chất lượng nước - 
Lấy mẫu - Phần 6: Hướng dẫn lấy mẫu nước 
sông và suối.
2.5. Phương pháp phân tích
Bảng 2. Danh mục các phương pháp phân tích.
STT Chỉ tiêu Phương pháp
1 Nhiệt độ SMEWW 2550 B
2 pH TCVN 6492:2011 
3 Độ mặn Khúc xạ kế
4 DO TCVN 7325:2016
5 Độ kiềm TCVN 6636 – 1: 2000 
6 TAN SMEWW 4500- NH3 F
7 NO2
--N SMEWW 4500- NO2 B 
8 PO
4
3--P SMEWW 4500- P E 
9 Vibrio tổng số SMEWW 9260 H 
Ghi chú: SMEWW: Standard Methods for the Examination of Water and Wastewater
 TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
2.6. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2010 
xử lý số liệu theo phương pháp thống kê mô tả 
để tính các giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, giá 
trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn và vẽ đồ thị. 
III. KẾT QUẢ 
 3.1. Nhiệt độ
Diễn biến nhiệt độ trung bình trong năm 
2019 của các điểm quan trắc trung bình là 29,98 
± 1,670C, dao động từ 26-350C. Trong đó nhiệt 
độ trung bình ghi nhận tại Bạc Liêu là 30,9 ± 
1,60C, Cà Mau là 29,1 ± 1,30C, Bến Tre là 30,5 
± 1,60C và Trà Vinh là 30,4 ± 1,30C. 
Trong giai đoạn 5 năm (2015-2019) ghi 
nhận nhiệt độ bình quân năm 2019 cao hơn các 
năm trước (Hình 2). Nhiệt độ trung bình trong 
các kênh cấp thuộc các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre 
và Trà Vinh năm 2019 cao hơn năm 2018 và 
trung bình nhiều năm (TBNN) từ 0,7-1,10C. 
Theo thông báo tóm tắt khí hậu năm 2019 của 
Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi 
khí hậu, nhiệt độ trung bình năm năm 2019 tính 
từ số liệu quan trắc ở 143 trạm đạt giá trị 250C, 
cao hơn TBNN khoảng 1,60C. Với giá trị này, 
26 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
trong 10 năm gần đây (2010-2019), năm 2019 
được xếp là năm nóng nhất, tiếp đến là các năm 
2015 (chuẩn sai là 1,30C), năm 2016 và 2010 
(chuẩn sai là 10C). 
Hình 2. Diễn biến nhiệt độ nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ năm 2015-2019.
3.2. Độ mặn
Khu vực nuôi tôm nước lợ thuộc tỉnh Cà 
Mau chịu ảnh hưởng triều của biển Đông, biển 
Tây và nằm xa sông Hậu nên độ mặn nước ở 
đây hầu hết thích hợp cho nuôi tôm nước lợ. 
Độ mặn trong năm 2019 dao động từ 3-33‰ và 
trung bình 16,4 ± 9,7‰. Độ mặn trong các kênh 
cấp giảm từ mùa khô sang mùa mưa và hầu hết 
giảm thấp hơn 10‰ trong giai đoạn từ tháng 7 
đến tháng 11. Tỉnh Bến Tre và Trà Vinh thuộc 
khu vực phía Bắc sông Hậu, có vị trí địa lý dọc 
theo biển Đông và cuối nguồn sông MeKong. 
Vì vậy hệ thống kênh rạch ở đây chịu ảnh hưởng 
rất lớn bởi lượng nước từ hệ thống sông Tiền và 
sông Hậu. Độ mặn trong năm 2019 có xu hướng 
giảm dần từ những đợt quan trắc từ tháng 5 đến 
cuối tháng 10. Giá trị độ mặn trung bình các 
điểm quan trắc thuộc tỉnh Trà Vinh năm 2019 
ghi nhận được là 6,7 ± 1,3‰, cao nhất là 20‰ 
trong thuỷ vực sông Long Toàn trong tháng 2; 
đối với tỉnh Bến Tre ghi nhận độ mặn trung 
bình là 9,2 ± 1,1‰, cao nhất là 24‰ tại cống 
Bể trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 4. 
Diễn biến độ mặn trong 5 năm qua cho thấy 
độ mặn đạt giá trị cao nhất trong giai đoạn tháng 4 
và tháng 5 hàng năm. Trong đó các thuỷ vực thuộc 
hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu có giá trị độ mặn 
cao nhất vào tháng 5 hàng năm, Bến Tre và Trà 
Vinh đạt giá trị độ mặn cao nhất vào tháng 4 hàng 
năm. Giá trị độ mặn bình quân từng tháng của năm 
không có chênh lệch lớn giữa các năm, tuy nhiên 
ghi nhận giá trị độ mặn năm 2015 và năm 2016 
cao hơn so với các năm còn lại (Hình 3).
 4 
STT Chỉ tiêu Phương pháp 
8 PO43--P SMEWW 4500- P E 
9 Vibrio tổng số SMEWW 9260 H 
Ghi chú: SMEWW: Standard Methods for the Examination of Water and Wastewater 
 TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam 
2.6. Phương pháp xử lý số liệu 
Sử dụng phần mềm Microsoft Excel 2010 xử lý số liệu theo phương pháp thống kê mô tả 
để tính các giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn và vẽ đồ thị. 
III. KẾT QUẢ 
3.1. Nhiệt độ 
Diễn biến nhiệt độ trung bình trong năm 2019 của các điểm quan trắc trung bình là 29,98 ± 
1,670C, dao động từ 26-350C. Trong đó nhiệt độ trung bình ghi nhận tại Bạc Liêu là 30,9 ± 
1,60C, Cà Mau là 29,1 ± 1,30C, Bến Tre là 30,5 ± 1,60C và Trà Vinh là 30,4 ± 1,30C. 
Trong giai đoạn 5 năm (2015-2019) ghi nhận nhiệt độ bình quân năm 2019 cao hơn các năm 
trước (Hình 2). Nhiệt độ trung bình trong các kênh cấp thuộc các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre và Trà 
Vinh năm 2019 cao hơn năm 2018 và trung bình nhiều năm (TBNN) từ 0,7-1,10C. Theo thông 
báo tóm tắt khí hậu năm 2019 của Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu, 
nhiệt độ trung bình năm năm 2019 tính từ số liệu quan trắc ở 143 trạm đạt giá trị 250C, cao hơn 
TBNN khoảng 1,60C. Với giá trị này, trong 10 năm gần đây (2010-2019), năm 2019 được xếp 
là năm nóng nhất, tiếp đến là các năm 2015 (chuẩn sai là 1,30C), năm 2016 và 2010 (chuẩn sai 
là 10C). 
Hình 2. Diễn biến nhiệt độ nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ năm 2015-2019. 
3.2. Độ mặn 
Khu vực nuôi tôm nước lợ thuộc tỉnh Cà Mau chịu ảnh hưởng triều của biển Đông, biển Tây 
và ằm xa sông Hậu nên độ mặn nước ở đây hầu hết thích hợp cho nuôi tôm ước lợ. Độ mặ 
trong năm 2019 dao động từ 3-33‰ và trung bình 16,4 ± 9,7‰. Độ mặn trong các kênh cấp 
25
27
29
31
33
35
37
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Bạc Liêu Cà Mau Bến Tre Trà Vinh
oC
Nhiệt độ
2015 2016 2017 2018 2019 TB
 5 
giảm từ mùa khô sang mùa mưa và hầu hết giảm thấp hơn 10‰ trong giai đoạn từ tháng 7 đến 
thá g 11. Tỉnh Bến Tre và Trà Vinh thuộc khu vực phía Bắc sông Hậu, có vị trí địa lý dọc theo 
biển Đông và cuối nguồn sông MeKong. Vì vậy hệ thống kênh rạch ở đây chịu ảnh hưởng rất 
lớn bởi lượng nước từ hệ thống sông Tiền và sông Hậu. Độ mặn trong năm 2019 có xu hướng 
giảm dần từ những đợt quan trắc từ tháng 5 đến cuối tháng 10. Giá trị độ mặn trung bình các 
điểm quan trắc thuộc tỉnh Trà Vinh năm 2019 ghi nhận được là 6,7 ± 1,3‰, cao nhất là 20‰ 
trong thuỷ vực sông Long Toàn trong tháng 2; đối với tỉnh Bến Tre ghi nhận độ mặn trung bình 
là 9,2 ± 1,1‰, cao nhất là 24‰ tại cống Bể trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 4. 
Diễn biến độ mặn trong 5 năm qua cho thấy độ mặn đạt giá trị cao nhất trong giai đoạn tháng 4 
và tháng 5 hàng năm. Trong đó các thuỷ vực thuộc hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu có giá trị độ 
mặn cao nhất vào tháng 5 hàng năm, Bến Tre và Trà Vinh đạt giá trị độ mặn cao nhất vào tháng 
4 hàng năm. Giá trị độ mặn bình quân từng tháng của năm không có chênh lệch lớn giữa các 
năm, tuy nhiên ghi nhận giá trị độ mặn năm 2015 và năm 2016 cao hơn so với các năm còn lại 
(Hình 3). 
Hình 3. Diễn biến độ mặn nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019. 
3.3. pH 
Các điểm quan trắc thuộc tỉnh Bến Tre có giá trị pH dao động từ 7-8,2 và trung bình 7,5 ± 0,3; 
Trà Vinh dao động từ 7,3-8,5 và trung bình 7,8 ± 0,4. Đối với Cà Mau và Bạc Liêu giá trị pH 
dao động lần lượt là 7,6 ± 0,3 và 7,7 ± 0,3. 
Ghi nhận pH trong các tháng đầu năm (tháng 1 đến tháng 5) có xu hướng cao hơn so với các 
tháng cuối năm. Bên cạnh đó ghi nhận giá trị pH trong các kênh cấp thuộc Bạc Liêu và Cà Mau 
từ tháng 6 đến tháng 9 có xu hướng giảm nhanh hơn so với các kênh cấp thuộc Bến Tre và Trà 
Vinh (Hình 4). 
Hình 3. Diễn biến độ mặn nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019.
27TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
3.3. pH
Các điểm quan trắc thuộc tỉnh Bến Tre có 
giá trị pH dao động từ 7-8,2 và trung bình 7,5 ± 
0,3; Trà Vinh dao động từ 7,3-8,5 và trung bình 
7,8 ± 0,4. Đối với Cà Mau và Bạc Liêu giá trị 
pH dao động lần lượt là 7,6 ± 0,3 và 7,7 ± 0,3. 
Ghi nhận pH trong các tháng đầu năm 
(tháng 1 đến tháng 5) có xu hướng cao hơn so 
với các tháng cuối năm. Bên cạnh đó ghi nhận 
giá trị pH trong các kênh cấp thuộc Bạc Liêu 
và Cà Mau từ tháng 6 đến tháng 9 có xu hướng 
giảm nhanh hơn so với các kênh cấp thuộc Bến 
Tre và Trà Vinh (Hình 4). 
Hình 4. Diễn biến pH nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019.
3.4. Độ kiềm
Các điểm quan trắc thuộc tỉnh Cà Mau và 
Bạc Liêu có độ kiềm dao động lần lượt là 122 
± 19 mg CaCO3/L và 103 ± 25 mg CaCO3/L, 
trong đó Kênh 9000 do chịu ảnh hưởng của 
lượng nước sông Hậu đổ về nên độ kiềm ở lưu 
vực này thấp hơn những lưu vực còn lại. Đối 
với Bến Tre và Trà Vinh, độ kiềm dao động ở 
mức thấp hơn và có giá trị trung bình lần lượt là 
83 ± 22 mg CaCO3/L và 76 ± 18 mg CaCO3/L. 
Diễn biến độ kiềm trong năm 2019 ghi nhận 
giảm trong mùa mưa và đạt giá trị thấp nhất giai 
đoạn tháng 9 và tháng 10 (Hình 5).
Hình 5. Diễn biến độ kiềm nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019.
3.5. Oxy hoà tan (DO)
Trong năm 2019 ghi nhận hàm lượng DO 
tương đương trung bình cùng kỳ các năm. Các 
thuỷ vực quan trắc thuộc Cà Mau ghi nhận hàm 
lượng oxy hoà tan giảm vào mùa mưa và đạt 
giá trị thấp nhất trong giai đoạn từ tháng 7-10. 
Ngược lại, các thuỷ vực quan trắc thuộc Bến 
Tre và Trà Vinh hàm lượng oxy hoà tan có xu 
hướng cao trong giai đoạn này (Hình 6).
 6 
Hình 4. Diễn biến pH nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019. 
3.4. Độ kiềm 
Các điểm quan trắc thuộc tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu có độ kiềm dao động lần lượt là 122 ± 19 
mg CaCO3/L và 103 ± 25 mg CaCO3/L, trong đó Kênh 9000 do chịu ảnh hưởng của lượng nước 
sông Hậu đổ về nên độ kiềm ở lưu vực này thấp hơn những lưu vực còn lại. Đối với Bến Tre 
và Trà Vinh, độ kiềm dao động ở mức thấp hơn và có giá trị trung bình lần lượt là 83 ± 22 mg 
CaCO3/L và 76 ± 18 mg CaCO3/L. Diễn biến độ kiềm trong năm 2019 ghi nhận giảm trong 
mùa mưa và đạt giá trị thấp nhất giai đoạn tháng 9 và tháng 10 (Hình 5). 
Hình 5. Diễn biến độ kiềm nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019. 
3.5. Oxy hoà tan (DO) 
Trong năm 2019 ghi nhận hàm lượng DO tương đương trung bình cùng kỳ các năm. Các thuỷ 
vực quan trắc thuộc Cà Mau ghi nhận hàm lượng oxy hoà tan giảm vào mùa mưa và đạt giá trị 
thấp nhất trong giai đoạn từ tháng 7-10. Ngược lại, các thuỷ vực quan trắc thuộc Bến Tre và 
Trà Vinh hàm lượng oxy hoà tan có xu hướng cao trong giai đoạn này (Hình 6). 
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 1
0
Bạc Liêu Cà Mau Bến Tre Trà Vinh
m
g/
L 
Độ kiềm
2015 2016 2017 2018 2019 TB
28 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
 7 
Hình 6. Diễn biến DO nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019. 
Bên cạnh đó ghi nhận hàm lượng oxy hoà tan trong các kênh cấp thuộc Bến Tre, Cà Mau không 
có chênh lệch đáng kể và ít dao động trong suốt thời gian quan trắc. Ngược lại các lưu vực 
thuộc Bạc Liêu, Trà Vinh biến động mạnh giữa các năm. Năm 2018 lũ trên sông Mekong được 
cho là lớn so với các năm, lưu lượng dòng chảy lớn, tốc độ dòng chảy lớn có thể là nguyên nhân 
làm cho DO cao trong các tháng mùa mưa ở Bến Tre và Trà Vinh. Vùng Bạc Liêu và Cà Mau 
mưa nhiều rửa trôi các mùn bã hữu cơ đồng thời phóng thích các ion gây chua từ đất phèn đã 
sử dụng oxy để oxy hoá. Ngoài ra, hiện tượng sạt lỡ bờ cũng có thể là nguyên nhân làm giảm 
DO nguồn nước trong kênh. 
3.6. Tổng chất rắn lơ lửng (TSS) 
Nằm ở khu vực hạ lưu của sông Mekong nên ĐBSCL hàng năm nhận được tải lượng phù sa từ 
thượng nguồn đổ về rất lớn, do đó hàm lượng tổng chất rắn lơ lửng cao hơn 100 mg/L. TSS 
trung bình các điểm quan trắc là 204 ± 424 mg/L, trong đó tỉnh Bến Tre là 104 ± 116 mg/L, 
Trà Vinh là 121 ± 130 mg/L, Cà Mau là 103 ± 80 mg/L, Bạc Liêu là 384 ± 667 mg/L. Tương 
tự các năm trước, TSS tăng cao trong giai đoạn tháng 9 đến 10 là mùa lũ tại các điểm quan trắc 
thuộc Cà Mau, Bến Tre (Hình 7). 
0
1
2
3
4
5
6
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Bạc Liêu Cà Mau Bến Tre Trà Vinh
m
g/
L 
DO
2015 2016 2017 2018 2019 TB
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 1
0
Bạc Liêu Cà Mau Bến Tre Trà Vinh
m
g/
L 
TSS
2015 2016 2017 2018 2019 TB
Hình 6. Diễn biến DO nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019.
Bên cạnh đó ghi nhận hàm lượng oxy hoà 
tan trong các kênh cấp thuộc Bến Tre, Cà Mau 
không có chênh lệch đáng kể và ít dao động 
trong suốt thời gian quan trắc. Ngược lại các 
lưu vực thuộc Bạc Liêu, Trà Vinh biến động 
mạnh giữa các năm. Năm 2018 lũ trên sông 
Mekong được cho là lớn so với các năm, lưu 
lượng dòng chảy lớn, tốc độ dòng chảy lớn có 
thể là nguyên nhân làm cho DO cao trong các 
tháng mùa mưa ở Bến Tre và Trà Vinh. Vùng 
Bạc Liêu và Cà Mau mưa nhiều rửa trôi các 
mùn bã hữu cơ đồng thời phóng thích các ion 
gây chua từ đất phèn đã sử dụng oxy để oxy 
hoá. Ngoài ra, hiện tượng sạt lỡ bờ cũng có 
thể là nguyên nhân làm giảm DO nguồn nước 
trong kênh.
3.6. Tổng chất rắn lơ lửng (TSS)
Nằm ở khu vực hạ lưu của sông Mekong 
nên ĐBSCL hàng năm nhận được tải lượng phù 
sa từ thượng nguồn đổ về rất lớn, do đó hàm 
lượng tổng chất rắn lơ lửng cao hơn 100 g/L. 
TSS trung bình các điểm quan trắc là 204 ± 424 
mg/L, trong đó tỉnh Bến Tre là 104 ± 116 mg/L, 
Trà Vinh là 121 ± 130 mg/L, Cà Mau là 103 ± 
80 mg/L, Bạc Liêu là 384 ± 667 mg/L. Tương 
tự các năm trước, TSS tăng cao trong giai đoạn 
tháng 9 đến 10 là mùa lũ tại các điểm quan trắc 
thuộc Cà Mau, Bến Tre (Hình 7). 
 7 
Hình 6. Diễn biến DO nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019. 
Bên cạnh đó ghi nhận hàm lượng oxy hoà tan trong các kênh cấp thuộc Bến Tre, Cà Mau không 
có chênh lệch đáng kể và ít dao động trong suốt thời gian quan trắc. Ngược lại các lưu vực 
thuộc Bạc Liêu, Trà Vinh biến động mạnh giữa các năm. Năm 2018 lũ trên sông Mekong được 
cho là lớn so với các năm, lưu lượng dòng chảy lớn, tốc độ dòng chảy lớn có thể là nguyên nhân 
làm cho DO cao trong các tháng mùa mưa ở Bến Tre và Trà Vinh. Vùng Bạc Liêu và Cà Mau 
mưa nhiều rử trôi các mùn bã hữu cơ đồng thời phóng thích các ion gây ch a từ đất phèn đã 
sử dụng oxy để oxy hoá. Ngoài ra, hiện tượng sạt lỡ bờ cũng có thể là nguyê nhân làm giảm 
DO nguồn nước trong kênh. 
3.6. Tổng chất rắn lơ lửng (TSS) 
Nằm ở khu vực hạ lưu của sông Mekong nên ĐBSCL hàng năm nhận được tải lượng phù sa từ 
thượng nguồn đổ về rất lớn, do đó hàm lượng tổng chất rắn lơ lửng cao hơn 100 mg/L. TSS 
trung bình các điể qua trắc là 204 ± 424 mg/L, trong đó tỉnh Bến Tre là 104 ± 116 mg/L, 
Trà Vinh là 121 ± 130 mg/L, Cà Mau là 103 ± 80 mg/L, Bạc Liêu là 384 ± 667 mg/L. Tương 
tự các năm trước, TSS tăng cao trong giai đoạn tháng 9 đến 10 là mùa lũ tại các điểm quan trắc 
thuộc Cà Mau, Bến Tre (Hình 7). 
0
1
2
3
4
5
6
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
1
Bạc Liêu Cà Mau Bến Tre Trà Vinh
m
g/
L 
DO
2015 2016 2017 2018 2019 TB
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 1
0
Bạc Liêu Cà Mau Bến Tre Trà Vinh
m
g/
L 
TSS
2015 2016 2017 2018 2019 TB
Hình 7. Diễn biến TSS (mg/L) nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019.
29TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
3.7. TAN
Diễn biến hàm lượng TAN nguồn nước cấp 
từ năm 2015 đến năm 2019 cho thấy hàm lượng 
TAN có xu hướng tăng theo thời gian. Trong đó 
hàm lượng TAN trung bình nhiều năm (2015-
2019) các kênh cấp thuộc Cà Mau là 0,573 ± 
0,533 mg/L, cao hơn so với các tỉnh còn lại 
(Bến Tre: 0,125 ± 0,229 mg/L, Trà Vinh: 0,110 
± 0,206 mg/L và Bạc Liêu: 0,407± 0,522 mg/L). 
Đối với các lưu vực thuộc Bạc Liêu cần lưu ý 
lưu vực kênh 30/04, Kênh 9000, kênh Xáng 
và các lưu vực thuộc Cà Mau giá trị TAN cao 
nhất tập trung trong giai đoạn từ tháng 5-9 hàng 
năm (Hình 8). Đối với Bến Tre và Trà Vinh hàm 
lượng chất này có xu hướng cao từ tháng 01 đến 
tháng 04 hàng năm. 
 8 
Hình 7. Diễn biến TSS (mg/L) nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019. 
3.7. TAN 
Diễn biến hàm lượng TAN nguồn nước cấp từ năm 2015 đến năm 2019 cho thấy hàm lượng 
TAN có xu hướng tăng theo thời gian. Trong đó hàm lượng TAN trung bình nhiều năm (2015-
2019) các kênh cấp thuộc Cà Mau là 0,573 ± 0,533 mg/L, cao hơn so với các tỉnh còn lại (Bến 
Tre: 0,125 ± 0,229 mg/L, Trà Vinh: 0,110 ± 0,206 mg/L và Bạc Liêu: 0,407± 0,522 mg/L). Đối 
với các lưu vực thuộc Bạc Liêu cần lưu ý lưu vực kênh 30/04, Kênh 9000, kênh Xáng và các 
lưu vực thuộc Cà Mau giá trị TAN cao nhất tập trung trong giai đoạn từ tháng 5-9 hàng năm 
(Hình 8). Đối với Bến Tre và Trà Vinh hàm lượng chất này có xu hướng cao từ tháng 01 đến 
thán 04 hàng năm. 
Hình 8. Diễn biến TAN nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019. 
3.8. Nitrite (NO2--N) 
Hàm lượng NO2--N trong các kênh cấp quan trắc tại Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh thay đổi không 
đáng kể qua các năm, giá trị trung bình từng tháng trong năm 2019 tương đương cùng kỳ trung 
bình nhiều năm (Hình 9). Hàm lượng NO2--N trong năm 2019 dao động từ 0,002-0,667 mg/L, 
trung bình là 0,065 ± 0,073 mg/L, trong đó các kênh cấp thuộc Bạc Liêu là 0,053 ± 0,063 mg/L, 
Cà Mau là 0,076 ± 0,072 mg/L, Trà Vinh là 0,066 ± 0,062 mg/L, Bến Tre 0,071 ± 0,094 mg/L. 
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
1.6
1.8
2
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 1
0
Th
á
ng
 1
Th
á
ng
 3
Th
á
ng
 5
Th
á
ng
 7
Th
á
ng
 9
Th
á
ng
 1
1
Th
á
ng
 2
Th
á
ng
 4
Th
á
ng
 6
Th
á
ng
 8
Th
á
ng
 1
0
Bạc Liêu Cà Mau Bến Tre Trà Vinh
m
g/
L 
TAN
2015 2016 2017 2018 2019 TB
Hình 8. Diễn biến TAN nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019.
3.8. Nitrite (NO2
--N)
Hàm lượng NO2
--N trong các kênh cấp 
quan trắc tại Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh th y 
đổi khô đáng kể qua các năm, giá trị tru 
bình từng tháng trong năm 2019 tương đương 
cùng kỳ trung bình nhiều năm (Hình 9). Hàm 
lượng NO2
--N trong năm 2019 dao động từ 
0,002-0,667 mg/L, trung bình là 0,065 ± 0,073 
mg/L, trong đó các kênh cấp t uộc Bạc Liêu là 
0,053 ± 0,063 mg/L, Cà Mau là 0,076 ± 0,072 
mg/L, Trà Vinh là 0,066 ± 0,062 mg/L, Bến Tre 
0,071 ± 0,094 mg/L.
 9 
Hình 9. Diễn biến Nitrite nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019. 
3.9. Phosphate (PO43--P) 
Hàm lượng PO43--P trung bình tại Bạc Liêu là 0,057 ± 0,053 mg/L; trung bình tại Cà Mau là 
0,134 ± 0,104 mg/L; Bến Tre là 0,043 ± 0,066 mg/L và trung bình tại Trà Vinh là 0,047 ±0,095 
mg/L. So với QCVN 08-MT:2015/BTNMT tỷ lệ mẫu có hàm lượng phosphate cao hơn giới 
hạn cho phép ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh và Bến Tre lần lượt là 40%, 11%, 4% và 
3% trên tổng số mẫu quan trắc của tỉnh. Ngoài ra còn ghi nhận hàm lượng phosphate trong các 
thuỷ vực thuộc Bạc Liêu và Cà Mau trong mùa khô cao hơn trong mùa mưa. 
Hàm lượng phosphate trong các thuỷ vực được quan trắc thuộc Bạc Liêu, Bến Tre và Trà Vinh 
không có chênh lệch đáng kể giữa các năm và tương đương với trung bình cùng kỳ các năm. 
Diễn biến hàm lượng phosphate trong năm năm còn ghi nhận hàm lượng phosphate có xu hướng 
tăng cao vào các tháng mùa mưa. Cần lưu ý các thuỷ vực thuộc Cà Mau hàm lượng phosphate 
cao hơn các vùng còn lại, ghi nhận có sự gia tăng hàm lượng chất này từ năm 2015 đến năm 
2018, tuy nhiên đến năm 2019 hàm lượng phosphate đã giảm (Hình 10). 
Hình 10. Diễn biến Phosphate nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019. 
3.10. Vibrio tổng số 
Hình 9. Diễn biến Nitrite nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019.
30 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
3.9. Phosphate (PO4
3--P)
Hàm lượng PO
4
3--P trung bình tại Bạc Liêu 
là 0,057 ± 0,053 mg/L; trung bình tại Cà Mau là 
0,134 ± 0,104 mg/L; Bến Tre là 0,043 ± 0,066 
mg/L và trung bình tại Trà Vinh là 0,047 ±0,095 
mg/L. So với QCVN 08-MT:2015/BTNMT tỷ 
lệ mẫu có hàm lượng phosphate cao hơn giới 
hạn cho phép ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Trà 
Vinh và Bến Tre lần lượt là 40%, 11%, 4% và 
3% trên tổng số mẫu quan trắc của tỉnh. Ngoài 
ra còn ghi nhận hàm lượng phosphate trong các 
thuỷ vực thuộc Bạc Liêu và Cà Mau trong mùa 
khô cao hơn trong mùa mưa.
Hàm lượng phosphate trong các thuỷ vực 
được quan trắc thuộc Bạc Liêu, Bến Tre và Trà 
Vinh không có chênh lệch đáng kể giữa các 
năm và tương đương với trung bình cùng kỳ 
các năm. Diễn biến hàm lượng phosphate trong 
năm năm còn ghi nhận hàm lượng phosphate có 
xu hướng tăng cao vào các tháng mùa mưa. Cần 
lưu ý các thuỷ vực thuộc Cà Mau hàm lượng 
phosphate cao hơn các vùng còn lại, ghi nhận 
có sự gia tăng hàm lượng chất này từ năm 2015 
đến năm 2018, tuy nhiên đến năm 2019 hàm 
lượng phosphate đã giảm (Hình 10).
Hình 10. Diễn biến Phosphate nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019.
3.10. Vibrio tổng số
Hình 11. Diễn biến Vibrio tổng nguồn nước cấp khu vực nuôi tôm nước lợ 2015-2019.
31TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Số liệu ghi nhận được trong năm năm cho 
thấy mật độ Vibrio tổng trong các thủy vực 
thuộc Bạc Liêu cao hơn và dao động mạnh hơn 
các thuỷ vực thuộc Bến Tre, Trà Vinh và Cà 
Mau. Mật độ Vibrio trung bình năm năm tại Bạc 
Liêu là 3,5x103 ± 3,5x104 CFU/mL, Bến Tre là 
1,5x103 ± 3,5x103 CFU/mL, Cà Mau là 1,1x103 
± 2,3x103 CFU/mL và Trà Vinh là 1,2x103 ± 6,4 
x103 CFU/mL.
IV. THẢO LUẬN 
Nhìn chung nhiệt độ trong hầu hết các thuỷ 
vực được quan trắc đều nằm trong giới hạn 
cho phép theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT 
cho cơ sở nuôi tôm nước lợ và QCVN 08-MT: 
2015/BTNMT cho mục đích bảo vệ đời sống 
thuỷ sinh. Một số thuỷ vực thuộc Cà Mau có 
nhiệt độ cao hơn 320C trong các lượt quan trắc 
từ tháng 4 đến tháng 5, do đây là thời điểm cao 
độ của mùa nắng nên nhiệt độ nước mặt trên 
các kênh cấp cao hơn các thời điểm khác. Nhiệt 
độ là một trong những thông số quan trọng sẽ 
ảnh hưởng đến sự trao đổi chất và tốc độ ăn 
của tôm, tác động trực tiếp đến tốc độ tiêu thụ 
oxy của quần thể sinh vật, ảnh hưởng đến khả 
năng hòa tan của oxy và ảnh hưởng đến mức 
độ nhiễm độc amoniac. Nhiệt độ nước trên 
320C trong thời gian dài có thể làm tôm căng 
thẳng và giảm tăng trưởng (Andrew, 2007). 
Theo Chanratchakool (1995) khi nhiệt độ lớn 
hơn 330C hay thấp hơn 250C thì khả năng bắt 
mồi của tôm giảm 30-50%, tôm sẽ giảm hoạt 
động tạo điều kiện cho mầm bệnh tấn công. Mặt 
khác, theo Mace (2008) giới hạn nhiệt độ cho 
sự sinh trưởng của tôm thẻ chân trắng dao động 
từ 14,5-350C. Từ đó cho thấy nhiệt độ trong các 
thuỷ vực quan trắc vẫn thích hợp cho sự phát 
triển của tôm nuôi nước lợ, không có ảnh hưởng 
đáng kể đến sự tăng trưởng và phát triển của 
tôm. Tuy nhiên trong mùa nắng nóng nên duy trì 
mực nước trong ao nuôi thích hợp để tránh ảnh 
hưởng đến tôm nuôi.
Đối với tôm nuôi nước lợ nhu cầu độ mặn 
thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của tôm. 
Theo Wanninayake và ctv., (2001) độ mặn tối ưu 
cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm là 15-
25‰. Chanratchakool và ctv., (2003) nuôi tôm 
có độ mặn cao hơn 30‰, tôm dễ nhiễm mầm 
bệnh đặc biệt là bệnh đốm trắng và đầu vàng, 
ở độ mặn thấp thì bệnh ít xảy ra nhưng độ mặn 
không nhỏ hơn 7‰. Nếu độ mặn thấp hơn tôm 
dễ bị còi, mềm vỏ, tỷ lệ sống thấp. Kết quả quan 
trắc cho thấy các điểm quan trắc kênh Xáng, 
Kênh 9000 (Bạc Liêu), Cầu Ván, Rạch Rừng 
Giá, Cửa Vĩnh Kim có độ mặn không thích hợp 
cho nuôi tôm nước lợ trong giai đoạn mùa mưa.
ĐBSCL với đặc thù là vùng đất phèn tiềm 
tàng, khi mưa xuống các ion gây chua phóng 
thích từ đất phèn là nguyên nhân làm giảm pH 
nguồn nước trong kênh vào mùa mưa, bên cạnh 
đó các thuỷ vực có độ mặn giảm vào giai đoạn 
mùa mưa cũng là nguyên nhân làm độ kiềm 
giảm nhanh. Theo Chanratchakool (1995) thì 
pH rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp hoặc 
gián tiếp đến tôm nuôi, pH thích hợp cho tôm 
nuôi từ 7,5 đến 8,35 và khoảng dao động trong 
ngày không vượt quá 0,5 đơn vị pH. Ngoài ra 
pH còn có khả năng ảnh hưởng đến tính độc 
của các khí như là H2S, NH3 trong môi trường 
nước. Kết quả quan trắc từ năm 2015-2019 ghi 
nhận giá trị pH trong các thuỷ vực được quan 
trắc phù hợp cho nuôi tôm nước lợ theo QCVN 
02-19:2014/BNNPTNT (6,5-8,5).
Theo Swingle (1969) oxy hoà tan lý tưởng 
cho các ao nuôi tôm là trên 5 mg/L và theo 
Whetstone và ctv., (2002) không được vượt quá 
15 mg/L. Khi hàm lượng oxy hoà tan lớn hơn 
5 mg/L thì chất lượng nước cho nuôi thuỷ sản 
được đánh giá là tốt, từ 2-5 mg/L được đánh giá 
ở mức trung bình và thấp hơn 2 mg/L được đánh 
giá là xấu. Vậy hầu hết các điểm quan trắc đều 
có hàm lượng oxy hoà tan ở mức trung bình.
Theo QCVN 08-MT:2015/BTNMT đối với 
mục đích bảo tồn động thực vật thủy sinh thì 
hàm lượng TSS nhỏ hơn 20 mg/L. Tuy nhiên 
32 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
kết quả ghi nhận hầu hết các thuỷ vực được 
quan trắc đều cao hơn 20 mg/L. Hàm lượng 
TSS trong các kênh cấp quan trắc tại Bạc Liêu 
khá cao, đặc biệt trong giai đoạn từ tháng 10 
đến tháng 1 hàng năm. Hiện tượng xói lở bờ 
trên các kênh dẫn nước có thể là nguyên nhân 
gây ra hiện tượng TSS tăng cao. Nguyên nhân 
gây ra sạt lở bờ biển là do tác động của dòng 
chảy, là những biến động của dòng hải lưu, biến 
động của hàm lượng phù sa sông MeKong khi 
đổ ra biển Đông, biến động của dòng chảy ven 
bờ biển Bạc Liêu; do tác động của hiện tượng 
biến đổi khí hậu; tác động của thủy triều dâng 
cao bất thường; tác động của sóng, gió... Thời 
gian này vào mùa gió chướng, gió thổi mạnh, 
sóng to, nước biển dâng... khiến tình hình sạt lở 
bờ sông, bờ biển nghiêm trọng hơn. Hàm lượng 
TSS ở kênh cấp thuộc Cà Mau, Bến Tre và Trà 
Vinh chênh lệch không đáng kể giữa các năm 
và tương đương cùng kỳ nhiều năm. Nếu hàm 
lượng TSS quá lớn sẽ gây cản trở sự quang hợp 
của thực vật phù du, cản trở sự hô hấp của động 
vật thủy sản. Vì vậy cần có ao lắng trước khi cấp 
vào ao nuôi để lắng tụ phù sa.
TAN được tạo ra bởi các quá trình tái 
khoáng của vi sinh vật trong lớp trầm tích và do 
sự bài tiết của tôm (Burford và Williams, 2001; 
Burford và Longmore, 2001). TAN được sử 
dụng nhanh chóng bởi các thực vật phù du và sự 
luân chuyển N trong các ao nuôi tôm là khoảng 
1 đến 2 ngày (Burford và Glibert, 1999). Theo 
Chanratchkool và ctv., (2003) hàm lượng TAN 
thích hợp cho ao nuôi tôm là 0,2-2 mg/L và hàm 
lượng khí NH3 phải nhỏ hơn 0,1 mg/L. Vậy hầu 
hết các điểm quan trắc đều có hàm lượng TAN 
năm trong khoảng thích hợp cho ao nuôi tôm. 
Tuy nhiên cần lưu ý các thuỷ vực quan trắc hàm 
lượng TAN có xu hướng cao trong các tháng 7 
đến tháng 10 hàng năm.
Theo Whetstone và ctv., (2002) nồng độ 
nitrite trong các ao nuôi tôm nhỏ hơn 0,23 mg/L 
được xem là an toàn. Boyd (1998) cho rằng độc 
tính của nitrite đối với tôm cá phụ thuộc vào 
hàm lượng Cl-, độc tính của nitrite giảm khi 
độ mặn tăng. Như vậy, mặc dù giá trị nitrite 
trong các kênh cấp vượt ngưỡng cho phép theo 
QCVN 08-MT: 2015/BTNMT nhưng chưa gây 
ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ tôm nuôi. Cần lưu 
ý các thuỷ vực thuộc Bến Tre và Trà Vinh từ 
tháng 8-10 hàng năm giá trị độ mặn giảm nhanh 
và một số thuỷ vực giảm thấp hơn 5‰, hàm 
lượng NO2
--N cao trong giai đoạn này có khả 
năng gây bất lợi cho động vật thuỷ sản.
Bhatnagar và Devi (2013) đề nghị hàm 
lượng phosphate từ 0,05-0,07 mg/L là tối ưu 
và hiệu quả; 1,0 mg/L tốt cho thực vật phù du 
và tôm nuôi. Như vậy giá trị phosphate trong 
các kênh cấp chưa vượt mức khuyến cáo. Tuy 
nhiên, cần lưu ý các thuỷ vực thuộc Bạc Liêu, 
Trà Vinh hàm lượng phosphat có xu hướng tăng 
trong giai đoạn từ tháng 7-9.
Ganesh và ctv., (2010) cho thấy mật độ 
Vibrio trong nước nuôi thủy sản nên ở mức < 103 
CFU/mL. Mật độ vi khuẩn Vibrio tổng trong các 
thuỷ vực thuộc Bạc Liêu khá cao tập trung chủ 
yếu vào tháng 8 hàng năm, ở Bến Tre tập trung 
chủ yếu vào tháng 6 hàng năm và Trà Vinh tập 
trung vào tháng 7 hàng năm. Vi khuẩn Vibrio 
trong nguồn nước có nhiều khả năng gây bệnh 
cho tôm nuôi, số lượng Vibrio vượt 103CFU/mL 
cũng phản ánh nguy cơ dịch bệnh do vi khuẩn 
cao của vùng nuôi tôm. 
V. KẾT LUẬN 
Vào giai đoạn tháng 6 đến 10 hàng năm, các 
tuyến kênh ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và các 
tuyến kênh như kênh 9000, kênh Xáng thuộc 
tỉnh Bạc Liêu đã bị ngọt hóa, độ mặn giảm thấp 
xấp xỉ 5‰. Các kênh cấp khác thuộc tỉnh Bạc 
Liêu và Cà Mau độ mặn vẫn duy trì ở mức cao 
(10‰), phù hợp cho nuôi tôm nước lợ. pH trong 
các kênh cấp đa số phù hợp cho nuôi tôm nước 
lợ theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT và nằm 
trong giới hạn cho phép bảo vệ đời sống thủy 
sinh theo QCVN 38:2011/BTNMT (6,5-8,5). 
33TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Các thông số chất lượng nước và vi sinh trong 
các kênh cấp được quan trắc tại Bạc Liêu và Cà 
Mau kém hơn so với Bến Tre và Trà Vinh. Các 
thông số chỉ thị ô nhiễm dinh dưỡng và hữu cơ 
như TAN, NO2
--N, PO
4
3--P, và các thông số vi 
sinh như Vibrio tổng số tại Cà Mau và Bạc Liêu 
thường xuyên cao hơn giới hạn cho phép. Hầu 
hết hàm lượng cao của chất chỉ thị ô nhiễm cao 
tập trung trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến 
tháng 9. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Chanratchakool, P., J.F., Turnbull, S.J., Funge-Smith, 
I.H., Macrae and C., Limsuwan, 2003. Quản lý 
sức khỏe tôm trong ao nuôi. Tái bản lần thứ 4. 
Nguời dịch: Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh 
Phương, Ðặng Thị Hoàng Oanh, Trần Ngọc Hải. 
Danida-Bộ Thủy sản 2003. 153 p. 
Lê Hồng Phước, 2019. Quan trắc, cảnh báo và giám 
sát môi trường vùng nuôi trồng thuỷ sản tại một 
số tỉnh trọng điểm khu vực ĐBSCL năm 2019. 
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản II.
Bộ Tài Nguyên Môi trường, 2015. QCVN 02 - 19: 
2014/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia 
về Cơ sở nuôi tôm nước lợ - Điều kiện bảo đảm 
vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực 
phẩm.
Bộ Tài Nguyên Môi trường, 2015. QCVN 08-MT: 
2015/BTNMT: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về 
chất lượng nước mặt. 
Trường Đại học Cần Thơ. Quản lý chất lượng nước 
trong nuôi trồng thuỷ sản. Nhà xuất Nông nghiệp.
Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi 
khí hậu, 2020. Thông báo tóm tắt khí hậu năm 
2019. Hà Nội. 
TTKHNAM_2019.pdf
Tài liệu tiếng Anh
Andrew, L., 2007. JIFSAN Good Aquacultural 
Practices Program. Growout Pond and Water 
Quality Management. University of Maryland 
Burford, M.A., Glibert, P.M., 1999. Short-term 
nitrogen uptake and regeneration in early and 
late growth phase shrimp ponds. Aquaculture 
Research 30, 215–227.
Burford, M.A., Longmore, A.R., 2001. High 
ammonium production from sediments in 
hypereutrophic shrimp ponds. Marine Ecology. 
Progress Series 224, 187–195.
Burford, M.A., Williams, K.C., 2001. The fate 
of nitrogenous waste from shrimp feeding. 
Aquaculture 198, 79–93.
Bhatnagar, A., Devi, P., 2013. Water quality 
guidelines for the management of pond fish 
culture. International Journal of Environmental 
Sciences Volume 3 No.6.
Boyd, C.E., and Tucker, C.S., 1998. Pond aquaculture 
water quality management. Kluwer Academic 
Publishing, Boston, MA, USA. 700 pp.
Chanratchakool, P., 1995. White patch disease of 
black tiger shirmp (Penaeus monodon). AAHRI 
Newsletter.4,3.
Chen, J.C., and Chin T.S., 1988. Acute toxicity of 
nitrite to tiger prawn, Penaeus monodon larvae. 
Aquaculture, 69: 253-262. 
Ganesh E.A., Das S., Chandrasekar K., Arun G., 
Balamurugan S., 2010. Monitoring of total 
Heterotrophic bacteria and Vibrio spp. in an 
Aquaculture Pond. Curr. Res. J. Biol. Sci., 2: 48-
52. 
Mace C.E., 2008. Evaluation of ground water from 
the Lajas valley for low salinity culture of the 
Pacific white shrimp Litopenaeus vannamei. 
PhD thesis, University of Puerto Rico
Swingle. H. S., 1969. Methods of analysis for waters, 
organic matter and pond bottom soils used in 
fisheries research. Auburn University. Auburn, 
Alabana, 119p
Rodger, B.B., Andrew, D.E., Eugene, W.R., 2017. 
Standard methods for the examination of water 
and wastewater (23rd Edition). American Public 
Health Association, Washington, D. C.
Wanninayate, W.M., T.B., Ratnayate, R.M.T.K., 
and Edirisinghe., 2001. Experiment culture of 
tiger shrimp (Penaeus monodon) in low salinity 
environment in Sri Lanka. Asian Fisheris Forum, 
Kaohsing (Taiwan). 
Whetstone, J.M., G.D., Treece, C.L.B., and Stokes, 
A.D., 2002. Opporrunities and constrains in 
marine shrimp farming. Southern Regional 
Aquaculture Center (SRAC) publication No. 
2600, USDA. 
34 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
WATER QUALITY OF THE MAIN BRACKISH WATER SHRIMP 
FARMING AREAS IN THE MEKONG DELTA FROM 2015 TO 2019
Nguyen Thanh Truc1, Le Hong Phuoc1, Thoi Ngoc Bao1, Dang Ngoc Thuy1, 
Tran Minh Thien1, Dang Thi Ngoc Han1, Lam Quoc Huy2
ABSTRACT
This study was conducted to evaluate the water quality of the main brackish water shrimp culture 
in Mekong Delta provinces in the period of 2015 to 2019. Water samples were collected from 
20 sites that located in Ca Mau, Bac Lieu, Tra Vinh, and Ben Tre provinces. The water quality 
parameters were monitored including temperature, pH, salinity, DO (Dissolved Oxygen), TAN, 
NO2
--N, PO
4
3--P, TSS (Total suspended solids), and total Vibrio counted. Samples were collected 
with the frequency of twice a month. The results showed that the water temperatures ranged from 
24-350C (average 29.9 ± 1.70C), pH = 6.6-6.9 (average 7.6 ± 0.4), DO = 1-7 mg/L (average 3.9 ± 
1.2) and TSS value of 209 ± 406 mg/L. Other pollution indicator parameters showed that mean 
values of TAN was 0.3 ± 0.5 mg/L, NO2
--N was 0.062 ± 0.066 mg/L, PO
4
3--P = 0.082 ± 0.158 mg/L. 
Indicators of organic and nutrient pollution such as TAN, NO2
--N, PO
4
3--P and total Vibrio count 
in Ca Mau and Bac Lieu provinces often exceeded the Vietnam national standard of surface water 
(QCVN 08-MT:2015/BTNMT). High concentrations of these parameters concentrate from June to 
September annually.
Keywords: Monitoring, water quality, shrimp, Mekong Delta.
Người phản biện: TS. Nguyễn Phúc Cẩm Tú
Ngày nhận bài: 03/8/2020
Ngày thông qua phản biện: 18/8/2020
Ngày duyệt đăng: 25/8/2020
Người phản biện: TS. Huỳnh Trường Giang 
Ngày nhận bài: 03/8/2020
Ngày thông qua phản biện: 20/8/2020
Ngày duyệt đăng: 25/8/2020
1 Research Institute for Aquaculture No.2.
* Email: ksthanhtruc2002@yahoo.com
2 College of Agriculture, Bac Lieu University
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 chat_luong_nuoc_vung_nuoi_tom_nuoc_lo_trong_diem_o_dong_bang.pdf chat_luong_nuoc_vung_nuoi_tom_nuoc_lo_trong_diem_o_dong_bang.pdf