KIẾNNGHỊ
Đối với nhà quản lý và các cấp chính
quyền có liên quan
Công tác truyền thông
Nội dung truyền thông cho cộng đồng cần
tập trung nhiều hơn vào các nội dung như: mức
độ uống rượu bia như thế nào là có lợi, cách lựa
chọn rượu bia, hàm lượng rượu bia được phép
khi tham gia giao thông;
Đối tượng truyền thông cần tập trung vào
nhóm người có góa vợ, ly thân, ly dị, hút thuốc
lá nhiều và các gia đình đông người sống chung
Công tác thanh, kiểm tra
Tăng cường thanh, kiểm tra các cơ sở kinh
doanh rượu bia. Không cho phép các cửa hàng
bán các loại rượu không rõ nguồn gốc xuất xứ,
chưa công bố chất lượng và không có nhãn mác.
Công tác giám sát nguy cơ ô nhiễm: Định kỳ
tổ chức giám sát ô nhiễm các độc tố Aldehyde,
Furfurol, Methanol.
Xây dựng chương trình chuyên sâu về
phòng chống lạm dụng rượu bia trong cộng
đồng như: can thiệp bằng giáo dục, can thiệp tư
vấn theo dõi tình trạng sức khỏe và chuẩn đoán
và điều trị nghiện rượu.
Đối với cơ sở kinh doanh rượu
Cửa hành kinh doanh rượu chỉ được phép
bán những sản phẩm rượu bia đã được chứng
nhận công bố chất lượng, có nguồn gốc xuất xứ
và nhãn mác đầy đủ;
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng rượu truyền thống, tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến rối loạn sử dụng rượu bia ở nam giới tại thị trấn Thái Hòa, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 669
CHẤT LƯỢNG RƯỢU TRUYỀN THỐNG, TỈ LỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
ĐẾN RỐI LOẠN SỬ DỤNG RƯỢU BIA Ở NAM GIỚI TẠI THỊ TRẤN
THÁI HÒA, HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2013
Trần Minh Hoàng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Việc sử dụng rượu bia là một thói quen mang đậm nét văn hoá tại nhiều quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Tình trạng ngộ độc, thói quen sử dụng và tử vong do sử dụng rượu ở nam giới tại thị trấn
Thái Hòa đang là vấn đề được quan tâm của các cấp chính quyền.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ mẫu rượu truyền thống đạt chất lượng, tỉ lệ và các yếu tố liên quan
đến rối loạn sử dụng rượu bia (lạm dụng rượu bia) ở nam giới trong độ tuổi lao động.
Phương pháp: Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên tất cả 49 cửa hàng kinh doanh rượu và 360
nam giới trong độ tuổi lao động (được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống). Chúng tôi sử dụng bộ câu
hỏi AUDIT để phỏng vấn trực tiếp xác định mức độ sử dụng rượu bia và sử dụng phương pháp xét nghiệm theo
QCVN 6‐3:2010/BYT để đánh giá chất lượng rượu. Nghiên cứu sử dụng phép kiểm chi bình phương để xác định
mối liên quan giữa các biến số.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% mẫu rượu không đạt chỉ tiêu Aldehyde, Furfurol và 16,3%
mẫu rượu không đạt chỉ tiêu Methanol. Trong 315 đối tượng nghiên cứu có uống rượu bia trong năm qua, tỉ lệ
rối loạn sử dụng rượu bia là 24,4% (uống rượu nguy cơ 12,7%, uống rượu mức có hại 6%, nghiện rượu là
5,7%), tỉ lệ nam giới có kiến thức về rượu bia là thấp. Kết quả phân tích đa biến cho thấy: Có mối liên quan giữa:
kiến thức đúng về tác dụng có lợi của rượu bia [PR=0,3, KTC95% (0,1‐0,7); p=0,009]; hút thuốc lá ngày
[PR=3,5; KTC 95% (1,8‐6,8); p<0,001]; số người sống chung trong gia đình [PR=3; KTC95% (1,5‐5,7);
p=0,001] và tình trạng hôn nhân [PR=0,37; KTC95% (0,2‐0,6); p<0,001] với rối loạn sử dụng rượu bia
Kết luận: Nâng cao kiến thức về sử dụng rượu bia, trong đó cần tập trung vào nhóm người góa vợ, ly thân,
ly dị, hút thuốc lá và các gia đình đông người sống chung. Định kỳ giám sát ô nhiễm Aldehyde, Furfurol,
Methanol trong rượu.
Từ khóa: rối loạn sử dụng rượu bia, rượu truyền thống
ABSTRACT
THE QUALITY OF TRADITIONAL ALCOHOL, PROPORTION AND FACTORS RELATED TO
ALCOHOL USE DISORDERS IN MALES AT THAI HOA TOWN, TAN UYEN DISTRICT, BINH
DUONG PROVINCE 2013
Tran Minh Hoang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 669 - 677
Background: The use of alcohol is a habit of culture in many countries around the world, including
Vietnam. Alcohol Poisoning, the habit of using alcohol and Death related to alcohol use in men at Thai Hoa town
are a matter of concern.
Objective: To determine the proportion of qualified traditional wine, the proportion and factors associated
with alcohol use disorders (alcohol abuse) in males in the working age.
Method: The descriptive cross‐sectional study was performed at 49 liquor stores and among 360 men at the
* Chi Cục An toàn vệ sinh thực phẩm tỉnh Bình Dương
Tác giả liên lạc: Ths. Trần Minh Hoàng ĐT: 0976729759 Email: mhoang019@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 670
working age (to be selected by systematic random method). We used the AUDIT questionnaire and interviewd
directly in order to determine the level of alcohol use and testing methods based on QCVN 6‐3:2010 / MOH to
evaluate wine quality. We also used chi‐squared test to measure the relationship between variables.
Result: The study results showed that 100% of wine samples didn’t achieve with aldehyde, furfurol
indicators and 16.3% of samples did not meet the standars of methanol indicator. . Of the total 315 men drinking
in the past year, the proportion of alcohol use disorder was 24,4 % (12.7 % at‐risk drinker, 6% drinking at
harmful levels, 5.7 % Alcohol dependence). The percentage of male participants with right knowledge on alcohol
was low. According to the multi‐variate analysis, there was an association between alcohol use disorders
and right knowledge about the positive effects of alcohol [ PR = 0.3, 95% CI (0.1 ‐ 0.7), p = 0.009]; daily
smoking [PR = 3.5, 95% CI (1.8 ‐ 6.8), p < 0.001 ]; the number of people living in the family [PR = 3.95%
CI (1.5 ‐ 5.7), p = 0.001]; marital status [PR = 0.37, 95% CI (0.2‐0.6), p < 0.001].
Conclusion: Raising knowledge of alcohol use, andstrengthening communication focusing on groups who
are widowed, separated, divorced, smokers and families of many people living together. Monitoring the
contamination of aldehyde, furfurol, Methanol in wine should be conducted periodically. They should mornitor
periodically.
Keywords: alcohol use disorders, traditional alcohol
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc sử dụng rượu bia (SDRB) là một thói
quen mang đậm nét văn hoá tại nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó có Việt Nam(8). SDRB
đúng cách, đúng liều lượng sẽ mang lại trạng
thái khỏe cả về thể chất và tinh thần cho người
sử dụng. Tuy nhiên, rượu bia lại là chất kích
thích, gây nghiện, do vậy người sử dụng rất dễ
bị lệ thuộc và gây nhiều bệnh cho người sử
dụng. Bên cạnh thói quen và mức độ sử dụng
rượu bia thì chất lượng rượu bia cũng đang là
một vấn đề quan tâm của cộng đồng. Rượu
không đảm bảo chất lượng đã gây ra nhiều vụ
ngộ độc. Tính từ năm 2000‐2008 đã xảy ra 28 vụ
ngộ độc rượu với tỉ lệ chết/mắc là 21,4% (34
người chết/159 người mắc).
Thái Hòa là một thị trấn trung tâm giữa các
khu công nghiệp, nằm phía tây của thị trấn
Uyên Hưng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương,
phía bắc giáp ranh với thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai, phía tây giáp ranh với các khu công
nghiệp của thị xã Dĩ An và quận Thủ Đức, thành
phố Hồ Chí Minh, phía Đông giáp ranh với các
khu công nghiệp của thị xã Thuận An. Trong 6
tháng đầu năm 2012 tại thị trấn Thái Hòa và
vùng lân cận đã xả ra 2 vụ ngộ độ rượu với 6
người tử vong, nguyên nhân là do sử dụng rượu
quá mức và trong rượu có hàm lượng Methanol
vượt quá quy định. Cũng chưa có một nghiên
cứu nào liên quan đến rượu bia trên địa bàn thị
trấn Thái Hòa và toàn tỉnh Bình Dương. Do đó,
với ý định đánh giá cả về chất lượng rượu bia và
mức độ SDRB ở đối tượng nguy cơ cao chúng tôi
thực hiện đề tài “Chất lượng rượu truyền thống
và tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến rối loạn sử
dụng rượu bia ở nam giới tại thị trấn Thái Hòa,
huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương năm 2013” để
có biện pháp can thiệp không để tử vong do ngộ
độc rượu trong thời gian tới.
Mục tiêu
Xác định tỷ lệ mẫu rượu truyền thống tại các
cơ sở kinh doanh rượu đạt các chỉ tiêu Methanol,
Ethanol, Aldehyde theo QCVN 6‐3:2010/BYT.
‐ Xác định tỷ lệ nam giới trong độ tuổi lao
động có kiến thức về tác dụng có lợi của rượu,
tác dụng có hại của rượu bia, kiến thức về lựa
chọn rượu bia, kiến thức về nồng độ cồn được
phép khi tham gia giao thông.
‐ Xác định tỷ lệ nam giới trong độ tuổi lao
động có thái độ ủng hộ các quan điểm về sử
dụng rượu bia trong cộng đồng.
‐ Ở nam giới trong độ tuổi lao động, xác
định: Tỷ lệ sử dụng bia trong năm qua, tháng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 671
qua, tuần qua; Tần suất và số lượng sử dụng
rượu bia trong năm qua; Tỷ lệ rối loạn sử dụng
rượu bia và các mức độ rối loạn sử dụng rượu
bia theo AUDIT của WHO.
‐ Ở nam giới trong độ tuổi lao động: xác định
mối liên quan giữa (1) kiến thức về sử dụng
rượu bia (Kiến thức về tác dụng có lợi, kiến thức
về tác dụng có hại, kiến thức lựa chọn rượu bia,
kiến thức về hàm lượng rượu bia được phép khi
tham gia giao thông), (2) thái độ đối với việc sử
dụng rượu bia và (3) một số yếu tố cá nhân với
RLSDRB.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, địa điểm và thời gian
Nghiên cứu được tiến hành tại cơ sở kinh
doanh rượu và nam giới trong độ tuổi lao động
tại thị trấn Thái Hòa, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình
Dương từ tháng 10/2012 đến tháng 3/2013
Thiết kế và công cụ nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả‐cắt ngang.
Công cụ nghiên cứu
Phiếu phỏng vấn cấu trúc với dành cho đối
tượng là nam giới 15‐60 tuổi trong cộng đồng,
gồm có nhưng nội dung sau: Thông tin nền (10
câu), thông tin về sử dụng rượu bia (10 câu),
AUDIT: The Alcohol Use Disorder Identification
Test (10 câu), kiến thức (14 câu), thái độ (6 câu).
Biên bản lấy mẫu rượu và tem niêm phong mẫu,
và dụng cụ lấy mẫu rượu bia theo Thông tư
14/2011/TT‐BYT ngày 01/4/2011.
Cỡ mẫu
‐ Mẫu cho mục tiêu đánh giá chất lượng rượu
bia
Tại thị trấn Thái Hòa có 3 đại lý có bán rượu,
9 nhà hàng quán ăn và 37 tạp hóa có bán rượu.
Tại mỗi cơ sở kinh doanh rượu bia chọn tất cả
các sản phẩm rượu, bia truyền thống (tự nấu).
Mẫu cho mục tiêu xác định tỷ lệ sử dụng rượu
bia
Cỡ mẫu được tính theo công thức:
2d
qpzn )α/( 212
n: Cỡ mẫu; z: Hệ số tin cậy. Với độ tin cậy 95% thì giá trị
của z = 1,96
Theo kết quả nghiên cứu về thực trạng SDRB
ở Việt Nam của Bộ Y tế năm 2006(2), tỷ lệ SDRB ở
nam giới là 64% p = 0,64; d = 0,05; q =1‐p =0,36.
Cỡ mẫu được tính theo công thức là 355 người là
cỡ mẫu lớn nhất làm tròn 360 người.
Phương pháp lấy mẫu
Chọn tất cả các sản phẩm rượu truyền thống
tại các cơ sở kinh doanh rượu; Chọn 360 nam
giới trong độ tuổi lao động đang sống và làm
việc tại thị trấn Thái Hòa bằng phương pháp
ngẫu nhiên hệ thống.
Phân tích số liệu
Số liệu được nhập liệu bằng phần mềm
EpiData 3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata
12.0. Sử dụng các phương pháp thống kê: Tỷ lệ
phần trăm (%), bảng phân phối tần số được sử
dụng để mô tả đơn biến. Sử dụng kiểm định χ2
xác định sự khác biệt 2 tỷ lệ. Sử dụng phân tích
sống còn Kaplan – Meier để tính tuổi bắt đầu
uống rượu bia. Phân tích phân tầng để tìm yếu
tố tương tác và gây nhiễu, dùng mô hình hồi
quy Poisson để xác định mối liên quan giữa các
yếu tố nguy cơ với RLSDRB hiệu chỉnh cho các
biến số nhiễu hoặc tương tác(1). Ước lượng mối
liên quan bằng số đo kết hợp tỉ số tỉ lệ mắc
(PR)(4).
KẾT QUẢ ‐ BÀN LUẬN
Đặc điểm của cơ sở kinh doanh rượu (n=49)
Đa số các cơ sở kinh doanh rượu là tạp hóa
(75,5%), số cơ sở có giấy chứng nhận đủ điều
kiện an toàn thực phẩm, kinh doanh rượu có
công bố chất lượng, kinh doanh rượu có nhãn
mác là thấp (dưới 21%) và có dưới 50% cơ sở có
sản lượng bán ra 90 lít tháng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 672
Kết quả xét nghiệm rượu truyền thống
(n=49)
Một trăm phần trăm (100%) mẫu rượu có
hàm lượng Aldehyde không đạt theo QCVN 6‐
3:2010/BYT, mẫu có hàm lượng nhỏ nhất là 43,6
(mg/l Etanol 1000C), có dưới 50% mẫu rượu có
hàm lượng Aldehyde bằng 129 (mg/l Etanol
1000C), điều này cho thấy đa số mẫu rượu có
hàm lượng Aldehyde là cao.
Tượng tự kết quả nghiên cứu cũng tìm thấy
100% mẫu rượu có hàm lượng Furfurol không
đạt theo QCVN 6‐3:2010/BYT. Hàm lượng
Furfurol thấp nhất trong mẫu rượu là 0,07
(mg/l), trong khi đó Furfurol không được phép
có trong rượu. Chỉ tiêu Methanol có tỉ lệ không
đạt thấp hơn (16,3%), mẫu có hàm lượng lớn
nhất là 0,3 (mg/l Etanol 1000C). Có dưới 50%
mẫu rượu có hàm lượng Methanol 0,07(mg/l
Etanol 1000C). Hàm lượng Ethanol trung bình
trong mẫu rượu là 27,1±3 (%). Điều này cho thấy
đa số các mẫu rượu có hàm lượng Ethanol là
thấp. Với những kết quả nêu trên cho thấy rượu
truyền thống (nấu thủ công) đang được bán tại
các cửa hàng kinh doanh rượu trên địa bàn thị
trấn Thái Hòa là không an toàn cho người sử
dụng, các chất gây ô nhiễm là Furfurol,
Aldehyde và Methanol.
Đặc điểm của nam giới trong độ tuổi lao
động (n=360)
Các đối tượng được lựa chọn phân bố tương
đối đều nhau ở các nhóm tuổi (15‐24; 25‐34; 35‐
44; 45‐60), trong khoảng từ 20‐30% cho mỗi
nhóm tuổi. Phần lớn các đối tượng nghiên cứu
đã có vợ (55,8%), chưa lập gia đình (29,7%),
góa/ly thân/ly dị (14,5%). Trình độ học vấn có tỉ
lệ cao là nhóm từ cấp 2 đến cấp 3 (61,7%), có
nghề nghiệp lao động chân tay (82,2%), có thu
nhập trên 1,1 triệu đồng/tháng (88,1%). Nam giới
có số người sống chung trong gia đình từ 4
người chiếm tỉ lệ 42,5% và có hút thuốc lá hàng
ngày là cao (45%). Có 14,7% nam giới đang mắc
các bệnh (gan, tiêu hóa, tim mạch, huyết áp, thần
kinh) theo kết luận của bác sĩ.
Kiến thức về sử dụng rượu bia (n=360)
Biểu đồ 1: Kiến thức về tác dụng có lợi của rượu bia (n=360)
Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn nam
giới đã biết uống rượu bia điều độ sẽ mang lại
lợi ích, các lợi ích được nhắc đến nhiều so với các
lợi ích khác là: hỗ trợ tiêu hóa, giảm nguy cơ tim
mạch, giúp tinh thần phấn chấn tỉnh táo, tuy
nhiên nhìn chung thì tỉ lệ này là thấp (<50%) và
đặc biệt có một số đối tượng có những quan
điểm chưa đúng về tác dụng của rượu bia như:
giúp tăng cường mối quan hệ xã hội 20,3%, để
thể hiện tình cảm 18,1% và để thể hiện bản lĩnh
13,3%. Điều này có thể là do ảnh hưởng của
phong tục tập quán uống rượu bia trong cộng
đồng, ở Việt Nam rượu được sử dụng trong mọi
lễ hội, đám tiệc Cũng từ những buổi tiệc này
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 673
mà người dân có cơ hội để giao lưu với nhau
chính vì vậy mà họ cho rằng rượu bia để thể
hiện tình cảm và tăng cường mối quan hệ. Bên
cạnh đó, trong cộng đồng cũng hình thành nhiều
thói quen uống rượu khác nhau: có người uống
rượu vì buồn, có người uống vì thói quen và đôi
khi dùng rượu bia làm công cụ để so sánh bản
lĩnh. Trong nghiên cứu này, xác định người có
kiến thức đúng về tác dụng có lợi của rượu bia
khi họ biết rằng uống rượu bia điều độ sẽ mang
lại lợi ích và biết được liều lượng uống mang lại
lợi ích, với 360 đối tượng nghiên cứu đã tìm thấy
có 43,9% đối tượng có kiến thức đúng, tỉ lệ này là
thấp. Tương đồng với kết quả nghiên cứu này,
nghiên cứu của Vũ Thị Mai Anh cũng trên đối
tượng là nam giới từ 15‐60 tuổi cũng cho kết quả
tương tự (41,2%)(9).
Biểu đồ 2: Kiến thức về tác dụng có hại của rượu bia (n=360)
Trong nghiên cứu này xác định có kiến thức
đúng về tác dụng có hại của rượu bia khi đối
tượng nghiên cứu biết uống rượu bia không
điều độ sẽ gây ảnh hưởng cho sức khỏe và gây
các bệnh về gan, đường tiêu hóa, tim mạch và
biết được các tác hại như mất tập trung làm việc
kém hiệu quả, dễ dẫn đến tai nạn giao thông và
gây mất đoàn kết gia đình bạn bè. Kết quả cho
thấy chỉ có 28,6% đối tượng nghiên cứu có kiến
thức đúng về tác hại của rượu bia, điều này cho
thấy người dân chưa có kiến thức đầy đủ về tác
hại của việc sử dụng rượu bia. Mặc dù đối tượng
nghiên cứu biết được các tác hại cho sức khỏe là
tương đối cao như: bệnh đường tiêu hóa, bệnh
về gan, tim mạch, huyết áp (khoảng 60%) nhưng
tỉ lệ biết được cả 3 tác hại này là thấp hoặc không
biết được các tác hại khác có thể có của rượu bia
như: mất tập trung làm việc kém hiệu quả, dễ
gây tai nạn giao thông, dễ gây mất đoàn kết gia
đình bạn bè. Tương đồng với kết quả nghiên
cứu này, kết quả nghiên cứu của Vũ Thị Mai
Anh như đã nêu ở trên cũng cho kết quả tương
tự, đa phần đối tượng nghiên cứu cho rằng uống
rượu bia là có ảnh hưởng cho sức khỏe (72,4%)
và tác hại cho cộng đồng ít được quan tâm
(<30%). Trong thực tế thì người dân thường ít
quan tâm đến tác hại của rượu bia cho cộng
đồng và cho xã hội, họ chỉ nghĩ rằng uống rượu
bia là ảnh hưởng trực tiếp đến người uống, như
vậy cần phải có những chương trình tuyên
truyền giáo dục phù hợp để người dân có kiến
đầy đủ về các tác hại của rượu bia qua đó giảm tỉ
lệ sử dụng rượu bia có hại trong cộng đồng.
Trong 360 nam giới, chỉ có 13,6% đối tượng
nghiên cứu có kiến thức đúng về lựa chọn rượu
bia, đối tượng nghiên cứu chủ yếu quan tâm đến
nguồn gốc xuất xứ, ít quan tâm đến sản phẩm
rượu có còn hạn sử dụng hoặc đã được công bố
chất lượng hay chưa. Trong thực tế, người tiêu
dùng không thể lấy sản phẩm kiểm nghiệm
đánh giá chất lượng rồi mới quyết định mua sản
phẩm đó hay không, phương pháp nhanh và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 674
đơn giản là người tiêu dùng tìm hiểu qua giấy
công bố chất lượng, qua hồ sơ chứng minh cho
sản phẩm đó đã được kiểm soát chất lượng hoặc
các số công bố ghi trên nhãn hàng hóa đã đăng
ký với cơ quan chức năng. Vấn đề đặt ra là rất ít
người dân biết vấn đề trên và đôi khi e ngại
không dám hỏi, do đó mà nguy cơ chọn mua
phải những sản phẩm rượu bia không đảm bảo
an toàn là cao. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng
cho thấy chỉ có 23,1% đối tượng nghiên cứu có
kiến thức đúng về nồng độ cồn được phép khi
tham gia giao thông. Việc nắm bắt các quy định
về rượu bia khi tham gia giao thông cũng góp
phần hạn chế sử dụng rượu bia trong cộng
đồng, do đó kết quả nghiên cứu gợi ý cần có
chương trình nâng cao kiến thức này trong cộng
đồng.
Thái độ đối với các quan điểm về sử dụng
rượu bia (n=360)
Hầu hết nam giới có thái độ đồng ý với các
quan điểm ủng hộ sử dụng rượu bia trong cộng
đồng. Trong đó, có gần 50% các đối tượng ủng
hộ các quan điểm “Rượu bia là một phần không
thể thiếu trong mọi đám tiệc, lễ hội”, “Uống
rượu, bia để tăng cường các mối quan hệ xã
hội”, “Uống rượu, bia giúp cho vui vẻ hưng
phấn làm việc”. Điều này cũng phù hợp với thực
tế vì ở Việt Nam việc sử dụng là rất phổ biến,
rượu đã đi vào đời sống văn hóa, tâm linh, kinh
tế, xã hội của mỗi cộng đồng và mỗi vùng miền.
Việc dùng rượu bia đã trở thành thói quen đối
với nhiều gia đình. Bởi lẽ đó, trong tập quán,
rượu được xem là lễ nên không thể thiếu được
trong các dịp hội hè, đình đám, lễ lộc. Rượu như
một biểu trưng văn hoá, thứ mà con người dùng
để giao thiếp, thể hiện các mối quan hệ xã hội,
thể hiện cá nhân mình, do đó mà mọi người dân
đều biết đến và ủng hộ những quan điểm này.
Vấn đề đặt ra là những quan điểm này ủng hộ
cho việc uống rượu bia và gây hại cho cá nhân
và cộng đồng, do đó việc giúp cho người dân
hiểu đúng những quan điểm này là cần thiết.
Thực trạng sử dụng rượu bia (n=360)
Biểu đồ 3: Tình hình sử dụng rượu bia và tuổi bắt đầu sử dụng rượu bia (n=360)
Kết quả trên cho thấy hành vi uống rượu bia
là phổ biến và kết quả này cũng tương đồng với
các nghiên cứu trước đây. Trong số 360 đối
tượng nghiên cứu, có 20 đối tượng nghiên cứu
không nhớ thời điểm uống rượu bia. Những đối
tượng còn lại (340 đối tượng) sẽ được khai báo
dưới dạng biến sống còn để tính thời điểm bắt
đầu uống rượu bia. Kết quả phân tích sống còn
Kaplan – Meier cho thấy có gần 50% đối tượng
bắt đầu uống rượu bia khi chưa được 19 tuổi. So
với trên thế giới thì độ tuổi này là trễ hơn
(Mỹ:13,1; châu Âu: 13,6), so với nghiên cứu trước
đây tại Việt Nam thì độ tuổi này trẻ hơn, nghiên
cứu của Bộ Y tế là 26 tuổi(2, 3).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 675
Biểu đồ 4: Rối loạn sử dụng rượu bia và biện pháp can thiệp (n=315)
Công cụ AUDIT bao gồm 10 câu hỏi, số
điểm tối đa có thể đạt được là 40 điểm. Các câu
hỏi 1‐8 có thể ghi 0‐4 điểm, câu hỏi 9 và 10 có thể
ghi 0, 2, hoặc 4 điểm. Phiên bản tiếng Anh của
AUDIT đã được dịch ra tiếng Việt và dịch ngược
lại tiếng Anh để giữ cho phiên bản dịch phù hợp
với bản gốc và thích nghi với văn hóa Việt Nam.
Điểm số AUDIT được xác định dựa trên những
đối tượng uống rượu bia trong 1 năm qua. Trong
tổng số 315 nam giới có uống rượu bia trong
năm qua, dựa vào điểm AUDIT xác định được:
77 (24,4%) đối tượng RLSDRB hay còn gọi là lạm
dụng rượu bia (điểm AUDIT ≥8), trong đó uống
rượu mức nguy cơ, 12,7% (điểm AUDIT từ 8‐15);
uống rượu mức có hại, 6% (điểm AUDIT từ 16‐
19) và nghiện rượu là 5,7% (điểm AUDIT từ 20‐
40). Kết quả nghiên cứu này là tương đương với
kết quả nghiên cứu của Kim Bảo Giang tại
huyện Thanh Oai, Hà Nội, năm 2011(6). Tuy
nhiên, so với kết quả của một số nghiên cứu
trước những năm 2003 (7) kết quả nghiên cứu này
là cao hơn. Sự khác biệt này có thể do 2 lý do. Lý
do thứ nhất, những nghiên cứu trước được tiến
hành cách đây từ 4‐10 năm, có thể vào thời điểm
đó, mức độ sử dụng và sự sẵn có của rượu bia
chưa nhiều bằng bây giờ. Lý do thứ 2 có thể là
do sự khác biệt nhau về địa điểm nghiên cứu,
nghiên cứu chúng tôi tiến hành trên địa bàn thị
trấn Thái Hòa là nơi đang phát triển công
nghiệp, nghiên cứu tại phường Trung Trực, Hà
Nội và Hải Phòng là đô thị phát triển chủ yếu là
dịch vụ, có thể sự khác biệt 2 đặc điểm giữa công
nghiệp và dịch vụ sẽ ảnh hưởng đến thói quên
sử dụng rượu của người dân.
Có 12,7% đối tượng nằm trong vùng nguy cơ
II (điểm AUDIT từ 8‐15), tức là cần can thiệp
bằng giáo dục; 6% năm trong vùng III (điểm
AUDIT từ 16‐19) cần được tư vấn theo dõi và
5,7% (điểm AUDIT từ 20‐40) nằm trong phân
vùng IV cần được chẩn đoán và điều trị nghiện
rượu. Với kết quả trên cho thấy các vấn đề rượu
bia trong cộng đồng thị trấn Thái Hòa đang ở
mức có nguy cơ cao. Để làm giảm tỉ lệ sử dụng
rượu bia có hại cho cộng đồng cần phải phối hợp
biện pháp tuyên truyền thông với các biện pháp
chuyên sâu hơn như: tổ chức nói chuyện chuyên
đề về rượu, tư vấn và theo dõi tình trạng sức
khỏe, chẩn đoán sơ bộ nghiện rượu tại cộng
đồng và đưa ra giả pháp điều trị cho nhóm đối
tượng có nguy cơ cao.
Tần suất và số lượng sử dụng
Trong 360 đối tượng nghiên cứu có 315 đối
tượng uống rượu bia trong năm qua. Tần suất sử
dụng từ 4 lần/tuần trở lên chiếm tỉ lệ 6,7%, có
137 đối tượng sử dụng rượu bia với tần suất ít
(sử dụng rượu bia dưới 1 tháng/lần hoặc ít hơn)
chiếm tỉ lệ 43,5%. Số lượng đơn vị rượu uống
trung bình cho 1 lần uống chiếm tỉ lệ nhiều nhất
là 3 hoặc 4 đơn vị rượu chuẩn (36,5%), đặc biệt tỉ
lệ uống từ 6 đơn vị rượu chuẩn trở lên (Quá
chén) chiếm tỉ lệ 35,2%. Trong 315 đối tượng
nam giới có ít hơn 50% đối tượng nghiên cứu
uống đến 8 đơn vị rượu chuẩn trở lên/tuần. Nếu
tính trong 1 ngày trong tuần qua thì có ít hơn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 676
50% đối tượng nghiên cứu uống đến 6 đơn vị
rượu chuẩn trở lên/trong ngày.
Rối loạn sử dụng rượu bia theo thái độ
Với những quan điểm về sử dụng rượu bia ở
Biểu đồ 5, kết quả phân tích đơn biến cho thấy
thái độ có mối liên quan mạnh với RLSDRB
(p<0,05). Tuy nhiên, thái độ là cái khó can thiệp,
chỉ có thể hy vọng cải thiện được thái thông qua
việc cung cấp kiến thức. Do đó, để cải thiện tình
trạng sử sụng rượu bia thì mấu chốt vẫn là công
tác truyền thông giáo dục sức khỏe cho nhóm
đối tượng này.
Rối loạn sử dụng rượu bia và các yếu tố
liên quan
Bảng 1. Rối loạn sử dụng rượu bia và các yếu tố liên
quan
Các đặc tính PR (KTC95%) p
Kiến thức đúng về tác dụng
có lợi 0,3 (0,1-0,7) 0,009
Kiến thức về nồng độ cồn khi
tham gia giao thông 0,27 (0,07-1,04) 0,057
Kiến thức đúng về lựa chọn
rượu bia 3 (0,8-10,6) 0,08
Góa vợ/ Ly thân/ly dị 1
Chưa lập gia đình 0,8 (0,7-1,1) 0,37
Có vợ 0,37 (0,2-0,6) <0,001
Hút thuốc lá hàng ngày 3,5 (1,8-6,8) <0,001
Số người sống chung trên 4
người 3 (1,5-5,7) 0,001
Có bệnh theo kết luận của
bác sĩ 0,4 (0,1-1,01) 0,054
Kết quả phân tích phân tầng cho thấy các
biến số gây nhiễu là: Trình độ học vấn, tình
trạng hôn nhân, số người sống chung và hút
thuốc lá. Do đó, các biến số được đưa vào phân
tích đa biến bao gồm: (1) Biến số độc lập bao
gồm 4 biến số: Kiến thức đúng về tác dụng có lợi
của rượu bia, kiến thức đúng về tác hại của rượu
bia, kiến thức đúng về lựa chọn rượu bia, kiến
thức đúng về nồng độ cồn được phép khi tham
gia giao thông, (2) Biến số kiểm soát bao gồm:
Trình độ học vấn (có tính khuynh hướng), tình
trạng hôn nhân, số người sống chung, hút thuốc
lá và trình trạng bệnh. Kết quả phân tích đa biến,
chúng tôi xác định được mô hình tốt nhất (Bảng
1), có kết quả như sau:
Nam giới có kiến thức đúng về tác dụng có
lợi có tỉ lệ rối loạn sử dụng rượu bia bằng 0,3 lần
so với người có kiến sai về tác dụng có lợi của
rượu bia bia [PR=0,3, KTC95% (0,1‐0,7); p=0,009];
Điều này có thể là do, người có kiến thức đúng
sẽ biết được mức độ uống rượu bao nhiêu là có
lợi và bao nhiêu là có hại nên họ kiểm soát việc
uống rượu của mình tốt hơn.
Nam giới hút thuốc lá ngày có tỉ lệ rối loạn
sử dụng rượu bia gấp 3,5 lần so với người không
hút hoặc hoặc thỉnh thoảng mới hút [PR=3,5;
KTC 95% (1,8‐6,8); p<0,001]. Điều này có thể lý
giải trong vũ trường, quán bar, quán nhậu người
ta thường hút thuốc lá và uống rượu bia nhiều
hơn những nơi khác. Một nghiên cứu thử
nghiệm trên người tình nguyện của trường đại
học Y Duke, Mỹ vào năm 2004(5) cũng cho thấy
có mối liên quan này.
Nam giới có số người sống chung trong gia
đình từ 4 người trở lên có tỉ lệ rối loạn sử dụng
rượu bia gấp 3 lần so với nhóm có số người sống
cùng từ 1‐4 người [PR=3; KTC95% (1,5‐5,7);
p=0,001]; nam giới có vợ có tỉ lệ rối loạn sử dụng
rượu bia bằng 0,38 lần so với nam giới góa vợ/ly
thân/ ly dị [PR=0,37; KTC95% (0,2‐0,6); p<0,001];
Điều này có thể là do các lý do sau: lý do thứ 1 là
gia đình có từ 4 người sống chung trở lên (gia
đình đông con hoặc những gia đình có nhiều thế
hệ cùng chung sống) thường dễ phát sinh mâu
thuẫn hơn gia đình ít người nên nam giới sống
trong những gia đình này có thể tìm đến rượu
bia nhiều hơn, lý do thứ 2 có thể là do nam giới
sống trong gia đình đông người thường có nhiều
thời gian dành cho việc uống rượu bia hơn vì đã
có nhiều người cùng chia nhau lo công việc nhà,
lý do thứ 3 có thể là những gia đình đông người
thường dễ tụ tập uống rượu bia hơn những gia
đình ít người.
Chưa tìm thấy mối liên quan giữa kiến thức
đúng về lựa chọn rượu bia, kiến thức về nồng độ
cồn được phép khi tham gia giao thông, tình
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 677
trạng bệnh với rối loạn sử dụng rượu bia
(p>0,05).
KẾT LUẬN
Các mẫu rượu truyền thống (100%) tại thời
điểm nghiên cứu là không đạt chất lượng theo
quy định, các chỉ tiêu vượt quá hàm lượng tối đa
cho phép là: Adehyde, Furfurol và Methanol.
Phần lớn nam giới trong độ tuổi lao động
chưa có kiến thức đúng và đầy đủ về tác dụng
có lợi của rượu bia, kiến thức về tác hại của rượu
bia, kiến thức về lựa chọn rượu bia, kiến thức về
nồng độ cồn được phép khi tham gia giao thông.
Tỉ lệ rối loạn sử dụng rượu bia là 24,4%.
Trong đó, uống rượu có nguy cơ là 12,7% ; Uống
rượu ở mức có hại là 6%; Nghiện rượu là 5,7%.
Có mối liên quan giữa kiến thức đúng về tác
dụng có lợi của rượu bia, hút thuốc lá, số người
sống chung và tình trạng hôn nhân với rối loạn
sử dụng rượu bia.
KIẾN NGHỊ
Đối với nhà quản lý và các cấp chính
quyền có liên quan
Công tác truyền thông
Nội dung truyền thông cho cộng đồng cần
tập trung nhiều hơn vào các nội dung như: mức
độ uống rượu bia như thế nào là có lợi, cách lựa
chọn rượu bia, hàm lượng rượu bia được phép
khi tham gia giao thông;
Đối tượng truyền thông cần tập trung vào
nhóm người có góa vợ, ly thân, ly dị, hút thuốc
lá nhiều và các gia đình đông người sống chung
Công tác thanh, kiểm tra
Tăng cường thanh, kiểm tra các cơ sở kinh
doanh rượu bia. Không cho phép các cửa hàng
bán các loại rượu không rõ nguồn gốc xuất xứ,
chưa công bố chất lượng và không có nhãn mác.
Công tác giám sát nguy cơ ô nhiễm: Định kỳ
tổ chức giám sát ô nhiễm các độc tố Aldehyde,
Furfurol, Methanol.
Xây dựng chương trình chuyên sâu về
phòng chống lạm dụng rượu bia trong cộng
đồng như: can thiệp bằng giáo dục, can thiệp tư
vấn theo dõi tình trạng sức khỏe và chuẩn đoán
và điều trị nghiện rượu.
Đối với cơ sở kinh doanh rượu
Cửa hành kinh doanh rượu chỉ được phép
bán những sản phẩm rượu bia đã được chứng
nhận công bố chất lượng, có nguồn gốc xuất xứ
và nhãn mác đầy đủ;
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barros AJ, Hirakata VN (2003) Alternatives for logistic
regression in cross‐sectional studies: an empirical comparison
of modelsthat directly estimate the prevalence ratio ʺ. BMC
Medical Research Methodology, 3 (21) 123‐133.
2. Bộ Y tế (2006) Báo cáo đánh giá tình hình lạm dụng rượu bia tại
Việt Nam. Viện chính sách và chiến lược. Hà Nội. Tr.6‐8.
3. Bộ Y tế, Tổng cục thống kê, UNICEF, WHO (2006) Báo cáo điều
tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam. Nhà xuất
bản thống kê. Hà Nội. Tr 66‐70.
4. Đỗ Văn Dũng (2009) Phương pháp nghiên cứu sức khỏe cộng
đồng. Đại học Y dược Tp.HCM. Hồ Chí Minh. tr.73‐298.
5. Duke University Medical Center (2004) Alcohol Boosts
Smokingʹs Effects. Health Insurance Newsletter. 6 (345) 1.
6. Kim Bảo Giang, Hoàng Văn Minh (2011) Tình hình sử dụng
và lạm dụng rượu/bia của người dân huyện Thanh Oai. Hà
Nội và một số yếu tố liên quan. Tạp chí Y học thực hành. 764(5)
50‐54.
7. Nguyễn Văn Việt (2002) Báo cáo kỷ yếu Hội thảo chính sách
phòng chống lạm dụng rượu bia. Ủy ban các vấn đề xã hội. Hà
Nội. Tr.1‐10.
8. Vũ Thị Mai Anh (2007) Thực trạng sử dụng rượu bia và một số
yếu tố liên quan đến lạm dụng rượu bia của nam giới trong độ tuổi
lao động tại xã Việt Đoàn. huyện Tiên Du. tình Bắc Ninh. Luận
văn tốt nghiệp thạc sỹ Y tế công cộng. Đại học Y tế công cộng
Hà Nội. Tr.33‐63.
Ngày nhận bài báo: 23/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 13/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chat_luong_ruou_truyen_thong_ti_le_va_cac_yeu_to_lien_quan_d.pdf