Chảy máu sau phúc mạc ở người van tim cơ học đang được dùng thuốc chống đông kháng Vitamin K
Các phương pháp điều trị được các tác giả trên
thế giới nêu ra bao gồm: điều trị bảo tồn, can thiệp
nội mạch để bít điểm chảy máu hoặc phẫu thuật.
Phương pháp điều trị bảo tồn bao gồm: dừng
thuốc chống đông, tiêm vitamin K, truyền huyết
tương tươi đông lạnh, truyền máu, bù đủ khối
lượng tuần hoàn, đây là phương pháp được nhiều
tác giả lựa chọn đầu tiên [1- 8]. Qua xem xét các
ca lâm sàng của các tác giả, chúng tôi thấy rằng,
nếu người bệnh chảy máu sau phúc mạc không
có biểu hiện sốc mất máu, bệnh nhân thường đáp
ứng nội khoa tốt và sống khi ra viện [6, 7]. Những
bệnh nhân có sốc mất máu tại thời điểm nhập viện
hoặc trong quá trình điều trị nội khoa đơn thuần
thường có tiên lượng nặng và tử vong trong viện,
giải phẫu bệnh tử thi các tác giả thấy khối máu tụ
có kích thước lớn sau phúc mạc [2, 4, 8]. Các tác
giả đề nghị phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch khi
bệnh nhân không đáp ứng điều trị nội khoa bảo
tồn: bệnh nhân vẫn tiếp tục mất máu hoặc xuất
hiện tình trạng tổn thương tạng tiến triển. Phương
pháp can thiệp nội mạch được chỉ định khi tìm
thấy điểm chảy máu rõ ràng trên hệ thống động
mạch chủ. Phẫu thuật giúp giải phóng khối máu tụ
sau phúc mạc, giảm áp lực ổ bụng và khôi phục áp
lực tưới máu tạng nhưng có nhược điểm là khó có
khả năng xác định vị trí và kiểm soát các tổn thương
chảy máu, thậm chí có nguy cơ làm tình trạng chảy
máu xấu thêm [1, 3].
Bệnh nhân của chúng tôi được chỉ định dẫn
lưu máu trong ổ bụng do bệnh nhân xuất hiện tình
trạng tăng áp lực trong ổ bụng và bắt đầu có dấu
hiệu tổn thương tạng trong ổ bụng (gan). Diễn
biến sau mổ thuận lợi, tình trạng áp lực ổ bụng
giảm, bệnh nhân được rút dẫn lưu ổ bụng, dùng lại
Sintrom và ra viện khi INR ổn định.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chảy máu sau phúc mạc ở người van tim cơ học đang được dùng thuốc chống đông kháng Vitamin K, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CA LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.2016 101
Chảy máu sau phúc mạc ở người van tim cơ
học đang được dùng thuốc chống đông kháng
Vitamin K
Tạ Mạnh Cường*, Trần Hữu Vinh**, Văn Đức Hạnh*, Lê Ngọc Anh*
Viện Tim mạch Việt Nam*
Khoa Ngoại Bệnh viện Bạch Mai**
MỞ ĐẦU
Chảy máu sau phúc mạc ở bệnh nhân đang
dùng thuốc chống đông kháng Vitamin K là biến
chứng ít gặp, do giảm tỷ lệ Prothrombin, không liên
quan tới chấn thương hoặc can thiệp xâm lấn [1].
Chảy máu do giảm đông và xảy ra khi có yếu tố vỡ
các vi phình mạch của động mạch chủ - chậu [2].
Đây là một biến chứng nặng do tình trạng mất máu
cấp, nguy cơ sốc mất máu, tăng áp lực trong ổ bụng,
giảm áp lực tưới máu tạng trong ổ bụng [3]. Điều
trị nội khoa đóng vai trò quan trọng và là điều trị cơ
bản, bên cạnh đó cần xem xét can thiệp nội mạch
hoặc phẫu thuật dẫn lưu khối máu tụ khi điều trị nội
khoa thất bại.
CA LÂM SÀNG
Bệnh nhân nam 56 tuổi có tiền sử mổ thay van
hai lá và van động mạch chủ cơ học do thấp tim
năm 2012, đái tháo đường typ 2. Thuốc đang điều
trị gồm Sintrom (Acenocoumarol) 2 mg/ngày
kèm theo Metformin và Sitagliptin. Bệnh nhân
có tiền sử xuất huyết tiêu hoá cao cách hai tháng.
Ba ngày trước vào viện, bệnh nhân có biểu hiện
đau vùng thắt lưng và mạn sườn phải. Trên phim
chụp CT bụng thấy khối máu tụ lớn sau phúc mạc,
MSCT mạch máu không phát hiện ra điểm chảy
máu trong ổ bụng. INR tại thời điểm vào viện 1,73
(bệnh nhân đã dừng uống Sintrom 3 ngày trước
đó). Bệnh nhân được điều trị nội khoa trong bốn
ngày bằng truyền 9 đơn vị hồng cầu (350 ml/đơn
vị), 6 đơn vị huyết tương tươi đông lạnh (200 ml/
đơn vị), tiêm vitamin K, tiếp tục dừng Sintrom. Ba
ngày sau khi nhập viện, dấu hiệu mất máu không
tiến triển thêm, Hemoglobin 86 - 93 g/l, nhưng
bệnh nhân xuất hiện đau bụng nhiều, ổ bụng
chướng căng và xuất hiện men gan tăng dần. Bệnh
nhân được hội chẩn với các bác sĩ ngoại khoa và có
chỉ định phẫu thuật lấy khối máu tụ sau phúc mạc.
Bệnh nhân được phẫu thuật, dẫn lưu ra 2000 ml
dịch máu ở khoang sau phúc mạc, kèm theo bệnh
nhân được truyền thêm 2 đơn vị khối hồng cầu. Sau
khi dẫn lưu máu ổ bụng, bệnh nhân huyết động ổn
định, Hemoglobin 134 g/l, rút dẫn lưu sau 5 ngày,
bệnh nhân được dùng lại Sintrom và ra viện.
Hình 1. Hình ảnh CT bụng trước và sau khi dẫn lưu
khối máu tụ sau phúc mạc
Trước dẫn lưu
1. Cơ thắt lưng chậu
2. Khối máu tụ sau phúc mạc
Sau dẫn lưu
CA LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.2016102
BÀN LUẬN
Thuốc chống đông kháng Vitamin K đóng vai
trò quan trọng trong điều trị các bệnh lý van tim
cơ học, rung nhĩ, tắc động mạch phổi, huyết khối
tĩnh mạch sâu Một đặc điểm quan trọng là cửa
sổ điều trị của các thuốc này khá hẹp, vì vậy thuốc
dễ gây biến chứng xuất huyết (dưới da, tiết niệu,
tiêu hoá, não) khi quá liều. Mặt khác, hiệu quả
chống đông của thuốc cũng bị ảnh hưởng nhiều
bởi chế độ dinh dưỡng và tương tác với các thuốc
điều trị khác.
Chảy máu sau phúc mạc tự phát không do chấn
thương liên quan tới thuốc chống đông kháng Vitamin
K được một số tác giả trên thế giới đề cập tới qua các
báo cáo ca lâm sàng. Nguyên nhân thực sự chưa rõ
ràng, một số giả thiết cho rằng có sự liên quan giữa
chảy máu sau phúc mạc với sự tăng vận động của các
cơ vùng thắt lưng chậu gây ra vi tổn thương, vỡ các
vi mạch xơ vữa, bệnh vi mạch tự miễn liên quan tới
Heparin, ung thư trong đó vỡ các vi mạch được các
tác giả cho là hay gặp nhất [3, 4]. Một số báo cáo
ca bệnh cho thấy biến chứng chảy máu sau phúc
mạc xuất hiện sau khi bệnh nhân đang điều trị thuốc
chống đông kháng vitamin K dùng kèm theo thuốc
chống đông trọng lượng phân tử thấp, Aspirin,
Pxaracetamol, kháng sinh hoặc người bệnh có bệnh
lý gan thận kèm theo [4, 5, 6, 7].
Biểu hiện lâm sàng đa dạng, người bệnh có thể
đau vùng hông lưng, đau bụng vùng hạ sườn, nôn,
hoặc nặng hơn là xuất hiện tình trạng sốc mất máu.
Một phần ba bệnh nhân có đau bụng dữ dội, xuất
hiện tình trạng sốc. Tình trạng chảy máu nhiều
một mặt gây ra mất thể tích tuần hoàn, mặt khác
gây ra tăng áp lực trong ổ bụng làm giảm áp lực
tưới máu các tạng trong ổ bụng, tổn thương thần
kinh [3, 4]. Vòng xoáy bệnh lý được thiết lập do sự
giảm tưới máu tạng (đặc biệt là gan, thận, ruột),
giảm thể tích tuần hoàn trở về tim (tiền gánh) từ
đó làm giảm cung lượng tim. Tỷ lệ tử vong khoảng
từ 29 – 62% tuỳ thuộc vào tổn thương tạng và xuất
hiện tình trạng Sepsis. Để làm giảm tổn thương
tạng và giảm tử vong, theo dõi áp lực ổ bụng và
quyết định thời gian mổ dẫn lưu máu tụ đóng vai
trò quan trọng [3].
Bệnh nhân của chúng tôi ban đầu xuất hiện tình
trạng đau vùng thắt lưng, đau mạn sườn phải và có
thiếu máu cấp mức độ nhiều tại thời điểm nhập
viện (Hemoglobin 73 g/l), chúng tôi không thấy
xuất huyết dưới da, xuất huyết tiêu hoá, tiết niệu
trên lâm sàng. Phim CT bụng thấy khối máu tụ
lớn sau phúc mạc phù hợp với tình trạng mất máu.
MSCT hệ thống động mạch không thấy điểm chảy
máu, chúng ta cho rằng tổn thương chảy máu sau
phúc mạc của bệnh nhân có lẽ do vỡ vi phình mạch
của hệ thống động mạch chủ - chậu. Tại thời điểm
nhập viện, bệnh nhân được điều trị nội khoa tích
cực bao gồm tiếp tục dừng Sintrom (bệnh nhân đã
tự dừng Sintrom 3 ngày để uống thuốc giảm đau
ở nhà), truyền khối hồng cầu và huyết tương tươi
đông lạnh. Ba ngày sau khi nhập viện, tình trạng
chảy máu đã ổn định hơn, Hemoglobin không
giảm thêm. Chúng tôi cho rằng máu đã ngừng chảy
ở các vi phình mạch.
Các phương pháp điều trị được các tác giả trên
thế giới nêu ra bao gồm: điều trị bảo tồn, can thiệp
nội mạch để bít điểm chảy máu hoặc phẫu thuật.
Phương pháp điều trị bảo tồn bao gồm: dừng
thuốc chống đông, tiêm vitamin K, truyền huyết
tương tươi đông lạnh, truyền máu, bù đủ khối
lượng tuần hoàn, đây là phương pháp được nhiều
tác giả lựa chọn đầu tiên [1- 8]. Qua xem xét các
ca lâm sàng của các tác giả, chúng tôi thấy rằng,
nếu người bệnh chảy máu sau phúc mạc không
có biểu hiện sốc mất máu, bệnh nhân thường đáp
ứng nội khoa tốt và sống khi ra viện [6, 7]. Những
bệnh nhân có sốc mất máu tại thời điểm nhập viện
hoặc trong quá trình điều trị nội khoa đơn thuần
CA LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.2016 103
thường có tiên lượng nặng và tử vong trong viện,
giải phẫu bệnh tử thi các tác giả thấy khối máu tụ
có kích thước lớn sau phúc mạc [2, 4, 8]. Các tác
giả đề nghị phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch khi
bệnh nhân không đáp ứng điều trị nội khoa bảo
tồn: bệnh nhân vẫn tiếp tục mất máu hoặc xuất
hiện tình trạng tổn thương tạng tiến triển. Phương
pháp can thiệp nội mạch được chỉ định khi tìm
thấy điểm chảy máu rõ ràng trên hệ thống động
mạch chủ. Phẫu thuật giúp giải phóng khối máu tụ
sau phúc mạc, giảm áp lực ổ bụng và khôi phục áp
lực tưới máu tạng nhưng có nhược điểm là khó có
khả năng xác định vị trí và kiểm soát các tổn thương
chảy máu, thậm chí có nguy cơ làm tình trạng chảy
máu xấu thêm [1, 3].
Bệnh nhân của chúng tôi được chỉ định dẫn
lưu máu trong ổ bụng do bệnh nhân xuất hiện tình
trạng tăng áp lực trong ổ bụng và bắt đầu có dấu
hiệu tổn thương tạng trong ổ bụng (gan). Diễn
biến sau mổ thuận lợi, tình trạng áp lực ổ bụng
giảm, bệnh nhân được rút dẫn lưu ổ bụng, dùng lại
Sintrom và ra viện khi INR ổn định.
KẾT LUẬN
Chảy máu sau phúc mạc ở bệnh nhân đang
dùng thuốc chông đông là một biến chứng hiếm
gặp nhưng rất nặng, dễ diễn biến tới sốc mất máu,
tăng áp lực ổ bụng gây tổn thương tạng trong ổ
bụng cao, nguy cơ tử vong cao. Điều trị nội khoa
ban đầu đóng vai trò quan trọng để duy trì sự sống,
người bệnh cần được chụp phim mạch máu tìm
điểm chảy máu và can thiệp nội mạch sớm (nếu
có). Phẫu thuật dẫn lưu khối máu tụ nên được đặt
ra khi khối máu tụ lớn làm áp lực trong ổ bụng tăng
cao gây chèn ép làm tổn thương thiếu máu các tạng
trong ổ bụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andrade MMA et al. Abdominal compartment syndrome due to warfarin related retroperitoneal
hematoma. Clinics 2007; 62 (6): 781 – 4.
2. Maruyama A et al. Retroperitoneal Hematoma in a Patient with Advanced Chronic Kidney Disease
Receiving Warfarin Therapy. Intern Med 2016; 55: 1153-1158.
3. Dae – Yeon Won et al. Abdominal Compartment Syndrome Due to Spontaneous Retroperitoneal
Hemorrhage in a Patient Undergoing Anticoagulation. Yonsei Med J 2011; 52(2):358-361.
4. Lissoway J et al. Fatal retroperitoneal hematoma after enoxaparin administration in a patient with
paroxysmal atrial flutter. Am J Health-Syst Pharm 2010; Vol 67 May 15, 2010.
5. Andrew F J. Retroperitoneal haematoma after paracetamol increased anticoagulation. Emerg Med J
2002;19:84–85.
6. Phillips S et al. Two cases of retroperitoneal haematoma caused by interaction between antibiotics and
warfarin. Emerg Med J 2006;23:e8.
7. Chan T Y K. Life threatening retroperitoneal bleeding due to warfarin drug interactions. Pharmacoepidemiology
and drugs safety 2009; 18: 420 – 422.
8. Marzieh Hosseini et al. Nontraumatic Retroperitoneal Hematoma After Warfarin Administration Fatal
Case Report and Review of the Literature. Am J Forensic Med Pathol 2015;36: 245–248.
CA LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 77,12.2016104
Bảng 1. Một số ca lâm sàng chảy máu sau phúc mạc ở bệnh nhân đang dùng thuốc chống đông
Tác giả Bệnh nhân Phương pháp điều trị Kết cục lâm sàng
Andrade M M A [1] Nữ, 49 tuổi đang điều trị huyết khối tĩnh
mạch sâu bằng Warfarin.
Sốc mất máu, tăng áp lực ổ bụng, xuất
hiện hội chứng khoang ổ bụng.
Nội khoa.
Dẫn lưu khối máu tụ sau
phúc mạc.
Sống, ra viện.
Maruyama A [2] Nam, 73 tuổi đang điều trị van hai lá cơ
học bằng Warfarin, suy thận lọc máu
Sốc mất máu.
Nội khoa. Tử vong.
Giải phẫu bệnh: khối máu tụ
sau phúc mạc 30x20x20 cm.
Dae-Yeon Won [3] Nữ, 48 tuổi, mang van động mạch chủ nhân
tạo, đang dùng Warfarin và Aspirin. Chảy
máu sau phúc mạu có sốc mất máu, tăng áp
lực ổ bụng, giảm tưới máu tạng ổ bụng.
- Nội khoa.
- Can thiệp nội mạch bít
vị trí chảy máu ở động
mạch chậu trong phải.
- Phẫu thuật dẫn lưu
4.000 ml máu tụ.
- Dùng lại thuốc chống
đông 2 ngày sau mổ.
- Ra viện 12 ngày sau khi
mổ.
Lissoway J [4] Nữ, 74 tuổi điều trị rung nhĩ cơn bằng
Warfarin, Enoxaparin và Aspirin. Chảy máu
sau phúc mạc có sốc mất máu.
Nội khoa.
Hồi sức.
Tử vong trong viện, giải
phẫu bệnh: khối máu tụ
18x15x19 cm sau phúc mạc.
Andrew F J [5] Nữ, 62 tuổi, mang van hai lá nhân tạo
đang dùng Warfarin kèm Paracetamol.
- Điều trị nội khoa bảo
tồn.
Không đề cập.
Phillips S [6] Nữ, 60 tuổi, đang điều trị nhồi máu phổi
bằng chống đông, dùng kèm kháng sinh
Trimethoprim, Cephaleucin và Metronidazole
điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu. Chảy máu
sau phúc mạc có tình trạng sốc mất máu,
huyết khối tĩnh mạch chân phải.
- Nội khoa.
- Dẫn lưu máu tụ.
- Đặt filter tĩnh mạch
chủ dưới.
Bệnh nhân sống, ra viện.
Phillips S [6] Nữ, 69 tuổi đang điều trị rung nhĩ bằng
Warfarin, dùng thêm Clarithromycin do
nhiễm khuẩn hô hấp. Chảy máu sau phúc
mạc không có sốc mất máu.
Nội khoa. Ra viện sau hơn 1 tuần.
Chan T Y K [7] Nam, 53 tuổi điều trị tắc động mạch
phổi, huyết khối tĩnh mạch chân trái
bằng Warfarin, Enoxaparin.
Không có sốc mất máu.
Nội khoa. Ra viện sau 30 ngày.
Marzieh Hosseini [8] Nam 25 tuổi, đang điều trị van động mạch
chủ nhân tạo bằng Warfarin.
Sốc mất máu tại thời điểm vào viện.
Nội khoa. Tử vong sau 3 giờ vào viện.
Giải phẫu bệnh: có 1300
ml máu sau phúc mạc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
chay_mau_sau_phuc_mac_o_nguoi_van_tim_co_hoc_dang_duoc_dung.pdf