Một số hạn chế của thức ăn lên men lỏng
Phương pháp lên men hỗn hợp thức ăn được
phối trộn hoàn chỉnh là phương pháp đơn giản,
thuận tiện và không tốn thời gian, nhân công cho
các trang trại nhỏ và chăn nuôi nông hộ. Tuy nhiên
phương pháp này cũng có một số hạn chế như: Hàm
lượng axit trong thức ăn lên men lỏng quá cao, giá trị
pH thấp < 4,5 có thể liên quan đến một số bệnh như
hội chứng dạ dày xuất huyết, viêm dạ dày ruột hay
loét dạ dày (Brooks, 2008; Missotten et al., 2010).
Bên cạnh đó, lợn ăn thức ăn lỏng, hàm lượng nước
cao nên sẽ thải ra lượng phân lớn hơn so với ăn thức
ăn khô, làm tăng độ ẩm của chuồng nuôi, ảnh hưởng
đến vệ sinh chuồng trại.
Sử dụng phương pháp lên men lỏng trong chế
biến thức ăn cho lợn ở quy mô nhỏ như chăn nuôi
nông hộ cũng còn một số tồn tại về thời gian sử dụng
thức ăn lên men ngắn. Thức ăn lên men lỏng thường
không bảo quản được và sử dụng trong thời gian dài.
Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam, vào mùa hè thời
tiết nắng nóng, thức ăn lên men lỏng nhanh chua, dễ
tạp nhiễm và nhanh bị hư hỏng. Chất lượng thức ăn
cũng khó kiểm soát, vấn đề vệ sinh máng ăn trước
và sau khi ăn cũng gặp khó khăn dễ dẫn đến nguy
cơ gây bệnh đường tiêu hóa cho vật nuôi nếu không
kiểm soát tốt vấn đề nhiễm khuẩn. Đối với quy mô
chăn nuôi lớn có sử dụng hệ thống lên men tự động
thì các vấn đề kiểm soát về chất lượng lên men, tạp
nhiễm được đảm bảo. Tuy nhiên do chi phí của hệ
thống lên men này cao nên đây cũng là thách thức
đối với nhiều trang trại chăn nuôi.
IV. KẾT LUẬN
Lên men thức ăn lỏng là một phương pháp đơn
giản, dễ thực hiện, có thể tận dụng nguồn phụ phẩm
công nông nghiệp rẻ tiền và sử dụng cho cả đối tượng
lợn nái, lợn con và lợn vỗ béo. Hiệu quả tích cực của
thức ăn lên men lỏng mang lại đối với chăn nuôi lợn
rõ rệt nhất là giảm tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn, tăng khả
năng tiêu hóa hấp thu, tăng khối lượng cơ thể, giảm
chi phí thức ăn. Bên cạnh đó, việc sử dụng thức ăn
lên men lỏng cũng giúp giảm sử dụng kháng sinh
trong chăn nuôi với mục đích phòng bệnh và kích
thích sinh trưởng. Tuy nhiên, thức ăn lên men lỏng
đôi khi cũng gây nên một số bệnh như hội chứng
dạ dày xuất huyết, viêm dạ dày ruột hay loét dạ dày.
Bên cạnh đó, quá trình lên men có thể làm thất thoát
các chất dinh dưỡng thiết yếu như các axit amin. Vì
vậy, nên sử dụng phương pháp lên men lỏng đối với
thành phần nguyên liệu thức ăn như tinh bột, thức
ăn thô mà không nên lên men đối với khẩu phần
hỗn hợp hoàn chỉnh.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế biến và sử dụng thức ăn lên men lỏng trong chăn nuôi lợn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
123
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
FAO, 2018. Cultered Aquatic Species Information
Programme (Macrobrachium rosenbergii).
Huys, G., 2002. Preservation of bacteria using commercial
cry preservation systems. Standard Operation
Procedure, Asia resist. 35 pages.
Margarete Mallasen, Wagner Cotroni Valenti, 2006.
Effect of nitrite on larval development of giant river
prawn Macrobrachium rosenbergii. Original Research
Article Aquaculture, 261 (4): 1292-1298.
McIntosh, B. J.; Samocha, T. M.; Jones, E. R.; Lawrence,
A. L.; McKee, D. A.; Horowitz, S. and Horowitz, A.,
2000. The effect of a bacterial supplement on the
high-density culturing of Litopenaeus vannamei
with low-protein diet on outdoor tank system and
no water exchange. Aquacultural Engineering,
21: 215-227.
Uno, Y. and K. C. Soo, 1969. Larval development of
Macrobrachium rosenbergii reared in laboratory.
J. Tokyo Univ. Fish., 55 (2): 79-90.
Effects of carbon sources on growth performance
and survival rate of larval rearing of the freshwater prawn
(Macrobrachium rosenbergii) by biofloc technology
Le Thanh Nghi, Pham Minh Truyen,
Chau Tai Tao, Nguyen Van Hoa, Tran Ngoc Hai
Abstract
This study aimed to identify suitable carbon sources for the growth and survival of larva and postlarva of giant
freshwater prawn nursed in tanks with biofloc technology. The experiment was conducted with four treatments:
(i) no carbon supplement (control), (ii) carbon supplement from rice flour (iii) carbon supplement from rice bran,
and (iv) carbon supplement from sugar. Each treatment was triplicated. The experimental tank was 500 liters in
volume. Stocking density was 60 larvae/liter and water salinity was 12‰. The result showed that after 35 days
rearing the environmental parameters, bacterial density, bioflocs during the rearing of the treatments were in a
suitable range for shrimp growth and development. The sugar treatment the body length of PL-15 (11.7 ± 0.3 mm),
survival rate (59.3 ± 8.7%) and productivity (35,573 ± 5,219 postlarva/m3) was the highest and significantly different
(p < 0.05) compared to the other treatments. This study showed that the sugar was the most suitable carbon source
for nursing giant freshwater prawn larvae in biofloc systems.
Keywords: Biofloc, freshwater prawn larvae, Macrobrachium rosenbergii, carbon sources, survival
Ngày nhận bài: 08/5/2020
Ngày phản biện: 16/5/2020
Người phản biện: TS. Lý Văn Khánh
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Khoa Chăn nuôi, Học viên Nông nghiệp Việt Nam
CHẾ BIẾN VÀ SỬ DỤNG THỨC ĂN LÊN MEN LỎNG
TRONG CHĂN NUÔI LỢN
Nguyễn Thị Tuyết Lê1, Bùi Quang Tuấn1
TÓM TẮT
Thức ăn lên men lỏng được sử dụng trong chăn nuôi lợn ở qui mô trang trại và nông hộ, cho các đối tượng lợn
nái, lợn con và lợn thịt. Bài viết này cung cấp các thông tin cập nhật về phương pháp chế biến và sử dụng thức ăn lên
men lỏng trong chăn nuôi lợn; hiệu quả và hạn chế của phương pháp sử dụng thức ăn lên men lỏng trong chăn nuôi
lợn. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, thức ăn lên men lỏng có thể được chế biến cho các khẩu phần hỗn hợp hoàn
chỉnh hoặc cho từng nguyên liệu thức ăn riêng rẽ. Chất lượng của thức ăn lên men lỏng phụ thuộc vào hàm lượng
axit lactic hình thành trong quá trình lên men tự nhiên hoặc nhờ giống khởi động. Quá trình lên men hình thành các
aixit hữu cơ và các hoạt tính kháng khuẩn (Bacteriocins) làm giảm pH của thức ăn, từ đó làm giảm pH của đường
ruột, giúp ức chế sự tăng sinh của các vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hóa như E. coli, Salmonella và giảm tỷ lệ mắc
tiêu chảy ở lợn. Thức ăn lên men lỏng còn có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả sử dụng thức ăn, khả năng tăng khối
lượng của lợn từ đó nâng cao hiệu quả chăn nuôi. Sử dụng thức ăn lên men lỏng là một phương pháp hiệu quả giúp
giảm chi phí thức ăn do có thể tận dụng các phụ phẩm nông - công nghiệp.
Từ khóa: Thức ăn lên men lỏng, chế biến, sử dụng, chăn nuôi lợn
124
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thức ăn lên men dạng lỏng là dạng lên men của
các nguyên liệu ngũ cốc trong khẩu phần hoặc hỗn
hợp hoàn chỉnh của thức ăn tinh, thức ăn thô, protein
và muối khoáng với nước. Hỗn hợp các nguyên liệu
lên men được hòa trộn với nước thành dạng thức ăn
lỏng và để lên men với nhiệt độ và thời gian thích
hợp. Quá trình lên men diễn ra nhờ vi khuẩn lactic,
nấm men có sẵn trong tự nhiên hoặc sử dụng các
giống khởi động. Sản phẩm của quá trình lên men
chủ yếu là các axit hữu cơ (axit lactic, axit axetic) và
hoạt chất kháng khuẩn bacteriocins. Thức ăn có vị
chua nhẹ do pH giảm và có thể ức chế các vi khuẩn
gây bệnh, gây hại. pH thấp của thức ăn lên men lỏng
sẽ làm giảm pH của đường ruột kết hợp với hoạt
động của các hoạt chất kháng khuẩn bacteriocins sẽ
giúp ức chế sự tăng sinh của các vi khuẩn gây bệnh
đường tiêu hóa như E. coli, Salmonella, từ đó giảm
tỷ lệ mắc tiêu chảy ở gia súc. Phương pháp chế biến
thức ăn lên men lỏng chủ yếu sử dụng trong chăn
nuôi lợn ở cả qui mô trang trại và nông hộ, cho các
đối tượng lợn nái, lợn con sau cai sữa và lợn thịt.
Hiện nay thức ăn lên men lỏng được sử dụng
khá phổ biến ở các nước chăn nuôi tiên tiến trong
cộng đồng Châu Âu cho lợn vỗ béo nhờ các hiệu quả
tích cực của thức ăn lên men lỏng như: Giảm chi
phí thức ăn; Giảm lượng N và P thải ra trong phân
lợn, từ đó giảm ô nhiễm môi trường; Giảm sử dụng
kháng sinh với mục đích kích thích sinh trưởng;
Giảm tỷ lệ nhiễm Salmonella trong thịt lợn. Việc sử
dụng thức ăn lên men lỏng còn giúp các trang trại
chăn nuôi tận dụng nguồn phụ phẩm rẻ tiền của các
ngành nông nghiệp và chế biến thực phẩm (bã bia,
bống rượu, bã đậu, cám gạo...). Đặc biệt, trước tình
trạng kháng kháng sinh ngày càng tăng trong cộng
đồng, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Chăn
nuôi (Luật số 32/2018/QH14) trong đó, việc sử dụng
kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi không phải là
thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam và sử
dụng kháng sinh với mục đích kích thích sinh trưởng
sẽ bị cấm (Quốc hội Việt Nam, 2018). Vì vậy, việc sử
dụng thức ăn lên men lỏng là một trong những giải
pháp hữu ích nhằm thay thế kháng sinh trong phòng
bệnh đường ruột và kích thích tăng trưởng ở lợn. Bài
viết này cung cấp thông tin về chế biến và hiệu quả
của thức ăn lên men lỏng trong chăn nuôi lợn. Qua
đó, các nhà chăn nuôi có thể hiểu được vai trò của
thức ăn lên men và có thể cân nhắc áp dụng thức ăn
lên men trong thực tế chăn nuôi.
II. PHƯƠNG PHÁP CHẾ BIẾN THỨC ĂN LÊN
MEN LỎNG
2.1. Nguyên liệu thức ăn sử dụng lên men
Nguyên vật liệu sử dụng để phối trộn, chế biến
thức ăn chăn nuôi được chia theo nhóm: (1) Nhóm
giàu năng lượng (ngô, cám gạo, sắn...): cung cấp
năng lượng cho các hoạt động của vật nuôi; (2)
Nhóm giàu protein (bột cá, khô đỗ tương), cung
cấp protein cho vật nuôi; (3) Nhóm giàu vitamin
(các loại rau củ, hạt, lá cây...): có vai trò trong chuyển
hóa các chất, cấu tạo tế bào, hoạt động của hệ thần
kinh, tăng cường hệ miễn dịch, chống oxy hóa của
vật nuôi; (4) Nhóm thức ăn giàu khoáng (bột xương,
vỏ cua, ốc, bột khoáng): có vai trò quan trọng trong
cấu tạo xương và các bộ phận khác của cơ thể.
Thức ăn được phối trộn dựa trên nhu cầu của
vật nuôi sao cho khẩu phần ăn phải đáp ứng đầy
đủ nhu cầu dinh dưỡng theo từng lứa tuổi của vật
nuôi. Về mặt hiệu quả kinh tế, khẩu phần ăn vừa
phải đảm bảo đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng vừa phải
có giá thành không quá cao để ảnh hưởng đến hiệu
quả chăn nuôi. Vì vậy, việc sử dụng kết hợp các phụ
phẩm nông - công nghiệp trong chế biến thức ăn
lên men sẽ giúp tận dụng được nguồn nguyên liệu
sẵn có, rẻ tiền tại địa phương và làm giảm chi phí
thức ăn.
Các loại phụ phẩm sử dụng phổ biến trong chăn
nuôi như: cám gạo, khoai, bã bia, bã đậu Đối với
các nguyên liệu nhiều nước và hàm lượng đường
tan thấp như rau muống, dọc khoai, cỏ voi thì cần
được cắt hoặc nghiền nhỏ, bổ sung thêm các nguyên
liệu giàu tinh bột như bột ngô, cám gạo, bột sắn để
giảm hàm lượng nước trong nguyên liệu và giúp quá
lên men tốt hơn. Với các loại củ như khoai, bí đỏ
cần phải nấu chín, bóp nhuyễn sau đó trộn với các
nguyên liệu khác trong khẩu phần.
2.2. Quy trình lên men
Qui trình lên men thức ăn dạng lỏng theo hai
phương thức: lên men đối với nguyên liệu phối trộn
hoàn chỉnh và lên men riêng đối với nguyên liệu
giàu tinh bột hoặc thức ăn thô xanh được tóm tắt ở
hình 1 và hình 2.
Thức ăn lên men lỏng có thể được chế biến từ hai
nguồn nguyên liệu: (1) Thức ăn hỗn hợp được phối
trộn hoàn chỉnh sau đó cho lên men; (2) Lên men
riêng nguyên liệu thức ăn tinh bột và thức ăn thô:
Các nguyên liệu thức ăn tinh bột sẽ được lên men
trước sau đó đem phối trộn với các nguyên liệu khác
như protein, khoáng, vitamin sao cho đáp ứng đầy
đủ nhu cầu của vật nuôi.
125
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Hình 1. Sơ đồ chế biến thức ăn lên men lỏng cho các khẩu phần hỗn hợp hoàn chỉnh
Hình 2. Sơ đồ chế biến thức ăn lên men lỏng cho các nguyên liệu thức ăn tinh và thức ăn thô
2.2.1. Phối trộn nguyên liệu thức ăn trước khi
lên men
Bước phối trộn này chỉ áp dụng cho quy trình lên
men ở hình 1. Nguyên liệu thức ăn phải được kiểm
tra trước khi phối trộn, cần phải đảm bảo không
mốc, mọt hoặc hư hỏng. Các nguyên liệu lên men
phải bao gồm đầy đủ các nhóm dinh dưỡng đã nêu
trên. Tùy thuộc vào số lượng vật nuôi để tính toán
lượng thức ăn cho phù hợp.
Tỷ lệ phối trộn giữa các nguyên liệu truyền thống
(bột ngô, cám gạo) với các phụ phẩm nông nghiệp
khác thường dao động từ 1,0 : 1,5 đến 1,0 : 4,0
(Missotten et al., 2010). Một số công thức phối trộn
thức ăn tham khảo (Bảng 1).
Đối với thức ăn thô xanh và các phụ phẩm giàu
xơ như rau muống, bèo tây, dọc khoai, cỏ voi
khả năng tiêu hóa hấp thu ở lợn kém do lợn không
có enzyme phân giải các chất xơ. Một số chất xơ
hòa tan có thể được phân giải một phần ở ruột già
nhờ hệ vi sinh vật tại đây. Vì vậy, để nâng cao giá
trị dinh dưỡng của các loại thức ăn xanh sẵn có và
rẻ tiền tại địa phương, một trong những giải pháp
hiệu quả là lên men chúng với chế phẩm vi sinh
được chọn lọc. Trần Hiệp và Nguyễn Thị Tuyết Lê
(2019) đã khuyến cáo một số công thức lên men
lỏng với thức ăn xanh được sử dụng trong chăn
nuôi lợn thịt (Bảng 2).
126
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 1. Khẩu phần ăn cho lợn thịt từ 20 - 55 kg
và từ 55 kg đến xuất chuồng
TT Nội dung
Lợn choai
giai đoạn
20 - 55 kg
Lợn vỗ béo
từ 55 kg -
xuất chuồng
I Nguyên liệu (%)
1 Ngô 48,12 54,02
2 Khô dầu đậu tương 16,21 11,84
3 Cám gạo 27,61 27,05
4 Bột cá (60% protein) 5,0 0,0
5 Bột thịt xương 0,0 5,0
6 Premix vitamin-khoáng 0,25 0,25
7 L-lysine 0,3 0,37
8 DL-methionine 0,09 0,10
9 L-Thronine 0,12 0,15
10 L-tryptophan 0,02 0,04
11 Muối ăn 0,35 0,35
12 Bột đá 0,88 0,51
13 DCP (17% P) 1,05 0,32
II Thành phần dinh dưỡng
1 Vật chất khô (%) 87,38 87,29
2 Năng lượng trao đổi (ME, Kcal/kg) 3050 3050
3 Protein thô (%) 17,0 15,0
4 Xơ thô (%) 4,85 4,76
5 Ca (%) 0,90 0,85
6 P dễ hấp thu (%) 0,45 0,40
Nguồn: Lê Văn Huyên (2017).
Bảng 2. Khẩu phần cơ sở cho lợn thịt lai
F1 Yorkshire ˟ MC có sử dụng thức ăn xanh lên men
Nguyên liệu Công thức 1
Công
thức 2
Công
thức 3
Khẩu phần cơ sở:
Ngô (kg) 14 14 14
Cám gạo (kg) 11 11 11
Khô đỗ tương (kg) 11 11 11
Bột cá (kg) 1,0 1,0 1,0
NaCl (kg) 0,2 0,2 0,2
Premix (kg) 0,2 - -
Mức thay thế thức ăn xanh
lên men (%, tính theo CK) - 40 40
Hỗn hợp thức ăn xanh 1:
Cỏ voi/ cây ngô: 1 - 1 (%) - 25 50
Hỗn hợp thức ăn xanh 2:
Rau muống/dọc khoai/bèo
tây: 2 - 2 - 1 (%)
- 75 50
Thức ăn xanh được cắt ngắn hoặc nghiền nhỏ,
trộn đều với các nguyên liệu ở khẩu phần cơ sở sau
đó được bổ sung nước và lên men với chế phẩm vi
sinh gồm nấm men, vi khuẩn lactic Bacillus subtilis.
Đối với phương pháp lên men riêng các nguyên
liệu thức ăn tinh hoặc thức ăn thô thì bỏ qua bước
phối trộn nguyên liệu trước khi lên men.
2.2.2. Lên men
Sau khi thức ăn được phối trộn hoàn chỉnh sẽ
được cho vào thùng hoặc bể sạch có nắp đậy và được
bổ sung nước theo tỷ lệ 1 kg thức ăn với 2 - 2,5 kg
nước. Quá trình lên men sẽ được diễn ra theo hai
cách là lên men tự nhiên (lên men lactic) hoặc sử
dụng giống khởi động (vi khuẩn lactic và nấm men).
- Đối với phương pháp lên men tự nhiên: Thức ăn
sau khi hòa với nước, khuấy đều, đậy nắp thùng/bể
chứa để lên men ở nhiệt độ 25 - 30oC/48 - 72 giờ vào
mùa hè và 2 - 5 ngày vào mùa đông.
- Đối với phương pháp lên men sử dụng giống
khởi động: Thức ăn sau khi được phối trộn sẽ được
bổ sung chế phẩm vi sinh gồm vi khuẩn lactic và nấm
men (hoặc có thể sử dụng riêng hoặc phối hợp các
chủng vi sinh vật như vi khuẩn lactic hoặc nấm men
hoặc Bacillus subtilis). Liều bổ sung chế phẩm tùy
thuộc theo hướng dẫn của nhà sản xuất tuy nhiên
phải đảm bảo mật độ tế bào trong hỗn hợp nguyên
liệu lên men đạt tối thiểu từ 1x106 cfu/ml. Thức ăn
được lên men ở nhiệt độ 25 - 30oC trong 24 - 48 giờ
tính từ thời điểm lên men vào mùa hè và 48 - 72
giờ vào mùa đông. Sử dụng giống khởi động sẽ giúp
quá trình hình thành axit lactic diễn ra nhanh, hàm
lượng đạt cao nhất trong thời gian ngắn từ đó rút
ngắn thời gian và đảm bảo chất lượng lên men.
- Ảnh hưởng của số lượng, chủng loại và mật
độ vi sinh vật đối với quá trình thức ăn lên men: Số
lượng vi khuẩn lactic trong tự nhiên hoặc được bổ
sung dưới dạng giống khởi động quyết định tốc độ
lên men và sản lượng axit lactic hình thành trong
quá trình lên men. Quá trình lên men diễn ra càng
nhanh, lượng axit lactic hình thành càng lớn làm
giảm nhanh chóng giá trị pH trong thức ăn, từ đó ức
chế các vi khuẩn gây bệnh đường ruột như Salmonella
và E. coli. Olstorpe và cộng tác viên (2008) đã chứng
minh rằng, Lactobacillus plantarum và Pediococcus
pentosaceus là hai loài vi khuẩn lactic có số lượng
lớn nhất trong thức ăn lên men lỏng. Trong đó,
Pediococcus pentosaceus chiếm đa số ở giai đoạn đầu
trong quá trình lên men tự nhiên. Sau 3 ngày lên
men, số lượng Pediococcus pentosaceus giảm dần
và số lượng Lactobacillus plantarum tăng lên chiếm
127
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
đa số trong quần thể. Bên cạnh các vi khuẩn latic,
các loài nấm men như Pichia galeiformis, Pichia
membranifaciens và Pichia anomala cũng có mặt
trong thức ăn lên men lỏng sử dụng bỗng rượu, bã
bia hoặc dịch whey. Gori và cộng tác viên (2011)
cho biết, hai loài Candida milleri và Kazachstania
bulderi chiếm 58,4 và 17,5% tổng số nấm men có
mặt trong các mẫu thức ăn lên men lỏng thu từ
40 trang trại chăn nuôi lợn tại Đan Mạch. Nấm men
có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực đến chất lượng
lên men thức ăn. Các tế bào nấm men có thể hấp phụ
các vi khuẩn gây bệnh đường ruột lên trên bề mặt tế
bào của chúng từ đó ngăn không cho các vi khuẩn
gây bệnh này bám dính lên tế bào niêm mạc ruột
(Mul and Perry, 1994). Tuy nhiên, sự có mặt với số
lượng lớn nấm men sẽ sản sinh nhiều các sản phẩm
như rượu, axit axetic có thể ảnh hưởng đến mùi vị
của thức làm thức ăn kém ngon miệng.
- Hệ thống lên men tự động:
Đối với các trang trại lớn, quá trình lên men sẽ
diễn ra trong các bình lên men liên tục có điều khiển
tự động (fermenter tanks). Hệ thống lên men tự
động này sử dụng các bình lên men được làm bằng
thép không gỉ, có các thiết bị kiểm soát nhiệt độ,
nồng độ oxy hòa tan, khuấy do đó thức ăn lên men
được kiểm soát chặt chẽ về tạp nhiễm cũng như chất
lượng lên men. Sau thời gian lên men, thức ăn được
bơm theo đường ống trực tiếp vào tận chuồng nuôi
(Hình 3a). Hệ thống được thiết kế dễ dàng vệ sinh,
các bồn lên men và đường ống được rửa, súc định
kỳ bằng nước sạch, ozone và các axit không độc hại
như axit lactic để khử trùng bể chứa, ngăn các mảng
bám (bio-film), chất béo tích tụ trong đường ống
cũng như ức chế sự sinh trưởng của các vi sinh vật
gây bệnh.
Hình 3a. Lên men lỏng bằng hệ thống
lên men tự động ở quy mô trang trại
(Nguồn: Tewe Electronic®,2019)
Hình 3b. Lên men lỏng ở qui mô nông hộ
(Nguồn: Ảnh của tác giả)
128
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Trong quá trình lên men, các vitamin và các
axit amin được thêm vào trong khẩu phần sẽ được
vi sinh vật trong đường ruột sử dụng hoặc mất đi
trong quá trình bảo quản, gây nên tổn thất về mặt
chất lượng dinh dưỡng (Canibe and Jenssen, 2003).
Tuy nhiên, nếu sử dụng phương pháp lên men riêng
các nguyên liệu thức ăn tinh và thô thì việc mất các
chất dinh dưỡng thiết yếu sẽ không xảy ra. Khi lên
men khẩu phần hỗn hợp hoàn chỉnh có sử dụng
protein động vật như bột cá (theo sơ đồ hình 1),
trong quá trình lên men bột cá sẽ bị phân hủy bởi vi
sinh vật tạo thành các sản phẩm không mong muốn
như NH3, H2S làm cho thức ăn có mùi khó chịu.
Chính vì các lý do trên, phương pháp lên men riêng
các nguyên liệu thức ăn tinh và thức ăn thô sau đó
sẽ phối trộn với các nhóm nguyên liệu khác sao cho
đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi (sơ đồ
hình 2) được nhiều nhà khoa học, nhà chăn nuôi
ủng hộ và lựa chọn.
2.2.3. Đánh giá chất lượng và cho ăn
Thức ăn lên men được đánh giá dựa vào các tiêu
chí: đánh giá cảm quan và lấy mẫu phân tích trong
phòng thí nghiệm.
- Đánh giá chất lượng thức ăn cảm quan: Chủ
yếu dựa vào sự quan sát màu sắc, mùi, trạng thái
dịch men và đo độ pH của thức ăn lên men. Thức
ăn lên men đạt chất lượng tốt sẽ có mùi thơm, chua
dễ chịu không gắt, không nồng, không có mùi khó
chịu. Dung dịch và thức ăn lên men không bị nhớt,
dính thường có màu từ vàng nhạt đến vàng nâu sậm
tùy theo nguyên liệu thức ăn. Độ pH dao động từ
4,2 - 5,0 tùy thuộc vào nguyên liệu thức ăn lên men
và giống vi sinh vật sử dụng.
- Đánh giá qua kết quả phân tích mẫu: Bên cạnh
đánh giá cảm quan, thức ăn lên men cần được định kỳ
lấy mẫu, gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích một
số chỉ tiêu cơ bản như % vật chất khô, protein thô, xơ
thô, khoáng tổng số, hàm lượng axit hữu cơ tổng số
và một số chỉ tiêu vi sinh vật như Salmonella, E. coli
Thức ăn lên men lỏng đạt chất lượng tốt thì pH của
thức ăn cần < 4,5 và số lượng vi khuẩn lactic tương
ứng >109 cfu/ml; Lượng axit lactic >150 mmol/L;
Axit axetic và rượu < 40 và 0,8 mmol/L (Van Winsen
et al., 2001). Beal và cộng tác viên (2002) cho biết,
để có thể ức chế vi khuẩn Salmonella thì lượng axit
lactic trong thức ăn lên men cần phải đạt tối thiểu
75 mmol/L. Mặc dù Van Winsen và cộng tác viên
(2001) cho rằng hàm lượng axit axetic cần phải dưới
mức 40 mmol/L. Tuy nhiên, các tác giả khác cho
biết, hàm lượng axit axetic trong thức ăn lên men
> 30 mmol/L cũng không ảnh hưởng tới tính ngon
miệng của thức ăn (Canibe et al., 2010) cho biết, lợn
con được cho ăn thức ăn lên men lỏng có hàm lượng
axit axetic cao lên đến 120 mmol/L cũng không có
ảnh hưởng tới tăng trưởng.
Kết quả phân tích sẽ được sử dụng để kiểm soát
chất lượng lên men và tính toán xây dựng khẩu phần
ăn cho vật nuôi.
2.2.4. Phối trộn thức ăn sau lên men
Bước này chỉ áp dụng cho phương pháp lên men
riêng các nguyên liệu thức ăn giàu tinh bột ở sơ đồ
hình 2. Nếu chỉ sử dụng thức ăn giàu tinh bột lên
men (bột ngô, cám gạo, gạo tấm, bột sắn...) cho lợn
thì khẩu phần ăn này sẽ không đảm bảo nhu cầu dinh
dưỡng cho vật nuôi. Vì vậy, các nguyên liệu giàu tinh
bột sau khi được lên men sẽ được trộn đều với các
nguyên liệu giàu đạm, vitamin và muối khoáng để
đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng theo từng giai đoạn
của lợn. Nguồn thức ăn giàu đạm, khoáng có thể sử
dụng bột cá, bột đậu tương, khô dầu đậu tương, khô
dầu lạc, bột vỏ sò muối ăn hay premix.
Thức ăn lên men lỏng có thể được sử dụng cho
các đối tượng lợn nái, lợn con sau cai sữa và lợn thịt.
Đối với lợn con sau cai sữa cần phải tập cho lợn con
làm quen với thức ăn lên men trước khi cho ăn hoàn
toàn để tránh sự thay đổi đột ngột từ cám tập ăn
(thức ăn dạng rắn) sang thức ăn lỏng.
III. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THỨC ĂN LÊN MEN LỎNG
TRONG CHĂN NUÔI LỢN
3.1. Cải thiện hệ vi sinh vật đường ruột giúp cân
bằng hệ sinh thái đường ruột, giảm tỷ lệ mắc
tiêu chảy
Thức ăn lên men lỏng có tác động tích cực đến
hệ sinh thái đường ruột của lợn, giúp duy trì sự cân
bằng ổn định của hệ vi sinh vật đường ruột, giảm pH
đường ruột từ đó giúp nâng cao sức khỏe và phòng
chống bệnh tiêu chảy ở vật nuôi đặc biệt là ở lợn
con. Khi sử dụng thức ăn lên men, hệ vi sinh vật
được tăng cường một số lượng lớn các vi khuẩn có
lợi như vi khuẩn lactic ở dạ dày và ruột non (Canibe
and Jensen, 2003). Moran và cộng tác viên (2006)
cho biết, tỷ lệ giữa nhóm vi khuẩn lactic và coliform
đã nghiêng về phía vi khuẩn lactic ở nhóm lợn con
cai sữa sử dụng thức ăn lên men lỏng. Trong khi
đó nhóm sử dụng thức ăn không lên men có tỷ lệ
coliform cao hơn so với vi khuẩn lactic. Ngoài nhóm
vi khuẩn lactic, số lượng nấm men ở dạ dày, ruột
non và manh tràng ở nhóm lợn sử dụng thức ăn lên
men cũng cao hơn so với nhóm không sử dụng. Nấm
men cũng có khả năng hấp phụ các vi khuẩn thuộc
họ vi khuẩn đường ruột enterobacteria lên bề mặt
vì vậy có thể ngăn cản các vi khuẩn đường này bám
129
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
dính lên lớp niêm mạc ruột (Mul and Perry, 1994).
Sự tăng số lượng tế bào vi khuẩn lactic và nấm men
trong hệ vi sinh vật đường ruột được cho là có tác
động tích cực đến việc ngăn cản, ức chế các vi khuẩn
gây bệnh như Salmonella và E. coli, dẫn đến giảm tỷ
lệ mắc tiêu chảy ở lợn.
Sử dụng thức ăn lên men lỏng giúp làm giảm
pH đường ruột ở lợn. Giá trị pH giảm rõ rệt ở dạ
dày, đoạn không tràng và hồi tràng. Đặc biệt, ở dạ
dày của lợn khi sử dụng thức ăn lên men dạng lỏng
thì giá trị pH giảm rất nhanh xuống mức 4 so với
mức 4,4 ở nhóm lợn sử dụng thức ăn không lên men
(Canibe and Jensen, 2003). Mức pH thấp ở dạ dày
như một lớp barrier phòng vệ chống lại các vi khuẩn
gây bệnh đường ruột đặc biệt ở gia súc non, lợn con
mới cai sữa khi dạ dày chưa hình thành đủ lượng
axit dạ dày. Radecki và cộng tác viên (1988) cho biết,
mức pH thấp ở dạ dày giúp tăng cường hoạt động
phân giải protein ở dạ dày đó là một trong những lý
do giúp cải thiện tốc độ sinh trưởng ở lợn. Lợn sử
dụng thức ăn lên men thường có khối lượng tích lũy
cao hơn nhóm không sử dụng thức ăn lên men.
Đối với lợn nái nuôi con, sử dụng thức ăn lên
men có ảnh hưởng tích cực tới hệ vi khuẩn đường
ruột của lợn con. Ở lợn con sơ sinh hệ vi khuẩn
đường ruột chưa phát triển. Sau một vài ngày, hệ
vi khuẩn đường ruột ở lợn con bắt đầu được hình
thành thông qua tiếp xúc với lợn mẹ và môi trường
xung quanh. Vì vậy, sử dụng thức ăn lên men cho
lợn nái trong giai đoạn nuôi con sẽ giúp cải thiện hệ
vi khuẩn đường ruột ở lợn con. Các nghiên cứu cho
thấy, lợn con ỏ nhóm lợn nái sử dụng thức ăn lên
men lỏng có số lượng coliform thấp hơn và số lượng
vi khuẩn lactic cao hơn so với nhóm không sử dụng
thức ăn lên men (Demečkova et al., 2002).
3.2. Tăng cường tiêu hóa, hấp thu, cải thiện
hiệu quả sử dụng thức ăn và tăng khả năng tăng
khối lượng
Thức ăn lên men thường có mùi vị thơm ngon,
kích thích tính ngon miệng của vật nuôi. Scholten
và cộng tác viên (2002) đã cho biết, lợn sử dụng
thức ăn lên men lỏng có độ dài lông nhung và tỷ
lệ độ dài lông nhung/độ rộng của khe Lieberkuhn
(villus/crypt ratio) cao hơn so với nhóm không sử
dụng thức ăn lên men. Thức ăn lên men đã có tác
động tích cực đến sự phát triển của lớp lông nhung
niêm mạc ruột non của lợn, giúp tăng khả năng
tiêu hóa, hấp thu chất dinh dưỡng. Tác giả Hong và
Lindberg (2007) cho biết, khẩu phần ăn được lên
men ở 30 - 35 oC/72 giờ sẽ tăng cường khả năng tiêu
hóa protein thô, xơ thô và xơ trung tính (NDF) ở hồi
tràng ở lợn thịt. Theo các tác giả, một trong những
lý do khả năng tiêu hóa protein thô của lợn được cải
thiện là do sự giảm giá trị pH ở dạ dày và ruột non
đoạn không tràng và hồi tràng. pH dạ dày thấp kích
thích hoạt động phân giải protein ở dạ dày và làm
giảm thời gian thức ăn lưu lại tại dạ dày, giúp tăng
thời gian tiêu hóa thức ăn ở dạ dày. Bên cạnh đó,
quá trình lên men thức ăn đã hoạt hóa enzyme nội
sinh phytase, giúp tăng cường quá trình huy động
phosphor từ phytate. Đó là lý do giải thích quá trình
tiêu hóa phosphor ở hồi tràng của nhóm lợn ăn thức
ăn lên men lỏng cao hơn so với nhóm ăn thức ăn
hỗn hợp hoàn chỉnh (Lyberg et al., 2006).
Thức ăn lên men lỏng còn giúp giảm hàm lượng các
chất kháng tiêu hóa trong thức ăn, giúp tăng tiêu hóa,
hấp thu ở lợn. Một số nghiên cứu cho thấy, lên men
các loại đậu hạt (soybean, cowpea, groundbean)
trong 96 giờ sẽ làm giảm đáng kể hàm lượng các
chất kháng tiêu hóa như α-galactosidtes, phytate,
trypsin inhibitor, tannins and saponins (Shimelis and
Rakshit, 2008; Egounlety and Aworh, 2003).
Các nghiên cứu đã cho thấy, sử dụng thức ăn lên
men lỏng trong khẩu phần của lợn đã giúp cải thiện
khả năng tăng khối lượng lên 22% so với sử dụng
thức ăn khô và 13% so với sử dụng thức ăn không
lên men (Bảng 3).
Bảng 3. So sánh kết quả tăng khối lượng và thức ăn thu nhận
ở lợn sử dụng thức ăn lên men lỏng với các dạng thức ăn khô và thức ăn không lên men
Nguồn thức ăn Số lần TN
Tăng khối lượng
(%)
Tăng lượng thức ăn
tiêu thụ (%)
TB Khoảng dao động TB Khoảng dao động
Thức ăn lỏng so với thức ăn khô 10 12 -8 đến 34 -4 -33 đến 10
Thức ăn lên men lỏng so với thức ăn khô 4 22 9 đến 44 -11 -44 đến 6
Thức ăn lên men lỏng so với thức ăn lỏng
không lên men 3 13 6 - 23 - 1 -5 đến 1
Nguồn: Jensen and Mikkelsen (1998).
130
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
3.3. Một số hạn chế của thức ăn lên men lỏng
Phương pháp lên men hỗn hợp thức ăn được
phối trộn hoàn chỉnh là phương pháp đơn giản,
thuận tiện và không tốn thời gian, nhân công cho
các trang trại nhỏ và chăn nuôi nông hộ. Tuy nhiên
phương pháp này cũng có một số hạn chế như: Hàm
lượng axit trong thức ăn lên men lỏng quá cao, giá trị
pH thấp < 4,5 có thể liên quan đến một số bệnh như
hội chứng dạ dày xuất huyết, viêm dạ dày ruột hay
loét dạ dày (Brooks, 2008; Missotten et al., 2010).
Bên cạnh đó, lợn ăn thức ăn lỏng, hàm lượng nước
cao nên sẽ thải ra lượng phân lớn hơn so với ăn thức
ăn khô, làm tăng độ ẩm của chuồng nuôi, ảnh hưởng
đến vệ sinh chuồng trại.
Sử dụng phương pháp lên men lỏng trong chế
biến thức ăn cho lợn ở quy mô nhỏ như chăn nuôi
nông hộ cũng còn một số tồn tại về thời gian sử dụng
thức ăn lên men ngắn. Thức ăn lên men lỏng thường
không bảo quản được và sử dụng trong thời gian dài.
Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam, vào mùa hè thời
tiết nắng nóng, thức ăn lên men lỏng nhanh chua, dễ
tạp nhiễm và nhanh bị hư hỏng. Chất lượng thức ăn
cũng khó kiểm soát, vấn đề vệ sinh máng ăn trước
và sau khi ăn cũng gặp khó khăn dễ dẫn đến nguy
cơ gây bệnh đường tiêu hóa cho vật nuôi nếu không
kiểm soát tốt vấn đề nhiễm khuẩn. Đối với quy mô
chăn nuôi lớn có sử dụng hệ thống lên men tự động
thì các vấn đề kiểm soát về chất lượng lên men, tạp
nhiễm được đảm bảo. Tuy nhiên do chi phí của hệ
thống lên men này cao nên đây cũng là thách thức
đối với nhiều trang trại chăn nuôi.
IV. KẾT LUẬN
Lên men thức ăn lỏng là một phương pháp đơn
giản, dễ thực hiện, có thể tận dụng nguồn phụ phẩm
công nông nghiệp rẻ tiền và sử dụng cho cả đối tượng
lợn nái, lợn con và lợn vỗ béo. Hiệu quả tích cực của
thức ăn lên men lỏng mang lại đối với chăn nuôi lợn
rõ rệt nhất là giảm tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn, tăng khả
năng tiêu hóa hấp thu, tăng khối lượng cơ thể, giảm
chi phí thức ăn. Bên cạnh đó, việc sử dụng thức ăn
lên men lỏng cũng giúp giảm sử dụng kháng sinh
trong chăn nuôi với mục đích phòng bệnh và kích
thích sinh trưởng. Tuy nhiên, thức ăn lên men lỏng
đôi khi cũng gây nên một số bệnh như hội chứng
dạ dày xuất huyết, viêm dạ dày ruột hay loét dạ dày.
Bên cạnh đó, quá trình lên men có thể làm thất thoát
các chất dinh dưỡng thiết yếu như các axit amin. Vì
vậy, nên sử dụng phương pháp lên men lỏng đối với
thành phần nguyên liệu thức ăn như tinh bột, thức
ăn thô mà không nên lên men đối với khẩu phần
hỗn hợp hoàn chỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Hiệp và Nguyễn Thị Tuyết Lê, 2019. Sử dụng thức
ăn xanh lên men lỏng trong chăn nuôi lợn thịt. Tạp
chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 16 (5): 439-447.
Lê Văn Huyên, 2017. Nghiên cứu sử dụng có hiệu quả
thóc và gạo lật làm thức ăn cho lợn. Luận án tiến
sỹ. Bộ Nông nghiệp và PTNT. Viện Chăn nuôi,
tr. 145-146.
Quốc hội Việt Nam, 2018. Luật Chăn nuôi, ngày truy
cập 1/4/2020. Địa chỉ:
vn/download/LUAT/Luat-so-32-2018-QH14-Luat-
Chan-nuoi/.
Beal J.D., Niven S.J., Campbell A., Brooks P.H.,
2002. The effect of temperature on the growth and
persistence ofSalmonellain fermented liquid pig
feed. Int. J. Food Microbiol., 79: 99-104.
Brooks PH., 2008. Fermented liquid feed for pigs. CAB
Rev., 73 (3):18.
Canibe N and Jensen BB., 2003. Fermented and non-
fermented liquid feed to growing pigs: effect on
aspects of gastrointestinal ecology and growth
performance. J. Anim. Sci., 81: 2019-2031.
Canibe N, Pedersen AØ, Jensen BB., 2010. Impact of
acetic acid concentration of fermented liquid feed
on growth performance of piglets. J. Livest Sci., 133:
117-119.
Demečková V, Kelly D, Coutts AGP, Brooks PH,
Campbell A., 2002. The effect of fermented liquid
feeding on the faecal microbiology and colostrum
quality of farrowing sows. Int. J. Food Microbiol., 79:
85-97.
Egounlety M and Aworh OC., 2003. Effect of soaking,
dehulling, cooking and fermentation with Rhizopus
ligosporus on the oligosaccharides, trypsin inhibitor,
phytic acid and tannins of soybean (Glycine max
Merr.), cowpea (Vigna unguiculata L. Walp) and
groundbean (Macrotyloma geocarpa Harms). J. Food
Eng., 56: 249-254.
Gori K, Bjørklund MK, Canibe N, Pedersen AØ,
Jespersen L., 2011. Occurrence and identification
of yeast species in fermented liquid feed for piglets.
Microb. Ecol., 61 (1): 146-153.
Hong TTT, Lindberg JE., 2007. Effect of cooking and
fermentation of a pig diet on gut environment and
digestibility in growing pigs. Livest Sci., 109: 135-137.
Jensen BB, Mikkelsen LL., 1998. Feeding liquid diets to
pigs. In: Garnsworthy PC, Wiseman J, editors. Recent
Advances in Animal Nutrition. Nottingham, UK:
Nottingham University Press; 1998. pp. 107-126.
Lyberg K, Lundh T, Pedersen C, Lindberg JE., 2006.
Influence of soaking, fermentation and phytase
131
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
supplementation on nutrient digestibility in pigs
offered a grower diet based on wheat and barley.
J. Anim Sci., 82: 853-858.
Missotten JAM, Michiels J, Ovyn A, De Smet S,
Dierick NA., 2010. Fermented liquid feed for pigs.
J. Arch Anim Nutr., 64 (6): 437-466.
Moran CA, Scholten RHJ, Tricarico JM, Brooks PH,
Verstegen MWA., 2006. Fermentation of wheat:
effects of back slopping different proportions of
pre-fermented wheat on the microbial and chemical
composition. J. Arch Anim Nutr., 60: 158-169.
Mul AJ, Perry FG., 1994. The role of fructo-oligosaccharides
in animal nutrition. In: Garnsworthy PC, Cole DJA,
editors. Recent Advances in Animal Nutrition.
Nottingham, UK: Nottingham University Press.
p. 54-79.
Olstorpe M, Lyberg K, Lindberg JE, Schnürer J,
Passoth V., 2008. Population diversity of yeasts and
lactic acid bacteria in pig feed fermented with whey,
wet wheat distillers’ grains, or water at different
temperatures. Appl Environ Microbiol., 74 (6):
1696-1703.
Radecki SV, Juhl MR, Miller ER., 1988. Fumaric and
citric acids as fed additives in starter pig diets: effect
on performance and nutrition balance. J. Anim. Sci.,
66: 2598-2605.
Scholten RHJ, van der Peet-Schwering CMC, den
Hartog LA, Balk M, Schrama JW, Verstegen WMA,
2002. Fermented wheat in liquid diets: effects on
gastrointestinal characteristics in weanling piglets.
J Anim Sci., 80: 1179-1186.
Shimelis EA, Rakshit SK., 2008. Influence of natural
and controlled fermentations on alpha-galactosides,
anti-nutrients and protein digestibility of beans
(Phaseolus vulgaris L.). Int. J. Food Sci. Technol.,
43: 658-665.
Tewe Electronic®, 2019. Liquid feeding, access on 1st
April 2020. Available from: https://www.tewe.com/
en/products/feeding-systems/liquid-feeding.
Van Winsen RL, Urlings BAP, Lipman LJA, Snijders
JMA, Keuzenkamp D, Verheijden JHM, 2001. Effect
of fermented feed on the microbial population of
the gastrointestinal tracts of pigs. Appl Environ
Microbiol, 67: 3071-3076.
Production of fermented liquid feed for pig raising
Nguyen Thi Tuyet Le, Bui Quang Tuan
Abstract
Fermented liquid feed (FLF) can be used for sows, weaned piglets of fatterning pigs in both small-scale housholders
and commercial farms. This review provides an overview of processing and using FLF in pig raising. The advantages
and limitations of using FLF for pigs were also reviewed. The quality of FLF depended on amounts of lactic acid
produced by spontaneous fermentation or by inoculating the feed with a culture lactic acid bacteria (fermentation
stater). The spontaneous fermentation resulted in higher concentrations of both acetic acid and biogenic amines
which adversely affected the palatability of fermented liquid feed diets. By using fermentation stater, the high
concentration of lactic acid could produced rapidly to reduce feed pH, leading to a decrease intestinal pH and
consequently preventing the growth of pathogenic bacteria such as E. coli and Salmonella. Feeding FLF could also
improve pig production performance such as feed conversion ratio and weight gain. By using this feeding method,
the pig producers could reduce the feed cost due to the use of cheap agro-industrial by-products.
Keywords: Fermented liquid feed, processing and application, pig raising
Ngày nhận bài: 13/4/2020
Ngày phản biện: 8/5/2020
Người phản biện: TS. Nguyễn Thành Trung
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
che_bien_va_su_dung_thuc_an_len_men_long_trong_chan_nuoi_lon.pdf