Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam và những kiến nghị

Thứ ba, chứng chỉ hành nghề Cần rà soát lại những ngành, nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật cần có chứng chỉ hành nghề của giám đốc và cá nhân khác, loại bỏ những quy định không có lợi cho người thành lập doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người thành lập doanh nghiệp thực hiện hoạt động đăng kí doanh nghiệp. Cần xây dựng quy chế pháp lí kiểm tra, giám sát chứng chỉ hành nghề của giám đốc và cá nhân khác sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh bởi vì trên thực tế, tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, người lao động trong doanh nghiệp có đủ chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật nhưng sau đó họ xin nghỉ việc, doanh nghiệp buộc phải tuyển dụng người lao động mới. Nếu không có sự quy định chặt chẽ của pháp luật, sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lí nhà nước rất dễ xảy ra hiện tượng người lao động mới trong doanh nghiệp không đáp ứng yêu cầu về chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật nhưng vẫn ngang nhiên hành nghề. Tóm lại, trước khi thực hiện thủ tục đăng kí doanh nghiệp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người thành lập doanh nghiệp cần chuẩn bị các điều kiện cơ bản theo quy định của pháp luật như: Tư cách pháp lí của chủ thể thành lập và quản lí doanh nghiệp; Ngành nghề kinh doanh; tài sản; hồ sơ đăng kí doanh nghiệp.v.v. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí ki doanh, người thành lập doanh nghiệp cần thực hiện các thủ tục sau đăng kí doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lí điều chỉnh hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào quá trình thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay một số quy định pháp luật về thành lập doanh nghiệp đã bộc lộ những hạn chế nhất định gây khó khăn cho các chủ thể khi áp dụng chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp vào thực tiễn. Để hoàn thiện chế định pháp luật về thành lập doanh nghiệp, Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung, một số quy định về tên doanh nghiệp; chứng chỉ hành nghề; vốn pháp định.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam và những kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 19 - Thaùng 2/2014 90 CHẾ ĐỊNH HÁ LUẬT THÀNH LẬ DOANH NGHIỆ Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NGUYỄN THỊ DIỄM ANH(*) TÓM TẮT Chế định thành lập doanh nghiệp là một trong những chế định pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và Luật Doanh nghiệp nói riêng. Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được trong việc tạo hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động thành lập doanh nghiệp, chế định này đã sớm bộc lộ những hạn chế nhất định. Bài viết của tác giả tập trung phân tích một số nội dung pháp lý cơ bản về thành lập doanh nghiệp, trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định pháp lý về thành lập doanh nghiệp. Từ khóa: Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp; kiến nghị hoàn thiện chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp; thành lập doanh nghiệp. ABSTRACT The legal institution for the establishment of enterprises is one of the important legal institutions in the Vietnamese law system in general and the enterprise law in particular. Besides the advantages obtained in the creation of the legal framework which adjusts the operation of the enterprise establishment, this institution soon reveals its limitations. This article focuses on analyzing some of the basic legal contents of the establishment of enterprises, points out the gaps and makes some recommendations to improve the legal system for the establishment of enterprises. Keywords: Legal institutions for the establishment of enterprise; recommendations of improving legal institutions for establishing enterprises; establishing enterprises. Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay được quy định chủ yếu trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 (trong bài viết này gọi tắt là Luật Doanh nghiệp 2005); Nghị định số 102/2010/NĐ-CP; Nghị định số 43/2010/NĐ-CP; Nghị định số 05/2013/NĐ-CP Và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Ngoài việc tạo khung pháp lí cơ bản, nền tảng để điều chỉnh hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp, những quy định cụ thể và tương đối phù hợp trong chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam còn góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước thành lập, phát huy nội lực, khai thác tiềm năng sẵn có và bước đầu tạo môi trường pháp lí thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Bài viết này sẽ phân tích khái quát chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và chỉ ra một số bất cập, hạn chế của nó, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện. 1. CHẾ Đ NH PHÁP LUẬT THÀNH LẬP DOANH NGHI P THEO QUY Đ NH CỦA PHÁP LUẬT VI T NAM HI N HÀNH Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành gồm hai nội dung chủ yếu: Những điều kiện cơ bản để thành lập doanh nghiệp và đăng kí doanh nghiệp. (*) ThS, Trường Đại học Công đoàn. 91 1.1. Những đi u kiện c ản để thành lập doanh nghiệp Trước khi thực hiện thủ tục đăng kí doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, người thành lập doanh nghiệp cần chuẩn bị các điều kiện sau đây: Thứ nhất, tư cách pháp lí của chủ thể thành lập, góp vốn, mua cổ phần và quản lí doanh nghiệp Chủ thể thành lập, góp vốn, mua cổ phần và quản lí doanh nghiệp được quy định tại Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005 và từ điều 12 đến điều 15 Nghị định 102/2010/NĐ-CP. Theo quy định tại khoản 1 điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005, Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này . Khoản 2 điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định những cá nhân, tổ chức không có quyền thành lập và quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam. Thứ hai, ngành nghề kinh doanh Căn cứ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, có thể chia ngành nghề kinh doanh thành những nhóm chủ yếu như sau: Ngành nghề, lĩnh vực bị cấm kinh doanh; Ngành nghề kinh doanh có điều kiện và ngành nghề kinh doanh thuộc những lĩnh vực và địa bàn được khuyến khích, ưu đãi đầu tư. Nhóm thứ nhất, ngành nghề bị cấm kinh doanh. Những ngành nghề thuộc nhóm này được quy định tại khoản 3 điều 7 Luật Doanh nghiệp 2005; Điều 7 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP; Điều 7 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP và Điều 30 Luật Đầu tư 2005. Xét một cách tổng quát, đó là những ngành nghề thuộc các lĩnh vực đầu tư mà hoạt động của Doanh nghiệp có thể gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục dân tộc Việt Nam và sức khỏe của nhân dân, làm hủy hoại tài nguyên, phá hoại môi trường. Nhóm thứ hai, ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Đây là những ngành nghề kinh doanh mà theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp phải đáp ứng được một số yêu cầu nhất định mới được phép kinh doanh. Điều kiện về kinh doanh gồm hai nội dung, đó là: Ngành nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh. Ngành nghề kinh doanh có điều kiện được hiểu là những ngành nghề kinh doanh thuộc các lĩnh vực đầu tư mà theo yêu cầu quản lí, điều tiết nền kinh tế, nhà nước quy định doanh nghiệp cần phải đáp ứng những điều kiện nhất định mới có thể đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh được quy định tại Điều 8 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP và Điều 29 Luật Đầu tư 2005. Nhóm thứ ba, ngành nghề kinh doanh thuộc những lĩnh vực và địa bàn được khuyến khích, ưu đãi đầu tư được quy định tại Điều 27 và Điều 28 Luật Đầu tư năm 2005. Thứ ba, tài sản kinh doanh Chủ thể thành lập doanh nghiệp bắt buộc phải đăng kí tài sản đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp, số tài sản này được ghi thành vốn điều lệ hoặc vốn đầu tư đối với doanh nghiệp tư nhân. Tài sản đưa vào góp vốn kinh doanh phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây: Thứ nhất, tài sản đầu tư vào doanh nghiệp phải là những tài sản được pháp luật công nhận. Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản . Tài sản đầu tư vào doanh nghiệp còn được quy định tại khoản 4 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 và khoản 1 điều 2 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP. 92 Thứ hai, tài sản góp vốn phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền sử dụng hợp pháp của chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp. Đối với những ngành nghề kinh doanh quy định vốn pháp định thì tài sản góp vốn phải bằng hoặc lớn hơn vốn pháp định. Thứ tư, tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp Tên doanh nghiệp là tên gọi chính thức của doanh nghiệp, tên doanh nghiệp được quy định từ Điều 31 đến Điều 34 Luật Doanh nghiệp 2005 và Điều 13 đến Điều 16 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP về đăng kí doanh nghiệp. Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên lạc, giao dịch của doanh nghiệp, phải ở trên lãnh thổ Việt Nam. Trụ sở chính của doanh nghiệp được quy định tại Điều 35 Luật Doanh nghiệp năm 2005. Thứ năm, hồ sơ đăng kí kinh doanh hợp lệ Hồ sơ đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp được quy định từ Điều 16 đến Điều 20 Luật Doanh nghiệp 2005 và từ Điều 19 đến Điều 23 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP. Người thành lập doanh nghiệp phải chuẩn bị hồ sơ đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật. Bên cạnh những điều kiện trên, đối với những loại hình doanh nghiệp pháp luật có quy định số lượng thành viên tối thiểu thì doanh nghiệp phải đáp ứng đủ các điều kiện đó. Doanh nghiệp phải xác định và đăng kí người đại diện theo pháp luật trong quan hệ với các cơ quan nhà nước và quan hệ với doanh nghiệp, khách hàng. Ngoài những điều kiện trên, người thành lập doanh nghiệp phải chuẩn bị lệ phí đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật. 1.2. Đ ng kí doanh nghiệp 1.2.1. Thủ tục đăng kí Căn cứ Điều 15 Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Điều 27 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP, có thể phân thành hai hình thức đăng kí doanh nghiệp đó là: Đăng kí doanh nghiệp trực tiếp (Chủ thể thành lập doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng kí doanh nghiệp tại cơ quan đăng kí kinh doanh cấp tỉnh thành nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính) và đăng kí doanh nghiệp qua mạng điện tử (Chủ thể thành lập doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng kí doanh nghiệp qua cổng thông tin đăng kí doanh nghiệp quốc gia) Thủ tục đăng kí doanh nghiệp trực tiếp được quy định tại Điều 15 Luật Doanh nghiệp 2005. Thủ tục đăng kí kinh doanh qua mạng điện tử được quy định tại Điều 27 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP. 1.2.2. Những thủ tục sau đăng kí doanh nghiệp Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí, doanh nghiệp phải thực hiện các thủ tục sau đây: Công bố sự ra đời theo quy đinh tại Điều 28 Luật Doanh nghiệp 2005; Thông báo thời gian mở cửa tại trụ sở chính với cơ quan đăng kí kinh doanh theo quy định tại khoản 2 điều 35 Luật Doanh nghiệp 2005. 2. M T S BẤT CẬP VỀ CHẾ Đ NH THÀNH LẬP DOANH NGHI P Ở VI T NAM HI N NAY Th nhất, t n doanh nghiệp Nghị định số 43/2010/NĐ-CP quy định: Các doanh nghiệp đã đăng kí tên doanh nghiệp ph hợp với quy định tại Nghị định số 88/2006/NĐ-CP nhưng không ph hợp với quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định này không bắt buộc phải đăng kí đổi tên. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có tên tr ng và tên gây nhầm lẫn tự thương lượng với nhau để đăng kí đổi tên doanh nghiệp hoặc bổ sung tên địa danh để làm yếu tố phân biệt tên doanh nghiệp . Như vậy, hiện tượng các doanh nghiệp trùng tên vẫn đang còn tồn tại trên thực tế. Thực trạng này gây khó khăn cho công tác quản lí nhà nước đối với doanh nghiệp, dễ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và đối tác của các doanh nghiệp. 93 Th hai, vốn pháp định Theo quy định tại khoản 7 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005, vốn pháp định được hiểu là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp . Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vốn pháp định còn có một số bất cập sau đây. Thứ nhất, ngành nghề kinh doanh có quy định vốn pháp định còn được quy định rải rác ở nhiều Nghị định khác nhau, gây khó khăn cho người thành lập doanh nghiệp trong việc tra cứu, cập nhập thông tin về mức vốn pháp định. Bên cạnh đó, một số ngành nghề kinh doanh có quy định vốn pháp định cần được điều chỉnh mức vốn pháp định cho phù hợp với nhu cầu của thực tiễn. Ví dụ, tại khoản 1 điều 3 Nghị định số 153/2007/NĐ-CP quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản phải có vốn pháp định là 6 (sáu) tỷ đồng . Theo tác giả, mức vốn này là quá thấp so với yêu cầu của thực tiễn. Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định còn được quy định khá chung chung trong Luật Doanh nghiệp, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp, Nghị định hướng dẫn đăng kí doanh nghiệp. Thực trạng này, gây khó khăn và lúng túng cho người thành lập doanh nghiệp và cơ quan đăng kí kinh doanh khi áp dụng pháp luật để giải quyết việc đăng kí kinh doanh. Th a, ch ng chỉ hành ngh của cá nh n hoặc một số cá nh n theo quy định đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành ngh mà theo quy định của pháp luật c n phải có ch ng chỉ hành ngh Chứng chỉ hành nghề được hiểu là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc hiệp hội nghề nghiệp được Nhà nước ủy quyền cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về một ngành, nghề nhất định. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định, hồ sơ đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. Khoản 4 điều 19 Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định hồ sơ đăng kí doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân phải có: “Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một hoặc một số cá nhân theo quy định đối với doanh nghiệp tư nhân kinh doanh các ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề . Khoản 5 điều 20 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP quy định hồ sơ đăng kí doanh nghiệp đối với Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên, công ty hợp danh phải có: Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của một hoặc một số cá nhân đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần nếu công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề . Khoản 7 điều 21 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP quy định hồ sơ đăng kí doanh nghiệp đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải có: Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của một hoặc một số cá nhân theo quy định đối với công ty kinh doanh các ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề Các quy định của pháp luật Việt Nam về chứng chỉ hành nghề của cá nhân hoặc một số cá nhân theo quy định đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề mà theo quy định của pháp luật cần phải có chứng chỉ hành nghề còn có những hạn chế sau đây: Thứ nhất, những ngành nghề kinh doanh có quy định chứng chỉ hành nghề của một hoặc một số cá nhân còn được quy định rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Ví dụ: Điều 16 Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải 94 có chứng chỉ hành nghề khi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đấu giá tài sản; Điều 14 Nghị định 79/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược năm 2006 quy định cá nhân giữ chức vụ quản lí trong doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề; Khoản 3 điều 87 Luật Xây dựng năm 2003 quy định cá nhân làm việc tại doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành nghề khi doanh nghiệp kinh doanh những ngành nghề thiết kế xây dựng công trình..v.v. Điều này gây khó khăn cho người thành lập doanh nghiệp trong việc tra cứu văn bản để cập nhập thông tin. Thứ hai, hiện nay việc thay đổi nội dung đăng kí kinh doanh; đăng kí bổ sung, thay đổi ngành nghề kinh doanh đã được quy định khá chi tiết tại Điều 26 Luật Doanh nghiệp 2005 và từ Điều 34 đến Điều 46 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP. Tuy nhiên các quy định về việc đăng kí bổ sung, thay đổi cá nhân, nhóm cá nhân cần có chứng chỉ hành nghề khi doanh nghiệp kinh doanh những ngành nghề mà theo quy định của pháp luật cần phải có chứng chỉ hành nghề lại chưa được quy định cụ thể ở các văn bản nêu trên. 3. NHỮNG KIẾN NGH HOÀN THI N Thứ nhất, tên doanh nghiệp Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lí nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, người tiêu dùng..v.v. pháp luật cần quy định chi tiết hơn những quy định pháp luật hiện hành về các trường hợp tên doanh nghiệp bị trùng; các hành vi nghiêm cấm đối với các doanh nghiêp lợi dụng trùng tên gây khó khăn cho hoạt động quản lí nhà nước, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng; các chế tài pháp lí cụ thể đối với những doanh nghiệp bị trùng tên khi thực hiện những hành vi nghiêm cấm. Thứ hai, vốn pháp định Hiện nay đã có một số văn bản quy định cơ quan có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định như: Tổ chức kiểm toán độc lập có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định vốn pháp định đối với doanh nghiệp đang hoạt động có nhu cầu bổ sung ngành nghề kinh doanh bất động sản (mục 1.2 phần I Thông tư số 13/2008/TT-BXD ngày 21 tháng 5 năm 2008; Ngân hàng thương mại được phép hoạt động tại Việt Nam, tổ chức có chức năng định giá ở Việt Nam về kết quả định giá tài sản được đưa vào góp vốn có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề dịch vụ bảo vệ (khoản 2 điều 9 Nghị định số 52/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 2008). Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, cơ quan có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định còn được quy định khá chung chung trong Luật Doanh nghiệp, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp, Nghị định hướng dẫn đăng kí doanh nghiệp. Nhằm tiết kiệm thời gian, công sức cho người thành lập doanh nghiệp, pháp luật cần có quy định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định trong một văn bản pháp lí cụ thể. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần có sự điều chỉnh về mức vốn pháp định đối với một số ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, trước mắt đó là ngành nghề kinh doanh bất động sản. Thứ ba, chứng chỉ hành nghề Cần rà soát lại những ngành, nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật cần có chứng chỉ hành nghề của giám đốc và cá nhân khác, loại bỏ những quy định không có lợi cho người thành lập doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người thành lập doanh nghiệp thực hiện hoạt động đăng kí doanh nghiệp. Cần xây dựng quy chế pháp lí kiểm tra, giám sát chứng chỉ hành nghề của giám đốc và cá nhân khác sau khi doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh bởi vì trên thực tế, tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, người lao động trong doanh nghiệp có đủ chứng chỉ hành 95 nghề theo quy định của pháp luật nhưng sau đó họ xin nghỉ việc, doanh nghiệp buộc phải tuyển dụng người lao động mới. Nếu không có sự quy định chặt chẽ của pháp luật, sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lí nhà nước rất dễ xảy ra hiện tượng người lao động mới trong doanh nghiệp không đáp ứng yêu cầu về chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật nhưng vẫn ngang nhiên hành nghề. Tóm lại, trước khi thực hiện thủ tục đăng kí doanh nghiệp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người thành lập doanh nghiệp cần chuẩn bị các điều kiện cơ bản theo quy định của pháp luật như: Tư cách pháp lí của chủ thể thành lập và quản lí doanh nghiệp; Ngành nghề kinh doanh; tài sản; hồ sơ đăng kí doanh nghiệp..v.v. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí ki doanh, người thành lập doanh nghiệp cần thực hiện các thủ tục sau đăng kí doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lí điều chỉnh hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào quá trình thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay một số quy định pháp luật về thành lập doanh nghiệp đã bộc lộ những hạn chế nhất định gây khó khăn cho các chủ thể khi áp dụng chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp vào thực tiễn. Để hoàn thiện chế định pháp luật về thành lập doanh nghiệp, Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung, một số quy định về tên doanh nghiệp; chứng chỉ hành nghề; vốn pháp định. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Thị Châu (2010), Tìm hiểu Luật Kinh tế, Nxb Lao động, Hà Nội. 2. Minh Ngọc, Ngọc Hà (2010) Luật Kinh tế, Nxb Lao động, Hà Nội. 3. Nguyễn Viết Tý (cb) (2008), Giáo trình Luật Thương mại, tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND, Hà Nội. 4. Luật Doanh nghiệp 2005 (đã sửa đổi bổ sung năm 2009). 5. Nghị định số 102/2010/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp 6. Nghị định số 43/20010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về Đăng kí doanh nghiệp. 7. Nghị định số 05/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số điều quy định về thủ tục hành chính của Nghị định số 43/20010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về Đăng kí doanh nghiệp. 8. Nghị định số 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản. 9. Nghị định số 52/2008/NĐ-CP ngày 22/ 4/2008 về quản lí kinh doanh dịch vụ bảo vệ. 10. Thông tư số 13/2008/TT-BXD ngày 21/5/2008 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 153/2007/NĐ-CP. * Nhận bài ngày: 23/10/2013. Biên tập xong: 20/2/2014. Duyệt đăng: 24/2/2014. 96 HỘP THƯ ẠN ĐỌC Kính gửi uý bạn đọc, Trong thời gian qua, chúng tôi nhận được rất nhiều bài viết của các nhà khoa học trong cả nước. Ban Biên tập Tạp chí Đại học Sài G n chân thành cảm ơn sự cộng tác của Quý vị. Trong số Tạp chí này, chúng tôi xin giới thiệu đến uý bạn đọc và các nhà khoa học những bài nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội và Khoa học Giáo dục. Ban Biên tập Tạp chí Đại học Sài Gòn c ng xin trân trọng thông báo đã nhận được bài viết của các tác giả có tên sau đây gửi tới Toà soạn: PGS.TS. Huỳnh Văn Sơn, TS. B i Văn Thắng, TS. Trần uang Nam, TS. Phạm Ngọc Hiền, TS. Lê Văn Tấn, TS. Đặng Kim Tại, TS. Phạm Lê Thông, TS. Nguyễn Văn Thắng, ThS. Nguyễn Ngọc Phú, ThS. Nguyễn Văn Thương, ThS. Hà Thị Thuỳ Dương, ThS. Nguyễn inh Hiệp, ThS.NCS. Ngô Xuân Bình, ThS. Trần Cao Nguyên, ThS. Nguyễn Anh H ng, ThS.NCS. Lê Chi Lan, ThS. Ngô Thị Kim Liên, ThS. Hoàng Thị Kiều Oanh, ThS. Lê Dình Nghi, ThS. Trần Thị Ngọc uỳnh, ThS. Lê Khoa Huân, ThS. Lê Nguyễn Bình inh, ThS. ai Trương Huy, ThS. V Thị Thu, ThS. Nguyễn Vĩnh Khương, ThS. ai ỹ Hạnh, ThS Nguyễn Tiến Công, NCS. Nguyễn Huy Khuyến, ThS. Nguyễn Thị Oanh, ThS. Phan Tất Hiển, ThS. Lê Thái Sơn c ng nhiều bài viết của các tác giả khác. Chúng tôi xin được chọn đăng ở các số Tạp chí tiếp theo. Với những bài viết đã chọn đăng trong số Tạp chí này, chắc chắn vẫn c n những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của uý bạn đọc để có thể ngày một nâng cao chất lượng Tạp chí Đại học Sài G n. ột lần nữa, Ban biên tập Tạp chí Đại học Sài Gòn chân thành cảm ơn uý bạn đọc, các nhà khoa học trong cả nước và mong muốn được đón nhận sự tín nhiệm lâu dài của uý vị trong tương lai. Trân trọng kính chào. BAN BIÊN TẬP TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfche_dinh_phap_luat_thanh_lap_doanh_nghiep_o_viet_nam_va_nhun.pdf