Kết luận
Là đạo luật cơ bản, luật gốc của Nhà
nước, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao
nhất trong hệ thống pháp luật mỗi quốc
gia. Chế định về quyền con người là một
chế định giữ vai trò quan trọng trong các
Hiến pháp. Trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, quy định về quyền con người ngày
càng được hoàn thiện và mở rộng đặc biệt
là qua các bản Hiến pháp từ Hiến pháp
1946, 1959, 1980, 1992 đến Hiến pháp
2013. Việc hiến định quyền con người
trong Hiến pháp 2013 là sự kế thừa và
phát triển các bản Hiến pháp trước đó,
đồng thời chuyển hóa sâu sắc nhiều nội
dung, tinh thần các công ước quốc tế về
quyền con người mà Việt nam là thành
viên. Chế định này sẽ tạo nền tảng pháp
lý cao nhất để xây dựng hệ thống pháp
luật bảo đảm quyền con người trong xã
hội Việt Nam, đáp ứng mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế định quyền con người qua các bản hiến pháp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
112
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 34, Nov 2019
CHẾ ĐỊNH QUYỀN CON NGƯỜI
QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
HUMAN RIGHTS IN VIETNAMESE CONSTITUTIONS
Ngô Thuỳ Dung
Trường Đại học Giao thông vận tải TP.HCM
dung.ngo@ut.edu.vn
Tóm tắt: Quyền con người là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với toàn nhân loại. Trong
thời đại ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển. Đây là những
quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc
gia, pháp luật quốc tế. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn coi việc đảm bảo quyền con người là mục
tiêu phát triển. Để làm được điều đó hệ thống pháp luật Việt Nam đã không ngừng xây dựng và hoàn
thiện để thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết, đặc biệt là
trong Hiến pháp – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Kể từ Hiến pháp đầu tiên 1946 cho đến Hiến
pháp 2013 hiện hành tinh thần đề cao quyền con người luôn được thể hiện. Đây là những nấc thang về
việc ghi nhận và phát triển các quyền cũng như cơ chế bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.
Từ khóa: Nhân quyền, quyền con người, chế định quyền con người, Hiến định, Hiến pháp Việt
Nam.
Chỉ số phân loại: 3.5
Abstract: Human rights are very important for the humanity. In this day and age, human rights
cannot be separated from peace, democracy and development. These are the natural, inherent and
objective rights of man which recognized and protected in national and international law. In Vietnam,
the Party and the Goverment always consider ensuring human rights as a development goal. In order
to do that, the Vietnamese legal system has constantly built and perfected to implement the
international commitments on human rights that Vietnam has signed, especially in the Constitution -
the highest legal. From the first 1946 Constitution to the 2013 Constitution, the human rights have
always been expressed. These are steps in recognizing and developing human rights and mechanisms
for protecting human rights in Viet Nam.
Key words: Human rights, human rights institution; Consitutional; VietNamese Constitution.
Classification number: 3.5
1. Giới thiệu
Hơn 70 năm qua, trên nền tảng chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
công dân và quyền con người là mục tiêu
nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Cương
lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Sau đó được xác định cụ
thể hơn “Con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
gắn quyền con người với quyền và lợi ích
của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của
nhân dân” [1].
Việt Nam đã gia nhập hầu hết các công
ước quốc tế về nhân quyền; đồng thời pháp
điển hóa các quyền con người trong hệ thống
pháp luật quốc gia. Hiến pháp là văn kiện
chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, là
nhân tố bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội
và chủ quyền của quốc gia, thể hiện bản chất
dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ.
Theo dòng lịch sử lập hiến, kể từ khi thành
lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đến
nay, nước ta đã có năm bản Hiến pháp đó là:
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) và
Hiến pháp năm 2013. Những văn kiện này đã
từng bước xây dựng chế định quyền con
người một cách khoa học, đầy đủ và ngày
càng hoàn thiện hơn, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc thực thi quyền con người trong
thực tế.
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 34-11/2019
113
2. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là một phạm trù đa
diện nên có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Theo một tài liệu của Liên Hợp Quốc, có đến
gần 50 định nghĩa về quyền con người đã
được công bố [16].
Liên Hợp Quốc chính thức công nhận
khái niệm quyền con người vào năm 1948
với sự ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về
quyền con người. Trong đó, quyền con người
được hiểu là: “Những bảo đảm pháp lý toàn
cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ
mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự
được phép và tự do cơ bản của con người”
[11].
Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền
con người” có một thuật ngữ khác cũng được
sử dụng đó là “nhân quyền”. Theo Đại Từ
điển Tiếng Việt, “nhân quyền” chính là
“quyền con người”[12]. Như vậy, về mặt
Ngôn ngữ học, quyền con người và nhân
quyền là hai từ đồng nghĩa do đó có thể sử
dụng cả hai thuật ngữ này trong nghiên cứu,
giảng dạy và hoạt động thực tiễn.
Các học giả Việt Nam tiếp cận khái niệm
quyền con người ở nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ Luật học: "Quyền con người là
các khả năng của con người được đảm bảo
bằng pháp luật (luật quốc gia và luật quốc
tế) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã
hội, các giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần,
sử dụng quyền tự do trong xã hội trong phạm
vi luật định và quyền quyết định các hoạt
động của mình và của người khác trên cơ sở
pháp luật"[13]. Dưới góc độ giảng dạy,
nghiên cứu: "Nhân quyền (hay quyền con
người) là những năng lực và nhu cầu vốn có
và chỉ có ở con người, với tư cách là thành
viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa
bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế"[10]. Các khái niệm quyền
con người được nêu ra mặc dù không hoàn
toàn giống nhau, nhưng thường được hiểu là:
“Những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được ghi nhận và
bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế” [8].
Như vậy, khái niệm quyền con người có
thể hiểu theo nhiều cách khác nhau nhưng về
cơ bản quyền con người là những giá trị cao
cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã
hội, ở mọi giai đoạn lịch sử, mọi quốc gia và
dân tộc. Theo tác giả khái niệm quyền con
người có thể hiểu một cách ngắn gọn như
sau: “Quyền con người là các quyền bẩm
sinh, cơ bản của con người được nhà nước
thừa nhận và bảo đảm thực hiện và không
thể chuyển giao”.
3. Sự phát triển của chế định quyền
con người qua các bản Hiến pháp Việt
Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
Dân chủ cộng hoà được thông qua gày
9/11/1946 (sau đây gọi là Hiến pháp 1946).
Hiến pháp 1946 có 7 Chương và 70 Điều.
Trong đó chế định quyền con người không
được quy định một cách độc lập mà đồng
nhất quyền con người và quyền công dân.
Nội dung về quyền con người được đề cập
chủ yếu tại Chương II - “Nghĩa vụ và quyền
lợi của công dân”. Lần đầu tiên trong lịch sử
dân tộc, quyền bình đẳng được ghi nhận trong
đạo luật cơ bản của Nhà nước: “Tất cả công
dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật,
đều được tham gia chính quyền và công cuộc
kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của
mình” [Điều 7, 2]. Lần đầu tiên, Hiến pháp
quy định phụ nữ được ngang quyền với nam
giới về mọi phương diện [Điều 9, 2]. Và cũng
lần đầu tiên, Nhân dân được bảo đảm các
quyền tự do dân chủ: “Công dân Việt Nam
có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản,
tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự
do cư trú, đi lại trong nước và ra nước
ngoài”[Điều 10, 2]. Ngoài ra, Hiến pháp
1946 còn đề cập đến các quyền con người
như: Quyền không bị tra tấn, đánh đập,
ngược đãi [Điều 68, 2]; quyền được trú ngụ
trên đất Việt Nam với những người ngoại
quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải
trốn tránh [Điều 16, 2] Việc ghi nhận các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và cơ
chế đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ
đó trong Hiến pháp 1946 đặt nền móng cho
chế định quyền con người trong các bản Hiến
pháp tiếp theo của Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh, người đứng đầu cơ quan soạn thảo
114
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 34, Nov 2019
Hiến pháp 1946 đã nói: “Hiến pháp đó tuyên
bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có
đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố
với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng
ngang hàng với đàn ông để được hưởng
chung mọi quyền tự do của một công
dân”[9].
Trên cơ sở kế thừa bản Hiến pháp 1946,
các nội dung liên quan đến quyền con người
tiếp tục được quy định Chương III - Hiến
pháp năm 1959 (sau đây gọi là Hiến pháp
1959) với tên gọi “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ
bản của công dân”. Các quyền con người cơ
bản vẫn được ghi nhận gồm: quyền bình
đẳng “Công dân nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật”;
quyền tự do cư trú và đi lại; quyền tự do
ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu
tình” [3]. Hiến pháp 1959 có bổ sung
nhiều quy định mới về quyền con người:
Quyền làm việc, quyền nghỉ ngơi, quyền tự
do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học,
nghệ thuật.v.v Như vậy, quyền con người
tiếp tục được mở rộng hơn trong Hiến pháp
Việt Nam 1959.
Ngày 18/12/1980, Hiến pháp mới được
thông qua sau đây gọi là Hiến pháp 1980.
Quyền con người được đề cập tại Chương V
- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Qua ba bản Hiến pháp khái niệm “quyền con
người” và “quyền công dân” vẫn chưa có
ranh giới phân định rạch ròi. So với các bản
Hiến pháp trước đó, Hiến pháp 1980 đã tiếp
thu có chọn lọc, kế thừa và ngày càng hoàn
thiện, chặt chẽ và cụ thể hơn về quyền con
người. Điều 63 - Hiến pháp 1980 đã bổ sung
bốn điểm mới về quyền bình đẳng: Một
là Nhà nước và xã hội có nghĩa vụ chăm lo
nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa
học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ để
phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội; hai
là Nhà nước cần hoạch định chính sách lao
động phù hợp với điều kiện của phụ nữ; ba
là xã viên hợp tác xã cũng được hưởng phụ
cấp sinh đẻ; bốn là Nhà nước và xã hội phải
chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, nhà trẻ,
lớp mẫu giáo, các nhà ăn công cộng và
những cơ sở phúc lợi khác. Hiến pháp 1980
cũng có thêm các quy định: quyền được bảo
hiểm xã hội; quyền được bảo vệ sức khỏe,
quyền có nhà ở Và đặc biệt, lần đầu tiên
Hiến pháp năm 1980 dành một điều riêng
quy định quyền của trẻ em - Điều 65: “Nhà
nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, mở rộng
dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho
sinh hoạt, học tập và trưởng thành của trẻ
em được bảo đảm” [4].
Hiến pháp 1992 được thông qua ngày
15/4/1992. Với sự ra đời của Hiến pháp
1992, thuật ngữ "quyền con người" được
thừa nhận, tức là không còn đồng nhất quyền
con người với quyền công dân nhưng bản
Hiến pháp này cũng chưa phân biệt được
quyền con người và quyền công dân trong
các quy định cụ thể. Hiến pháp 1992 chỉ giữ
lại 4 điều không sửa chữa, 26 điều phải sửa
đổi, bổ sung và thêm 4 điều mới với sự sắp
xếp hợp lý hơn về quyền con người. Ví dụ,
Điều 63 quy định quyền bình đẳng nam, nữ
và bổ sung: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân
biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm
phụ nữ”. Việc bổ sung này là cần thiết nhằm
phòng ngừa và chống lại những hành vi phân
biệt đối xử với phụ nữ, đánh đập, hành hạ,
mua bán phụ nữ trong xã hội Việt Nam. Hiến
pháp 1992 đưa ra những quy định mới về
quyền con người: Quyền tự do kinh doanh;
quyền bồi thường thiệt hại về vật chất và
phục hồi danh dự; quyền được bảo hộ tính
mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng
của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam,
v.v Tuy có nhiều tiến bộ so với các bản
Hiến pháp trước đó nhưng Hiến pháp 1992
vẫn còn có hạn chế nhất là trong cách trình
bày, diễn đạt các quy định. Điều 50, Hiến
pháp 1992 quy định: “Ở nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá
và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và luật” [5]. Từ đó, người đọc sẽ có thể
hiểu rằng ở Việt Nam, chỉ công dân Việt
Nam mới có quyền con người, còn những đối
tượng khác như người nước ngoài, người
không quốc tịch thì không có quyền con
người. Quy định như vậy là không phù hợp
với luật pháp quốc tế về nhân quyền bởi lẽ
luật pháp quốc tế và các quốc gia khác đều
thừa nhận quyền con người là quyền tự
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 34-11/2019
115
nhiên, bất kì ai sinh ra cũng có mà không bị
phân biệt về giới tính, dân tộc, địa vị hay các
đặc điểm pháp lý
4. Quyền con người trong Hiến pháp
Việt Nam năm 2013
Qua hơn 20 năm thực hiện Hiến pháp năm
1992, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhưng tình
hình trong nước, khu vực và quốc tế ngày
càng có nhiều biến đổi phức tạp do vậy ngày
28/11/2013 bản Hiến pháp mới được thông
qua sau đây gọi là Hiến pháp 2013. Với Hiến
pháp 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến
nước ta “quyền con người” đã trở thành tên
gọi chính thức của một chương thay vì được
quy định chung chung tại chương “Quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân” như các bản
Hiến pháp trước đó. Sự bổ sung cụm từ
“quyền con người” tại Chương II là điểm
nhấn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong bối
cảnh xây dựng, phát triển đất nước và hội
nhập quốc tế. Đây không chỉ là sự bổ sung
một cụm từ mang tính chất kỹ thuật lập hiến
mà còn phản ánh tư duy phát triển, phù hợp
với xu hướng của dân tộc, thời đại và nhân
loại. Đồng thời xóa bỏ sự mập mờ giữa hai
khái niệm về quyền con người và quyền công
dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việc
thay đổi tên chương từ “Quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân” thành “Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân” trong Hiến pháp 2013 còn thể hiện sự
nỗ lực và cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà
nước ta trong việc thực hiện các công ước
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã
ký kết. Về bố cục, việc sắp xếp quyền con
người thành từng nhóm như trong Hiến pháp
2013 là phù hợp với việc sắp xếp các nhóm
quyền của luật nhân quyền quốc tế đó là
quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa.
Hiến pháp 2013 đã dành 36 điều ở
Chương II trên tổng số 120 điều quy định về
quyền con người và quyền công dân, trong
đó có khoảng 15 điều quy định trực tiếp về
quyền con người. Nguyên tắc cơ bản đảm
bảo quyền con người được quy định tại Điều
14: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật” [6]. Khoản 2,
điều này cũng quy định: “Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng” [6]. Việc quy định về
nguyên tắc hạn chế quyền là cần thiết để bảo
đảm quyền con người được thực hiện một
cách minh bạch, phòng ngừa sự cắt xén hay
hạn chế các quyền này một cách tùy tiện từ
phía các cơ quan nhà nước [ 14].
Không chỉ dừng lại ở việc củng cố các
quyền con người đã được quy định Hiến
pháp 2013 còn bổ sung bốn quyền con người
hoàn toàn mới là: Quyền sống (Điều 19),
quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ,
sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi
ích từ các hoạt động đó (Điều 40), quyền
hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa,
tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các
cơ sở văn hóa (Điều 41), quyền được sống
trong môi trường trong lành (Điều 43). Đây
là các quyền vô cùng thiết yếu đối với sự tồn
tại và phát triển của mỗi người. Các quyền
này đều nằm trong hai nhóm quyền cơ bản
được ghi nhận trong các Công ước quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Trong các quyền con người mới được hiến
định lần này, có thể nói việc hiến định quyền
sống tại Điều 19: “Mọi người có quyền sống.
Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.
Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” [6]
là minh chứng quan trọng cho những cam kết
của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo vệ
quyền sống của tất cả mọi người, trong đó có
cả các nhóm người dễ bị tổn thương như phụ
nữ, trẻ em, người khuyết tật[15]. Bên cạnh
quyền sống thì con người cần có những điều
kiện về văn hoá, tinh thần để phát triển toàn
diện. Do vậy, việc bổ sung quy định về
quyền tiếp cận, nghiên cứu, thụ hưởng các
giá trị vật chất, tinh thần và những thành quả
của khoa học - công nghệ, văn học, nghệ
thuật, các giá trị văn hóa là vô cùng thiết yếu.
Điều 40, 41 - Hiến pháp 2013 quy định:
“Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học
và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật
và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”;
116
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 34, Nov 2019
“Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống
văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” [6].
Hiện nay, tình trạng suy thoái và ô
nhiễm môi trường đang diễn ra vô cùng
nghiêm trọng. Do vậy, Điều 43 Hiến pháp
2013 quy định: “Mọi người có quyền được
sống trong môi trường trong lành và có
nghĩa vụ bảo vệ môi trường” [6].
Ngoài ra, Hiến pháp 2013 có sự thay đổi
cơ bản về cách trình bày trong cách quy
phạm về quyền con người. Ví dụ: Điều 72
Hiến pháp 1992 quy định: “không ai bị coi là
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp
luật” [5]. Được trình bày lại theo khoản 1,
Điều 31 Hiến pháp 2013 như sau: “Người bị
buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự Luật định và
có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực
pháp luật” [6]. Với cách diễn đạt tại Hiến
pháp 1992 thì chỉ cần một điều kiện là có bản
án của tòa án đã có hiệu lực thì một người bị
coi là có tội và phải chịu hình phạt. Còn theo
Hiến pháp 2013, một người bị kết tội phải có
2 điều kiện: Một là phải tuân theo một trình
tự luật định và hai là có bản án có hiệu lực
pháp luật của tòa án. Giá trị cốt lõi của quy
định này chính là nguyên tắc suy đoán vô tội
trong Luật Hình sự.
Hiến pháp 2013 cũng thay đổi cách diễn
đạt, những từ ngữ mang nặng tư tưởng ban
phát quyền con người được thay thế bằng
những từ ngữ mang tính chất pháp lý phù
hợp với bản chất của quyền con người và
pháp luật quốc tế. Những cụm từ “nhà nước
bảo đảm”, “nhà nước tạo điều kiện”, “nhà
nước khuyến khích”, được thay bằng “mọi
người có quyền”, “công dân có
quyền”Như vậy, Nhà nước không trao
quyền con người, mà chỉ thừa nhận quyền
con người, không chỉ công dân Việt Nam mà
mọi chủ thể đều có quyền con người. Hiến
pháp 2013 cũng lược bỏ một loạt các cụm từ
“theo quy định của pháp luật”, “theo quy
định của luật” điều này cho thấy khả năng
áp dụng trực tiếp các quy phạm Hiến pháp,
đồng thời ghi nhận sự ràng buộc trách nhiệm
của Nhà nước đối với việc bảo vệ, bảo đảm
thực hiện quyền con người đã được xác định
trong luật pháp quốc tế.
Bảng 1. So sánh tổng quan về chế định quyền con người qua các bản Hiến pháp Việt Nam.
Hiến pháp
TIÊU CHÍ
Chương và tên chương
Hiến pháp 1946 Chương II - Nghĩa vụ và quyền lợi công dân
Hiến pháp 1959 Chương III - Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Hiến pháp 1980 Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Hiến pháp 1992 Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Hiến pháp 2013 Chương II- Quyền con người Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Hiến pháp
TIÊU CHÍ
Các điều luật tham khảo
Hiến pháp 1946 Điều 6, 7,8,9,10,11
Hiến pháp 1959 Điều 22, 24, 25, 26, 27, 29,30,31,34
Hiến pháp 1980 Điều 55, 58, 59, 61, 62, 63, 65, 67, 68, 69, 70, 71, 72, 73
Hiến pháp 1992 Điều 50, 52, 57, 58, 60, 61, 63, 68, 69, 70, 71, 72, 73, 74
Hiến pháp 2013 Điều 14, 16, 19, 20, 21, 22, 24, 30, 31, 32, 33, 34; 35; 37, 38, 40, 41, 43
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 34-11/2019
117
Hiến pháp
TIÊU CHÍ
Thuật ngữ
Hiến pháp 1946 Quyền con người đồng nhất với quyền công dân
Hiến pháp 1959 Quyền con người đồng nhất với quyền công dân
Hiến pháp 1980 Quyền con người đồng nhất với quyền công dân
Hiến pháp 1992 Quyền con người không đồng nhất với quyền công dân
Hiến pháp 2013 Tách biệt quyền con người và quyền công dân
Hiến pháp
TIÊU CHÍ
Các quyền con người cơ bản
Hiến pháp 1946
Quyền bình đẳng; quyền bình đẳng của phụ nữ; quyền tự do ngôn luận; quyền tự do
xuất bản; quyền tự do tổ chức và hội họp; quyền tự do tín ngưỡng; quyền tự do cư
trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.
Hiến pháp 1959
Quyền bình đẳng, Quyền bình đẳng của phụ nữ; quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội
họp, lập hội và biểu tình; quyền tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân
thể; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền không bị xâm phạm, thư tín; quyền tự do cư trú
và đi lại; quyền làm việc, quyền nghỉ ngơi; quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng
tác văn học, nghệ thuật, và tiến hành các hoạt động văn hoá
Hiến pháp 1980
Quyền bình đẳng; quyền có việc làm; quyền nghỉ ngơi; quyền được bảo vệ sức khoẻ;
quyền có nhà ở; Quyền bình đẳng nam nữ; quyền trẻ em; quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình; quyền tự do tín ngưỡng;
quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh
dự và nhân phẩm; quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín; quyền tự do đi lại và cư
trú; quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, sáng tác văn học, nghệ thuật và tham gia
các hoạt động văn hoá khá; quyền khiếu nại và tố cáo
Hiến pháp 1992
Quyền bình đẳng; quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu ; quyền nghiên cứu khoa
học và tham gia các hoạt động văn hoá; quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ;
quyền bình đẳng nam nữ; quyền tự do đi lại và cư trú , ra nước ngoài; quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin; quyền hội họp, lập hội, biểu tình;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được
bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự; quyền bất khả xâm phạm về
chỗ ở; quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, quyền khiếu nại, tố cáo.
Hiến pháp 2013
Quyền bình đẳng; Quyền sống; Quyền bất khả xâm phạm về thân thể; Quyền hiến
mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác; quyền trẻ em; quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo; quyền bình đẳng nam nữ; quyền lao động; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền sở
hữu; quyền được bảo đảm an sinh xã hội; quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe;
quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng
lợi ích từ các hoạt động đó, quyền thụ hưởng và tiếp cận các giá trị văn hoá; quyền
được sống trong môi trường trong lành
(Ghi chú: Các quyền mới bổ sung so với các bản Hiến pháp trước đó)
5. Kết luận
Là đạo luật cơ bản, luật gốc của Nhà
nước, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao
nhất trong hệ thống pháp luật mỗi quốc
gia. Chế định về quyền con người là một
chế định giữ vai trò quan trọng trong các
Hiến pháp. Trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, quy định về quyền con người ngày
càng được hoàn thiện và mở rộng đặc biệt
là qua các bản Hiến pháp từ Hiến pháp
1946, 1959, 1980, 1992 đến Hiến pháp
2013. Việc hiến định quyền con người
trong Hiến pháp 2013 là sự kế thừa và
phát triển các bản Hiến pháp trước đó,
118
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 34, Nov 2019
đồng thời chuyển hóa sâu sắc nhiều nội
dung, tinh thần các công ước quốc tế về
quyền con người mà Việt nam là thành
viên. Chế định này sẽ tạo nền tảng pháp
lý cao nhất để xây dựng hệ thống pháp
luật bảo đảm quyền con người trong xã
hội Việt Nam, đáp ứng mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”
[1] Tài liệu tham khảo Error! Not a valid
link.Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr76;
[2] Quốc hội, Hiến pháp Việt Nam 1946, được
Quốc hội khoá 1 Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà thông qua ngày 9/11/1946;
[3] Quốc hội, Hiến pháp Việt Nam 1959, được
Quốc hội Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa thông qua ngày 31 tháng 12 năm 1959;
[4] Quốc hội, Hiến pháp Việt Nam 1980, được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 18 tháng 12 năm 1980;
[5] Quốc hội, Hiến pháp Việt Nam 1992, được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nan khoá VIII, kỳ họp thứ 11 thông
qua ngày 15 tháng 4 năm 1992;
[6] Quốc hội, Hiến pháp Việt Nam 2013, được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua
ngày 28 tháng 11 năm 2013;
[7] Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội, Giáo
trình Lý luận và pháp luật về Quyền con
người, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội,
2009;
[8] Khoa luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội, Sách
chuyên khảo: Hỏi đáp về quyền con người,
NXB Hồng Đức, Hà Nội, 2011, tr 23.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.440.
[10] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Tập bài giảng lý luận về quyền con người,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.10.
[11] Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948
trong Giới thiệu các văn kiện pháp lý quốc
tế về quyền con người, 2011;
[12] Viện Ngôn ngữ học: "Đại Từ điển Tiếng
Việt", NXB Văn hoá - Thông tin, Hà
Nội,1999, tr.1239;
[13] Nguyễn Bá Diến, Về quyền con người - Tập
chuyên khảo "quyền con người, quyền công
dân", Tập 1, Trung tâm nghiên cứu quyền
con người - Học viện CTQG Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 1993, tr.34;
[14] Nguyễn Thanh Tuấn, Quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013,
Tạp chí cộng sản, ngày 30/9/2014;
dung-nha-nuoc-phap-
quyen/2014/29481/Quyen-con-nguoi-quyen-
cong-dan-trong-Hien-phap-nam-2013.aspx.
[15] Lê Trang Hùng - Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến
pháp năm 2013- Trang công an nhân dân
online, ngày 23/3/2015.
quyen-va-nghia-vu-co-ban-cua-cong-dan-
trong-Hien-phap-nam-2013-345216/
[16] United Nations (1994), Human Rights:
Question and Answers, New york and
Geneva, page 4.
Ngày nhận bài: 1/10/2019
Ngày chuyển phản biện: 4/10/2019
Ngày hoàn thành sửa bài: 29/10/2019
Ngày chấp nhận đăng: 1/11/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- che_dinh_quyen_con_nguoi_qua_cac_ban_hien_phap_viet_nam.pdf