Thứ nhất, cần giới hạn rõ phạm vi thiệt
hại được bồi thường cho hợp đồng thương
mại, quy định rõ phạm vi bồi thường có bao
gồm những thiệt hại phi tiền tệ hay không,
nếu có thể nên liệt kê rõ những thiệt hại phi
tiền tệ được bồi thường nếu có chứng cớ xác
đáng như thiệt hại do mất uy tín, thiệt hại do
người chết, bị thương đến những thiệt hại
khác như chi phí luật sư, dịch thuật Và
thiệt hại có tính đến mọi khoản lợi cho bên
có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất
tránh được hay không.
Thứ hai, quy định rõ thiệt hại là có tính dự
đoán trước bên cạnh tính thực tế, trực tiếp.
Thứ ba, quy định thêm cách tính toán thiệt
hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy với hai
khả năng là bên bị vi phạm đã ký hợp đồng
thay thế hoặc không như cách tính toán thiệt
hại với hai khả năng trên của Công ước Viên
và Bộ nguyên tắc Unidroit.
Thứ tư, quy định rõ về đồng tiền tính toán
thiệt hại là đồng tiền quy định trong điều
khoản nghĩa vụ thanh toán hoặc đồng tiền tại
nới thiệt hại phát sinh tùy theo đồng tiền nào
thích hợp nhất.
Thứ năm, xác định rõ có tính tiền lãi trên
khoản tiền bồi thường thiệt hại như quy định
tại Điều 7.4.10 của Bộ nguyên tắc Unidroit
hay không.
Tuy nhiên cần chú ý rằng, vì chế tài bồi
thường thiệt hại trong Luật Thương mại Việt
Nam trước hết là được áp dụng đối với quan
hệ thương mại quốc nội. Việc điều chỉnh nó
theo khuynh hướng áp dụng cho quan hệ
thương mại quốc tế như trên chưa hẳn là xác
đáng. Sự lựa chọn hợp lý nhất, theo chúng
tôi, là khi Luật Thương mại Việt Nam được
áp dụng cho một hợp đồng thương mại quốc
tế, nên giải thích áp dụng chế tài bồi thường
thiệt hại này theo hướng điều chỉnh trên và
để đảm bảo tính tổng quan, nên thừa nhận
việc áp dụng Công ước Viên là Bộ nguyên
tắc Unidroit để bổ trợ giải thích Luật Thương
mại nói chung và chế tài bồi thường thiệt hại
nói riêng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua luật thương mại Việt Nam, công ước CISG và bộ nguyên tắc Unidroit, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
48 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009
1. Sự khác biệt và bổ trợ giải thích cho
nhau giữa ba văn bản về chế tài bồi
thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là hình thức trách
nhiệm do không thực hiện hay thực hiện
không đúng nghĩa vụ hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế được tất cả các hệ thống
pháp luật trên thế giới áp dụng3. Luật Thương
mại Việt Nam 2005 quy định về chế tài bồi
thường thiệt hại tại Điều 302. Chế tài này sẽ
được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế khi luật điều chỉnh hợp đồng là
luật Việt Nam.
“Điều 302: Bồi thường thiệt hại
1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm
bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm
hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm
giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị
vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra
và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi
vi phạm4”.
Điều 74 Công ước CISG đưa ra khung cơ
bản cho việc đền bù thiệt hại: “Thiệt hại do
vi phạm hợp đồng của một bên là tổng số các
tổn thất kể cả lợi tức bị mất, mà bên kia phải
chịu do hậu quả của việc vi phạm hợp đồng.
Những thiệt hại như vậy không thể vượt quá
tổn thất mà bên vi phạm hợp đồng đã dự đoán
được hoặc buộc phải dự đoán được trong thời
điểm ký kết hợp đồng như là hậu quả có thể
xảy ra của vi phạm hợp đồng đó, trên cơ sở
các thông tin và tình tiết mà bên vi phạm hợp
đồng đã biết hoặc phải biết vào thời điểm
đó”5. Bộ nguyên tắc Unidroit đưa ra những
Đối với hợp đồng thương mại quốc tế, khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng, một trong những chế
tài được áp dụng phổ biến là bồi thường thiệt hại1. Luật Thương mại Việt Nam 1997 và 2005 đều dành
điều khoản (Điều 229 Luật 1997 và Điều 320 Luật 2005) để quy định vấn đề này. Công ước Viên 1980
về mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước CISG) cũng dành Mục II Chương 5 cho chế tài bồi thường thiệt
hại. Bộ nguyên tắc của Unidroit2 về hợp đồng thương mại quốc tế (sau đây gọi tắt là Bộ nguyên tắc
Unidroit) dành Mục 4 Chương 7 để thống nhất các vấn đề về bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, những
quy định trên lại có những điểm khác biệt trong thuật ngữ, trong cách giải thích và trong thực tế áp
dụng. Nằm trong nỗ lực hài hòa hóa pháp luật cho hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, bài viết sẽ
phân tích những điểm còn khác biệt giữa những quy định trên.
(*) Giảng viên Khoa Luật - Đại học Huế
(1) Xem thêm 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Trung tâm trọng tài quốc tế VIAC, Hà nội, 2002.
(2) Unidroit: Viện quốc tế về nhất thể hoá pháp luật tư (BT) .
(3) Xem Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr.57.
(4) Luật Thương mại Việt Nam 2005, Nxb. Lao động - xã hội, 2005, tr. 143.
(5) Xem John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008, tr.6,10.
CHẾ TÀI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
QUA LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM,
CôNG ƯỚC CISG VÀ BỘ NGUYÊN TẮC UNIDROIT
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
NGUYỄN THỊ HỒNG TRINH (*)
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 49112009
quy phạm chung cho hợp đồng thương mại
quốc tế với mục tiêu thiết lập một bộ nguyên
tắc cân bằng để áp dụng trên thế giới không
phụ thuộc vào truyền thống pháp luật và điều
kiện kinh tế xã hội của các nước. Bộ nguyên
tắc này có Mục 4 Chương 7 quy định về bồi
thường thiệt hại.
a. Về phạm vi thiệt hại được đền bù
Khi xác định thiệt hại, cả ba nguồn luật
trên đều giới hạn phạm vi thiệt hại được đền
bù. Luật Thương mại Việt Nam quy định giá
trị bồi thường thiệt hại bao gồm hai loại là
tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi đáng
lẽ được hưởng. Công ước CISG thì quy định
thiệt hại bao gồm những tổn thất. Khoản lợi
đáng lẽ được hưởng (lợi tức bị mất) cũng
được tính là tổn thất. Đối với phạm vi thiệt
hại được bồi thường trên, Bộ nguyên tắc
Unidroit có những quy định chi tiết hơn và
phạm vi bồi thường rộng hơn6.
Cụ thể, thứ nhất, Bộ nguyên tắc Unidroit
ở Điều 7.4.2 quy định nguyên tắc bồi thường
toàn bộ, bao gồm cả những thiệt hại vật chất
(tổn thất và lợi ích bị mất đi) và cả những thiệt
hại phi tiền tệ bắt nguồn đặc biệt từ nỗi đau
thể chất hoặc tinh thần trong đó có thiệt hại
do mất uy tín (loại thiệt hại mà bên bị thiệt hại
đòi bồi thường trong một số tranh chấp điển
hình7). Công ước Viên không có quy định cụ
thể về loại thiệt hại này. Bên cạnh đó, Công
ước tại Điều 5 còn quy định loại trừ việc áp
dụng Công ước cho những thiệt hại do người
chết hoặc bị thương. Luật Thương mại 2005
Điều 302 không nói rõ phạm vi thiệt hại có
bao gồm thiệt hại phi vật chất hay không,
nhưng khi xét Điều 307 Bộ luật Dân sự Việt
Nam 2005 thì có thể thấy phạm vi bồi thường
thiệt hại có bao gồm những thiệt hại này.
“Điều 307 Bộ luật Dân sự 2005. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại:
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao
gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật
chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất
về tinh thần
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho
người khác do xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của
người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi
phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải
bồi thường một khoản tiền để bù đắp về tinh
thần cho người bị thiệt hại8”.
Một loại chi phí cần được xem xét xem có
thuộc phạm vi của thiệt hại được bồi thường
hay không đó là chi phí luật sư - vấn đề gây
nhiều tranh cãi trong nhiều năm gần đây, khi
mà cả ba nguồn luật trên đều không có quy
định chi tiết. Và thực tiễn khi nghiên cứu các
phán quyết về những tranh chấp thương mại
điển hình, có thể thấy rằng những yêu cầu về
bồi thường chi phí luật sư thường bị bác (một
phần nguyên nhân là bên bị thiệt hại không
đưa ra được các chứng cứ chứng minh)9.
Thứ hai, Bộ nguyên tắc Unidroit còn có
những điểm chi tiết hơn so với hai nguồn
luật còn lại nữa là việc tính đến khoản lợi
cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay
tổn thất tránh được với mục đích làm cho
việc bồi thường thiệt hại không được làm lợi
cho bên có quyền. Trong khi đó, Công ước
CISG không có quy định cụ thể về vấn đề
này. Luật Thương mại Việt Nam 2005 cũng
không có quy định cụ thể. Tuy nhiên Điều
229 của Luật Thương mại Việt Nam 1997
lại có ghi nhận: “Số tiền bồi thường thiệt hại
không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản
lợi đáng lẽ được hưởng”10 với mục đích là
để việc bồi thường thiệt hại không được làm
lợi cho bên có quyền mặc dù không đưa ra
được cách tính cụ thể như Bộ nguyên tắc
Unidroit.
(6) Xem John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008, tr.6,10.
(7) Xem thêm 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Trung tâm trọng tài quốc tế VIAC,Hà nội, 2002, tr.40
(8) Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005, Nxb. Chính trị quốc gia, 2006,tr.148.
(9) Xem thêm 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Trung tâm trọng tài quốc tế VIAC,Hà nội, 2002.
(10) Luật Thương mại Việt Nam 1997, Nxb. Chính trị quốc gia, 2003.
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
50 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
b. Về tính dự đoán trước của thiệt hại
Công ước CISG theo thuyết tính dự
đoán trước của thiệt hại khi nêu cụ thể rằng
thiệt hại phải là những tổn thất mà bên vi
phạm hợp đồng đã dự đoán được hoặc buộc
phải dự đoán trước được trong thời điểm ký
kết hợp đồng như là hậu quả có thể xảy ra
đối với vi phạm hợp đồng đó. Bộ nguyên
tắc Unidroit cũng có những quy định cụ
thể về tính dự đoán trước của thiệt hại ở
Điều 7.4.4: “Bên có nghĩa vụ chỉ chịu trách
nhiệm đối với những thiệt hại mà mình đã
dự đoán trước hoặc đã có thể dự đoán trước
một cách hợp lý, vào thời điểm giao kết hợp
đồng như một hậu quả có thể xảy ra từ việc
không thực hiện”.
Xét quy định của Luật Thương mại Việt
Nam, chúng tôi thấy rằng, Điều 302 có quy
định về tính trực tiếp, thực tế của thiệt hại
mà không nói rõ về tính dự đoán trước. Một
số học giả cho rằng, thiệt hại theo quy định
của Luật Thương mại 2005 là có tính dự
đoán trước11. Tuy nhiên, theo quan điểm cá
nhân, chúng tôi thấy rằng từ tính trực tiếp,
thực tế (với nghĩa tương đương với tính xác
thực của thiệt hại - “certainty of damages”
theo Bộ nguyên tắc Unidroit) mà suy luận ra
tính dự đoán trước thì còn nhiều vấn đề cần
bàn luận. Bởi vì, thứ nhất, tính xác thực, trực
tiếp của thiệt hại và tính dự đoán trước của
thiệt hại không phải là một. Ví dụ rõ ràng là
Bộ nguyên tắc Unidroit có hai điều luật riêng
biệt về hai tính chất này là Điều 7.4.3 và
7.4.4; thứ hai, mặc dù từ tính dự đoán trước
có thể suy rộng ra tính xác thực của thiệt hại
như trường hợp của Công ước CISG12, việc
suy luận ngược lại rằng từ tính trực tiếp, xác
thực mà hiểu thêm có tính dự đoán trước thì
cần phải có thêm lý giải xác đáng. Mặc dù
nếu thiệt hại là thực tế, trực tiếp thì thiệt hại
đó phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi
vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, vì thiệt hại có
mối quan hệ nhân quả nên nó có tính dự đoán
trước là một điều chưa chắc. Bởi vì không
phải thiệt hại có mối quan hệ nhân quả nào
bên vi phạm cũng có thể dự liệu trước; thứ
ba, một số nước trên thế giới ví dụ như Pháp
không giới hạn mức thiệt hại được đền bù
trong phạm vi dự đoán trước13. Như vậy, tính
xác thực không nhất thiết phải đi cùng tính
dự đoán trước.
c. Về giá trị tính toán của các khoản bồi
thường thiệt hại
Công ước CISG và Bộ nguyên tắc Unidroit
có phương thức tính toán thiệt hại gần giống
nhau trong trường hợp hợp đồng bị hủy. Điều
75 Công ước CISG đưa ra cách tính toán thiệt
hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy và bên
bị vi phạm đã ký một hợp đồng thay thế. Lúc
này bên bị thiệt hại sẽ được bồi thường khoản
chênh lệch giữa giá theo hợp đồng và giá của
giao dịch thay thế. Điều 76 đưa ra cách tính
toán thiệt hại trong trường hợp hủy hợp đồng
nhưng bên bị thiệt hại đã không ký hợp đồng
thay thế. Bộ nguyên tắc Unidroit cũng có
những điều khoản tương tự là Điều 7.4.5 và
7.4.6.
Tuy nhiên, không tìm thấy những quy định
tương tự như vậy trong Luật Thương mại Việt
Nam mặc dù trong thực tế cách tính toán thiệt
hại như trên là khá thông dụng14.
d. Về nghĩa vụ chứng minh thiệt hại
Điều 302 Luật Thương mại Việt Nam quy
định nghĩa vụ này thuộc về bên yêu cầu bồi
thường thiệt hại. Họ phải chứng minh tổn
thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm
gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi
(11) Xem thêm Phạm Duy Nghĩa, Tìm hiểu Luật Thương mại Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, 2000, tr.108; Xem thêm Giáo trình luật hợp
đồng thương mại quốc tế, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr.58.
(12) Xem John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008, “Công ước CISG không quy
định về tính xác thực của thiệt hại. Trong bài viết, tác giả đã biện luận giải thích tính dự đoán trước cần mối quan hệ nhân quả,
từ đó mà thiệt hại là xác thực”.
(13) Xem thêm Giáo trình luật hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, tr.58.
(14) Xem thêm 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Trung tâm trọng tài quốc tế VIAC,Hà nội, 2002, tr.70.
Số 22(159) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 51112009
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
phạm. Bộ nguyên tắc Unidroit thì đòi hỏi ở
Điều 7.4.3 rằng “những thiệt hại chỉ được bồi
thường khi chúng được thiết lập với một mức
độ hợp lý về tính xác thực”. Bộ nguyên tắc
của Unidroit còn quy định thêm trường hợp
“khi không thể thiết lập với một mức độ đầy
đủ tính xác thực về khoản tiền bồi thường thì
thiệt hại được xác định tùy theo Tòa án”. Về
vấn đề trên, Công ước CISG như đã đề cập
không quy định về tính xác thực của thiệt
hại15 và cũng không xác định mức độ mà bên
bị thiệt hại cần chứng minh về tổn thất được
đền bù.
e. Về đồng tiền tính toán thiệt hại
Cả Luật Thương mại Việt Nam và Công
ước CISG đều không có điều khoản về đồng
tiền dùng để tính toán thiệt hại. Tuy nhiên,
Bộ nguyên tắc Unidroit có Điều 7.4.12 quy
định về đồng tiền thanh toán thiệt hại như
sau: “Thiệt hại được tính bằng đồng tiền quy
định trong điều khoản về nghĩa vụ thanh toán,
hoặc bằng đồng tiền tại nơi thiệt hại phát sinh
tùy theo đồng tiền nào thích hợp nhất”.
f. Về điều khoản tiền lãi
Công ước CISG có Điều 78 quy định
về việc tính lãi trên khoản tiền chưa trả và
không xác định cụ thể cách tính lãi suất nợ
“Nếu một bên hợp đồng không thanh toán
tiền hàng hoặc một khoản tiền nào đó thì bên
kia có quyền được hưởng tiền lãi tính trên
khoản tiền đó mà không ảnh hưởng đối với
bất cứ yêu cầu nào về bồi thường thiệt hại
có thể nhận được theo quy định của Điều
74”. Trong khi đó Bộ nguyên tắc Unidroit lại
có một điều khoản chi tiết về tiền lãi từ việc
không thanh toán (Điều 7.4.9) với việc xác
định tỷ lệ lãi suất trung bình cho vay ngắn
hạn của ngân hàng cho đồng tiền thanh toán
của hợp đồng Bên cạnh đó, Điều 7.4.10 của
Bộ nguyên tắc còn quy định cụ thể về tiền lãi
khoản tiền bồi thường thiệt hại “Trừ trường
hợp có thỏa thuận khác, tiền bồi thường thiệt
hại do không thực hiện nghĩa vụ không phải
là nghĩa vụ thanh toán làm phát sinh tiền lãi
từ ngày không thực hiện”.
Ở đây, do Công ước CISG không quy
định cụ thể cách xác định lãi suất, nên có
thể áp dụng mức lãi suất của Bộ nguyên
tắc Unidroit để giải quyết câu hỏi đặt ra bởi
Công ước CISG16. Tuy nhiên thực tiễn áp
dụng chung lại thường sử dụng luật quốc gia
điều chỉnh hợp đồng để ấn định mức lãi suất
phù hợp hơn là lãi suất của Bộ nguyên tắc
Unidroit17.
Theo Luật Thương mại Việt Nam 2005,
Điều 306 quy định về tiền lãi: “Trong trường
hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán
tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch
vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi
phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền
lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá
hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm
thanh toán tương ứng với thời gian chậm
trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác”. Ở đây, có thể
nhận thấy sự khác biệt của Luật Thương mại
Việt Nam trong việc sử dụng lãi suất nợ quá
hạn so với lãi suất vay của Bộ nguyên tắc
Unidroit - loại lãi suất bị cho là trong một
số trường hợp đã bồi thường vượt quá cho
bên bị vi phạm18 và không được áp dụng
phổ biến so với lãi suất tiết kiệm19. Một sự
khác biệt thứ hai có thể nhận thấy là sự đổi
thay về lãi suất của Điều 306 Luật Thương
mại 2005 so với Điều 233 Luật Thương mại
1997. Tiền lãi theo Điều 306 được tính theo
lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường,
khác với lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng
(15) Xem John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008, tr.20.
(16) Xem John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008, tr.14.
(17) Xem John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008, tr.18; Xem thêm 50 phán quyết
trọng tài quốc tế chọn lọc, Trung tâm trọng tài quốc tế VIAC,Hà nội, 2002, phán quyết số 9 “Tranh chấp hợp đồng mua bán thép”,
tr.72.
(18) Xem John Y. Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008, tr.19.
(19) Xem thêm án lệ Công ước ICSID số ARB/96/1 (2000),
52 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(159) 112009
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Nhà nước Việt Nam quy định vào thời điểm
thanh toán trong Điều 233 Luật Thương mại
Việt Nam 1997: “ thì bên kia có quyền đòi
lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ
quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định
tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời
gian chậm trả”. Việc áp dụng mức lãi suất
thị trường của Luật Thương mại 2005 xem
ra là hợp lý bởi vì phương pháp này sẽ đặt
bên bị vi phạm vào vị trí như là họ đã đầu tư
khoản tiền này trên thị trường20.
2. Kiến nghị hoàn thiện chế tài bồi thường
thiệt hại của Luật Thương mại Việt Nam cho
tương thích với luật thương mại quốc tế
Trên thế giới, việc sử dụng Bộ nguyên tắc
Unidroit để bổ trợ giải thích Công ước Viên
là phổ biến. Tuy nhiên ở Việt Nam, việc sử
dụng Bộ nguyên tắc Unidroit và Công ước
Viên như những nguồn tập quán quốc tế để
giải thích luật thương mại nói chung và chế
tài bồi thường thiệt hại nói riêng là một quan
điểm chưa được thừa nhận rộng rãi. Theo tư
duy phổ biến hiện nay, đối với những vấn
đề mà luật thương mại (luật chuyên ngành)
chưa điều chỉnh thì sẽ áp dụng Bộ luật Dân
sự (đạo luật mẹ) để giải thích21. Nhưng điều
này chỉ được thừa nhận áp dụng phổ biến đối
với quan hệ thương mại quốc nội. Còn đối
với hợp đồng thương mại quốc tế, điều này
có áp dụng không? Và cho dù có áp dụng,
chế tài bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Dân
sự cũng không bao quát được hết các vấn đề
của thương mại quốc tế. Trong bối cảnh đó,
quy định về chế tài bồi thường thiệt hại trong
Luật Thương mại cần bổ sung thêm một số
điểm để đảm bảo tính rõ ràng và tương thích
với pháp luật quốc tế:
Thứ nhất, cần giới hạn rõ phạm vi thiệt
hại được bồi thường cho hợp đồng thương
mại, quy định rõ phạm vi bồi thường có bao
gồm những thiệt hại phi tiền tệ hay không,
nếu có thể nên liệt kê rõ những thiệt hại phi
tiền tệ được bồi thường nếu có chứng cớ xác
đáng như thiệt hại do mất uy tín, thiệt hại do
người chết, bị thương đến những thiệt hại
khác như chi phí luật sư, dịch thuật Và
thiệt hại có tính đến mọi khoản lợi cho bên
có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất
tránh được hay không.
Thứ hai, quy định rõ thiệt hại là có tính dự
đoán trước bên cạnh tính thực tế, trực tiếp.
Thứ ba, quy định thêm cách tính toán thiệt
hại trong trường hợp hợp đồng bị hủy với hai
khả năng là bên bị vi phạm đã ký hợp đồng
thay thế hoặc không như cách tính toán thiệt
hại với hai khả năng trên của Công ước Viên
và Bộ nguyên tắc Unidroit.
Thứ tư, quy định rõ về đồng tiền tính toán
thiệt hại là đồng tiền quy định trong điều
khoản nghĩa vụ thanh toán hoặc đồng tiền tại
nới thiệt hại phát sinh tùy theo đồng tiền nào
thích hợp nhất.
Thứ năm, xác định rõ có tính tiền lãi trên
khoản tiền bồi thường thiệt hại như quy định
tại Điều 7.4.10 của Bộ nguyên tắc Unidroit
hay không.
Tuy nhiên cần chú ý rằng, vì chế tài bồi
thường thiệt hại trong Luật Thương mại Việt
Nam trước hết là được áp dụng đối với quan
hệ thương mại quốc nội. Việc điều chỉnh nó
theo khuynh hướng áp dụng cho quan hệ
thương mại quốc tế như trên chưa hẳn là xác
đáng. Sự lựa chọn hợp lý nhất, theo chúng
tôi, là khi Luật Thương mại Việt Nam được
áp dụng cho một hợp đồng thương mại quốc
tế, nên giải thích áp dụng chế tài bồi thường
thiệt hại này theo hướng điều chỉnh trên và
để đảm bảo tính tổng quan, nên thừa nhận
việc áp dụng Công ước Viên là Bộ nguyên
tắc Unidroit để bổ trợ giải thích Luật Thương
mại nói chung và chế tài bồi thường thiệt hại
nói riêng.
(20) Xem thêm án lệ Công ước ICSID số ARB/96/1 (2000),
(21) Xem Nguyễn Bá Bình, Bàn về nội hàm khái niệm và tính hợp pháp của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Khoa học pháp lý số
1/2008, tr.34.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- che_tai_boi_thuong_thiet_hai_trong_thuong_mai_quoc_te_qua_lu.pdf