Chế tạo hệ vi giếng để nuôi cấy khối u dạng 3D
Ảnh hưởng của nồng độ PEGDA tới độ
bền hệ vi giếng
Tiến hành đánh giá ảnh hưởng của nồng độ
PEGDA tới độ bền của hệ vi giếng, lần lượt ở
các nồng độ 10%, 20%, 40%, 80% của
PEGDA-700 được chuẩn bị và tiến hành tạo
hydrogel. Các loại hydrogel PEGDA trong
khảo sát này đều được đánh giá độ ổn định trên
bề mặt phiến kính đã được phủ TMSPMA. Tất
cả các hydrogel có hàm lượng 80% PEGDA-
700 bị phân tách khỏi phiến kính vào ngày thứ
2 và ở hàm lượng 60% PEGDA-700 bị phân
tách vào ngày thứ 11. Tuy nhiên, ở các nồng
độ 10%, 20% và 40% của PEGDA-700 vẫn
được ghi nhận là ổn định trong 21 ngày. Từ các
kết quả trên có thể thấy được việc sử dụng
PEGDA-700 nồng độ thấp hơn hoặc bằng 40%
cho độ bền của hệ vi giếng phù hợp với thời
gian nuôi cấy khối u dạng 3D.
Để tiếp tục tối ưu hoá nồng độ hydrogel
PEGDA-700, chúng tôi đã so sánh kích thước
của vi giếng được chế tạo dưới các nồng độ
10%, 20% và 40% PEGDA-700. Kết quả thu
được cho thấy khi nồng độ PEGDA-700 là
10%, 20% và 40% thì thời gian phơi sáng UV
tối ưu lần lượt là 85, 55 và 12 giây để có thể
đạt được độ chính xác của vi giếng có kích
thước 200 m; 110, 75 và 20 giây để có thể đạt
được độ chính xác vi giếng 400 m và cuối
cùng là 135, 95 và 32 giây đủ để đạt độ chính
xác của vi giếng kích thước 600 m (Bảng 1).
Thời gian tiếp xúc với UV để hình thành vi
giếng có thể thay đổi phụ thuộc vào nồng độ
PEGDA-700. Tuy nhiên, chúng tôi hạn chế
việc tiếp xúc với UV để tiết kiệm thời gian và
hiệu quả của việc chế tạo. Do đó, ở điều kiện
40% PEGDA-700 mang lại thời gian trùng hợp
chính xác được sử dụng cho các thí nghiệm
tiếp theo.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế tạo hệ vi giếng để nuôi cấy khối u dạng 3D, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 25, Số 1/2020
CHẾ TẠO HỆ VI GIẾNG ĐỂ NUÔI CẤY KHỐI U DẠNG 3D
Đến tòa soạn 20-12-2019
Lê Trường Giang, Nguyễn Thành Dương
Viện Hoá học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
SUMMARY
FABRICATION OF MICROWELLS FOR CULTURING 3D CANCER SPHEROID
Cancer is the leading cause of death worldwide and current therapies do not dramatically increase the
poor prognosis. In vitro models based on two-dimensional (2D) monolayer culture have been used to
study cancer behavior but shown limited. In vitro 3D tumor models contribute a promising platform of
disease that mimics in vivo behaviors of tumor cells to develop potential cancer therapies. In this study,
we fabricated microwells from simple and cheap material PEG for the control of in vitro 3D culture by
using photolithography technique.
Keywords: PEGDA, microwells, photolithography
1. MỞ ĐẦU
Ung thư hiện nay đã gây ra khoảng 8,2 triệu ca
tử vong mỗi năm trên toàn thế giới [1]. Trong
các phương pháp điều trị ung thư hiện nay, hoá
trị vẫn đang được ứng dụng rộng rãi nhất [2].
Tuy nhiên, số lượng các thuốc điều trị ung thư
vẫn còn rất hạn chế do các trở ngại về thử
nghiệm trong nghiên cứu trong đó thiếu các
mô hình thử nghiệm tin cậy là nguyên nhân
chính [3].
Mô hình thử nghiệm thuốc hiện tại chủ yếu
dựa trên kĩ thuật nuôi cấy tế bào dạng đơn lớp
(2D) [4]. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu
thử nghiệm thuốc trên mô hình này thường khá
khác biệt với các thử nghiệm trên động vật (in
vivo) do môi trường vi mô bị thay đổi, tương
tác giữa tế bào với tế bào và tế bào ma trận
ngoại bào, làm hạn chế việc ứng dụng mô hình
để nghiên cứu chức năng cụ thể của mô tế bào
[5,6]. Do đó, cần có những phương pháp hiệu
quả hơn để cải thiện những nhược điểm mà mô
hình truyền thống 2D gặp phải và mô hình 3D
chính là giải pháp hữu hiệu để có thể giải quyết
các hạn chế được phân tích như trên.
Trong những năm gần đây, có nhiều phương
pháp đã được sử dụng để chế tạo khối u dạng
3D như well-plate, hoặc một vài loại cấu trúc
khung và vật liệu nền như collagen, hạt nano
polyme 3D, khung xốp được chế tạo từ
poly(lactide-co-glycolide) [7,8]. Trong đó,
tạo khối u dạng 3D bằng phương pháp nuôi
cấy trong hệ vi giếng đem lại nhiều kết quả
đáng tin cậy đó là phương pháp dễ thực hiện,
chi phí thấp cũng như thuận tiện trong việc chế
tạo.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chế tạo hệ vi
giếng ứng dụng trong nuôi cấy tế bào dạng 3D.
Mô hình này sẽ có những ứng dụng thực tiễn
để làm cầu nối giữa các nghiên cứu in vitro và
in vivo. Đồng thời nghiên cứu sẽ góp phần rút
ngắn được thời gian nghiên cứu về khối u, ứng
dụng trong công nghệ tế bào gốc, sinh học tế
bào và nghiên cứu thuốc.
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Nguyên liệu
174
Hình 1: Sơ đồ quy trình tạo khối u nhân tạo dạng 3D. Quy trình gồm 3 bước: bước 1, phủ lớp mỏng
PEGDA lên phiến kính; bước 2, tạo hệ vi giếng bằng phương pháp quang hoá dựa theo mạng che
quang được thiết kế bằng phần mềm AutoCAD.
Poly(ethylene glycol) dimethyl acrylate
(PEGDA) (MW 700 Da), 3-
(Trimethoxysilyl)propyl methacrylate 98%
(TMSPMA), 2-hydroxy-2-methyl
propiophenone photoinitiator (PI) được sản
xuất bởi Sigma-Aldrich Chemical Company
(St. Louis, MO).
2.2. Xử lý bề mặt phiến kính
Phiến kính (kích thước 18x18 mm của hãng
Corning Incorporated) được xử lý bề mặt bằng
3-(trimethoxysilyl)propyl methacrylate 98%
(TMSPMA) với mục đích giúp PEGDA kết
dính tốt hơn với phiến kính. Để xử lý bề mặt
phiến kính bằng TMSPMA đạt hiệu quả tốt
nhất, phiến kính đầu tiên được xử lý bằng
NaOH bằng cách ngâm qua đêm trong dung
dịch NaOH 10%. Sau đó, các phiến kính này
được rửa sạch bằng nước cất và cồn 100%
trước khi đem làm khô tự nhiên trong tủ hút.
Sau khi làm khô, phiến kính được nhỏ
TMSPMA lên bề mặt và sấy ở nhiệt độ 80C
qua đêm. Làm sạch lại sản phẩm thu được
bằng nước cất và cồn 100%. Cuối cùng, phiến
kính được chiếu UV trước khi đem sử dụng.
2.3. Chế tạo hệ vi giếng
Các vi giếng được chế tạo theo sơ đồ ở Hình 1.
Hòa tan PEGDA được hoà tan trong dung dịch
đệm PBS với nồng độ từ 10 tới 80% (w/w) và
được chuẩn bị mới cho mỗi lần thí nghiệm. PI
được hoà tan trong dung dịch PEGDA với
nồng độ 0.05% (w/w). Dung dịch được khuấy
đều trước khi tiến hành trùng hợp. Trùng hợp
hydrogel theo cơ chế quang hoá được tiến hành
bởi đèn Omnicure S2000 (320-500 nm, EXFO,
Ontario, Canada) với công suất 100 mW/Cm2
(đo ở bước sóng 365 nm) để đóng rắn hydrogel.
Bề mặt phiến kính được phủ lớp PEGDA
hydrogel mỏng để ngăn chặn sự tương tác của
tế bào với bề mặt thuỷ tinh bên dưới. Để tạo
lớp hydrogel mỏng này, nhỏ 0 µL dung dịch
PEGDA lên bề mặt phiến kính và chiếu tia cực
tím trong 30 giây ở khoảng cách cố định là 15
cm. Sau đó, nhỏ 50 đến 100 µL dung dịch
PEGDA hydrogel lên đĩa petri và phiến kính
sau khi được phủ lên lớp dung dịch hydrogel
này. Các mạng che quang được thiết kế bằng
phần mềm AutoCAD, in và đặt lên phía trên
phiến kính. Tia cực tím được chiếu phía trên
mạng che quang để tạo ra hệ vi giếng. Thời
gian chiếu tia UV được khảo sát để tìm điều
kiện tối ưu tạo ra hệ vi giếng.
175
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của nồng độ PEGDA tới độ
bền hệ vi giếng
Tiến hành đánh giá ảnh hưởng của nồng độ
PEGDA tới độ bền của hệ vi giếng, lần lượt ở
các nồng độ 10%, 20%, 40%, 80% của
PEGDA-700 được chuẩn bị và tiến hành tạo
hydrogel. Các loại hydrogel PEGDA trong
khảo sát này đều được đánh giá độ ổn định trên
bề mặt phiến kính đã được phủ TMSPMA. Tất
cả các hydrogel có hàm lượng 80% PEGDA-
700 bị phân tách khỏi phiến kính vào ngày thứ
2 và ở hàm lượng 60% PEGDA-700 bị phân
tách vào ngày thứ 11. Tuy nhiên, ở các nồng
độ 10%, 20% và 40% của PEGDA-700 vẫn
được ghi nhận là ổn định trong 21 ngày. Từ các
kết quả trên có thể thấy được việc sử dụng
PEGDA-700 nồng độ thấp hơn hoặc bằng 40%
cho độ bền của hệ vi giếng phù hợp với thời
gian nuôi cấy khối u dạng 3D.
Bảng 1. Tối ưu hóa thời gian chiếu tia UV cho PEGDA-700. Tùy thuộc vào nồng độ, thời gian chiếu tia
UV cho PEGDA-700 có sự khác nhau. (A) PEGDA-700 với nồng độ 10% tiếp xúc với tia UV từ 80 đến
140 giây. (B) 20% lượng hydrogel PEGDA-700, 200-600 mm tiếp xúc với tia UV từ 45 đến 95 giây. (C)
40% PEGDA-700 được xử lý bằng UV bắt đầu từ 10 giây đến 35 giây.
176
Để tiếp tục tối ưu hoá nồng độ hydrogel
PEGDA-700, chúng tôi đã so sánh kích thước
của vi giếng được chế tạo dưới các nồng độ
10%, 20% và 40% PEGDA-700. Kết quả thu
được cho thấy khi nồng độ PEGDA-700 là
10%, 20% và 40% thì thời gian phơi sáng UV
tối ưu lần lượt là 85, 55 và 12 giây để có thể
đạt được độ chính xác của vi giếng có kích
thước 200 m; 110, 75 và 20 giây để có thể đạt
được độ chính xác vi giếng 400 m và cuối
cùng là 135, 95 và 32 giây đủ để đạt độ chính
xác của vi giếng kích thước 600 m (Bảng 1).
Thời gian tiếp xúc với UV để hình thành vi
giếng có thể thay đổi phụ thuộc vào nồng độ
PEGDA-700. Tuy nhiên, chúng tôi hạn chế
việc tiếp xúc với UV để tiết kiệm thời gian và
hiệu quả của việc chế tạo. Do đó, ở điều kiện
40% PEGDA-700 mang lại thời gian trùng hợp
chính xác được sử dụng cho các thí nghiệm
tiếp theo.
3.2. Ảnh hưởng của xử lý bề mặt tới độ bền
hệ vi giếng
Các vi giếng sau khi chế tạo được tiến hành đánh
giá độ ổn định trước khi tiến hành quá trình nuôi
cấy tế bào trong 21 ngày. Độ ổn định của các vi
giếng PEGDA bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
khác nhau, chẳng hạn như sự biến tính bề mặt
phiến kính (bề mặt phiến kính đã và chưa xử lý
với TMSPMA). Kết quả thu được chỉ ra rằng
phiến kính được xử lý bề mặt với TMSPMA có
kết quả ổn định hơn sơ với phiến kính không
được xử lý bề mặt ở bất kì trọng lượng phân tử
PEGDA. Chỉ duy nhất 7% của cả hydrogel
PEGDA-700 vẫn ổn định trong 21 ngày khi bề
mặt kính không được xử lý TMSPMA.
Hình 2: Tính ổn định của PEGDA hydrogel trên kính che được xử lý và không được xử lý. (A) Tỷ lệ
phần trăm vi sóng ổn định được chuẩn bị bởi PEGDA-700 trên phiến kính được xử lý và không được xử
lý TMSPMA. Kết quả cho thấy kính che được xử lý bằng TMSPMA dẫn đến sự gắn kết hydrogel ổn định
so với kính che không được xử lý. (B) Nồng độ khác nhau (10% đến 80%) của PEGDA-700 đã được
điều chế và áp dụng trên kính che được xử lý TMSPMA.
4. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã chế tạo
được hệ vi giếng từ PEGDA. Một loạt các vi
giếng khác nhau về kích thước cũng như hình
dạng đã được chế tạo bằng kĩ thuật khắc quang
học. Trong tương lai gần, khối u nhân tạo dạng
3D sẽ được nuôi cấy trong thời gian dài với
hiệu năng cao và kích thước của các khối u này
phụ thuộc vào kích thước của các vi giếng,
việc chế tạo khối u 3D sẽ đóng vai trò như một
mô hình in vitro đáng tin cậy có thể làm giảm
thời gian nghiên cứu in vivo cho các nghiên
cứu tăng trưởng khối u tiền lâm sàng.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được hoàn thành với sự hỗ trợ
kinh phí từ đề tài GUST.STS.ĐT2018-HH02
177
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Islamic F., Mallath M.K. and Jemal A.,
“Primary liver cancer deaths and related years
of life lost attributable to hepatitis B and C
viruses in India,” Cancer Epidemiol., 40, pp
79–86 2016.
2. Sassier M., Dugué A.E., Clarisse B.,
Lesueur P., Avrillon V., Bizieux-Thaminy A.,
Auliac J.B., Kaluzinski L., Tillon J., Robinet
G., Le Caer H., Monnet I., Madroszyk A.,
Boza G., Falchero L., Fournel P., Egenod T.,
Toffart A.C., Leiber N., Do P., and Gervais R.,
“Renal insufficiency is the leading cause of
double maintenance (bevacizumab and
pemetrexed) discontinuation for toxicity to
advanced non-small cell lung cancer in real
world setting,” Lung Cancer, 89, pp 161–166,
2015.
3. Celli JP, et al. 3D ovarian cancer models:
imaging and therapeutic combinations. SPIE
Photonics West 2010.
4. Kunz-Schughart LA, Multicellular tumor
spheroids: intermediates between monolayer
culture and in vivo tumor. Cell Biol Int 1999;
23(3):157-161.
5. Debnath J, et al. The role of apoptosis in
creating and maintaining luminal space within
normal and oncogene-expressing mammary
acini. Cell 2002; 111(1):29-40.
6. Beningo KA, Dembo M, & Wang YL.
Responses of fibroblasts to anchorage of dorsal
extracellular matrix receptors. Proc Natl Acad
Sci U S A 2004; 101(52):18024-18029.
7. Zietarska M, et al. Molecular description of
a 3D in vitro model for the study of epithelial
ovarian cancer (EOC). Molecular
carcinogenesis 2007; 46(10):872-885.
8. Sutherland RM. Cell and environment
interactions in tumor microregions: the
multicell spheroid model. Science 1988;
240(4849):177-184.
178
Các file đính kèm theo tài liệu này:
che_tao_he_vi_gieng_de_nuoi_cay_khoi_u_dang_3d.pdf