- Đã bước đầu chế tạo thành công vật liệu
hấp phụ than hoạt tính từ bã chè.
- Đã xác định được đặc điểm bề mặt, tính
chất vật lý, cấu trúc của TAC qua ảnh hiển
vi điện tử quét, phổ Raman và giản đồ
nhiễu xạ tia X.
- Khảo sát được một số yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng hấp phụ bentazon của TAC
theo phương pháp hấp phụ tĩnh cho kết quả:
+ Thời gian đạt cân bằng hấp phụ là 180 phút.
+ pH hấp phụ tốt nhất đối với 2,4-D là 3,0.
+ Trong khoảng khối lượng vật liệu hấp
phụ đã khảo sát thì khối lượng vật liệu tối
ưu cho sự hấp phụ bentazon là 0,05g.
+ Khi tăng nhiệt độ từ 230C - 500C thì hiệu
suất hấp phụ bentazon giảm.199
- Xác định được dung lượng hấp phụ cực đại
đối với bentazon là qmax= 117,647 mg/g.
- Từ kết quả tính toán theo mô hình hấp phụ
đẳng nhiệt Langmuir, Freundlich, cho phép
kết luận quá trình hấp phụ bentazon là quá
trình tỏa nhiệt. Sự hấp phụ bentazon trên
TAC là hấp phụ vật lý xảy ra đơn lớp.
Việc sử dụng TAC để hấp phụ bentazon cho
kết quả tốt. Các kết quả thu được sẽ là cơ sở
cho định hướng nghiên cứu nhằm ứng dụng
TAC trong việc xử lý nguồn nước bị ô nhiễm.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ
bởi Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ
quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số
103.02_2014.68
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 930 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế tạo than hoạt tính từ bã chè và ứng dụng để hấp phụ thuốc diệt cỏ bentazon trong môi trường nước - Đặng Văn Thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
193
Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 20, số 3/2015
CHẾ TẠO THAN HOẠT TÍNH TỪ BÃ CHÈ VÀ ỨNG DỤNG ĐỂ HẤP PHỤ
THUỐC DIỆT CỎ BENTAZON TRONG MÔI TRƯỜNG NƯỚC
Đến tòa soạn 21 - 5 - 2 015
Đặng Văn Thành
Trường Đại học Y dược- Đại học Thái Nguyên
Đỗ Trà Hương
Trường Đại học Sư phạm- Đại học Thái Nguyên
SUMMARY
PREPARATION OF ACTIVATED CARBON FROM TEA WASTE AND ITS
APPLICATIONS FOR ADSORPTION OF BENTAZON FROM AQUEOUS SOLUTION
Activated carbon was prepared from tea waste by H2SO4 activation (TAC), and was applied to
remove bentazon from aqueous solution. The TAC was characterized by Raman Spectrometer,
X-ray diffractometer (XRD), and scanning electron microscope (SEM). The influence of pH
(1,5 – 11), contact time (30 - 300 min), and the amount of adsorbent (0,01 – 0,05 g) on
bentazon efficiency by the TAC were also investigated. The results show that the time to reach
adsorption equilibrium and the optimal pH value for adsorption of bentazon are 180 min and
3.0; 0,05g, respectively. The maximum monolayer adsorption capacity of TAC is 117,647
mg/g. The as-prepared TAC therefore acts as a promising adsorbent for the pesticide removal
from the polluted water.
Keywords: Adsorption; tea waste; Langmuir isotherrm; pesticides; bentazon.
1. MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam để bảo vệ cây trồng người ta
thường dùng các hóa chất như thuốc trừ sâu
và thuốc diệt cỏ. Bên cạnh lợi ích về bảo vệ
thực vật, sử dụng các các hóa chất trên
cũng để lại các ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường. Các hóa chất này là những hợp chất
hữu cơ bền vững, bị phân hủy chậm trong
môi trường theo thời gian, Bentazon là một
loại thuốc diệt cỏ chọn lọc sử dụng chủ yếu
cho lúa, đậu nành, đậu phộng, lúa mì và các
cây trồng khác. Con người tiếp xúc với
bentazon gây ra kích ứng mắt và đường hô
hấp [8]. Bài báo này trình bày kết quả
nghiên cứu sự hấp phụ thuốc diệt cỏ
bentazon trong môi trường nước sử dụng
vật liệu hấp phụ là than hoạt tính chế tạo từ bã
chè hoạt hóa bằng axit H2SO4.
2. THỰC NGHIỆM
194
2.1. Chế tạo vật liệu than hoạt tính từ bã
chè
Bã chè được rửa sạch bằng nước cất đun sôi
để loại bỏ tất cả các hạt bụi bẩn, sau đó cho
phản ứng với axit H2SO4 nồng độ 98% (tỷ
lệ khối lượng bã chè: thể tích H2SO4= 1:
1,5), duy trì nhiệt độ 90oC trong 4h. Hỗn
hợp sau phản ứng được làm nguội đến nhiệt
độ phòng rồi lọc qua phin lọc, rửa sạch
nhiều lần với nước cất, trung hòa bằng
dung dịch natribicarbonate 1% để loại bỏ
axit dư. Sau đó tiếp tục rửa nhiều lần với
nước cất, làm khô tại 120oC trong 24 giờ
trong tủ sấy. Vật liệu thu được có màu đen
mang ra nghiền nhỏ trong cối mã não, rây
đến kích thước khoảng 180 -300m và bảo
quản trong bình hút ẩm [5]. Vật liệu này
được kí hiệu là TAC và sử dụng khảo sát các
đặc trưng của nó.
2.2. Khảo sát tính chất lý hóa, đặc điểm
bề mặt của TAC
Cấu trúc của TAC được kiểm tra bởi máy
nhiễu xạ kế D2 sử dụng bức xạ Cu-Kα và
phin lọc Ni có bước song λ = 0.1542 nm.
Các phép đo khảo sát cấu tạo phân tử của
TAC sử dụng máy quang phổ Raman
Horiba Jobin Yvon Lab RAM HR 800
nguồn kích thích là laze He–Ne với bước
sóng kích thích là 632 nm. Hình thái học
của TAC được khảo sát sử dụng kính hiển
vi điện tử quét Hitachi SU 8000 hoạt động
tại điện thế tại 15 kV. Tính chất vật lý của
than hoạt tính chế tạo được trong báo cáo
này được so sánh thêm với than hoạt tính
thương mại (Showa, Japan Industries)
thông qua việc ghi giản đồ nhiễu xạ tia X
(XRD) và phổ Raman.
2.2. Nghiên cứu sự hấp phụ bentazon của
TAC bằng phương pháp hấp phụ tĩnh
*Khảo sát ảnh hưởng của pH
Lấy các bình eclen có dung tích 100mL,
mỗi bình chứa 0,05g TAC và 25mL dung
dịch bentazon (Sigma-Aldrich, 97%) có
nồng độ đầu là 98,548 mg/L (đã được xác
định chính xác nồng độ). Dùng dung dịch
NaOH 0,1M và HCl 0,1M để điều chỉnh pH
của các dung dịch đến các giá trị tương ứng
là 1,65; 2,96; 4,52; 5,97; 7,15; 8,54; 9,78;
11,03. Tiến hành lắc trên máy lắc với thời
gian 180 phút, ở nhiệt độ phòng (~25oC)
với tốc độ 200 vòng/phút.
*Khảo sát ảnh hưởng của thời gian
Chuẩn bị các eclen có dung tích 100mL,
cho vào mỗi eclen khoảng 0,05g TAC và
25mL dung dịch bentazon có các nồng độ
đầu là 51,481; 75,895; 102,612mg/L (đã
được xác định chính xác nồng độ). Lắc đều
trong thời gian 30, 60, 90, 120, 150, 180,
240, 300 phút, ở nhiệt độ phòng (~25oC)
với tốc độ 200 vòng/phút.
* Khảo sát ảnh hưởng của khối lượng
TAC
Cân TAC vào mỗi eclen có dung tích
100mL với khối lượng lần lươt là: 0,01g;
0,05g; 0,1g; 0,2g; 0,3g. Cho tiếp vào mỗi
eclen 25mL dung dịch bentazon có nồng độ
là 98,653mg/L (đã được xác định chính xác
nồng độ) có pH = 3.0; thời gian lắc 180
phút, ở nhiệt độ phòng (~25oC) với tốc độ
200 vòng/phút.
*Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ
Chuẩn bị 4 bình eclen có dung tích 100mL,
cho vào mỗi eclen 25mL dung dịch
bentazon có nồng độ 97,82mg/L, có pH là
195
3,0 (đã xác định chính xác nồng độ). Sử
dụng máy khuấy từ gia nhiệt điều chỉnh
nhiệt độ của mỗi bình tương ứng là 230C,
300C, 400C, 500C (± 1oC); tiếp đó cho vào
mỗi eclen khoảng 0,05g TAC, lắc trong
thời gian 180 phút, tốc độ 200 vòng/phút
Nồng độ trước và sau khi hấp phụ của
bentazon trong dung dịch được xác định
bằng phương pháp đo quang.
- Dung lượng hấp phụ tính theo công thức:
m
)VcbC(Cq
0
Trong đó: V là thể tích dung dịch (l). m là
khối lượng chất hấp phụ (g), C0 là nồng độ
dung dịch ban đầu (mg/l), Ccb là nồng độ
dung dịch khi đạt cân bằng hấp phụ (mg/l),
q là dung lượng hấp phụ tại thời điểm cân
bằng (mg/g).
- Dung lượng hấp phụ cực đại được xác
định theo phương trình hấp phụ Langmuir dạng
tuyến tính:.
cb
cb
m ax m ax
C 1 1
.C
q q q .b
Trong đó: qmax là dung lượng hấp phụ cực đại
(mg/g), b là hằng số Langmuir.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả khảo sát đặc điểm bề mặt,
tính chất vật lý của VLHP
Kết quả chụp SEM của bã chè và TAC
được trình bày trong hình 1, 2. Có thể nhận
thấy, bề mặt của TAC khác biệt rõ rệt so
với bã chè ban đầu, cấu trúc xốp và lớp.
Kết quả này chứng tỏ TAC có khả năng
làm vật liệu hấp phụ.
Hình 1: Hình thái học bề mặt
của bã chè
Hình 2: Hình thái học bề mặt của TAC
Hình 3: Giản đồ nhiễu xạ XRD của TAC và
than hoạt tính thương mại (CAC)
Hình 3 và 4 là giản đồ nhiễu xạ XRD và
phổ Raman của than hoạt tính chế tạo từ bã
chè (TAC) và than hoạt tính thương mại
trên thị trường (commercial activated
carbon-CAC). Nhận thấy rằng CAC có các
đỉnh nhiễu xạ rộng xung quanh 23,620 và
43.020, tương ứng với cấu trúc cacbon
196
graphit [3]. Tuy nhiên, ở TAC góc 23,620
bị dịch chuyển về phía bên trái, xung quanh
góc 20,6 0, góc 43.020 bị suy biến hoàn toàn
và cường độ góc xung quanh đỉnh 10,50
liên hệ với các liên kết oxy hoặc khuyết tật
giảm rõ rệt, chỉ ra sự kết tinh tốt hơn trong
TAC so với CAC. Phổ tán xạ Raman của
hai vật liệu đều có đỉnh xung quanh 1590
cm-1 tương ứng với các dao động của đỉnh
phổ đặc trưng G của cấu trúc cacbon
graphite [9,10]. Chú ý rằng đỉnh phổ đặc
trưng D trong TAC dịch đi rõ rệt, từ 1340
cm-1 (CAC) dịch đến 1370 cm-1 (TAC) và
tỷ số cường độ tín hiệu của đỉnh D so với
đỉnh G giảm rõ rệt, từ ID/IG = 1,1 (CAC)
tới ID/IG = 0,6 (TAC) chỉ ra thành phần kết
tinh của cấu trúc graphite nhiều hơn trong
TAC so với CAC, phù hợp với kết quả
XRD trong hình 4. Từ kết quả XRD và
Raman có thể cho rằng than hoạt tính thu
được từ hoạt hóa bã chè bằng H2SO4 có cấu
trúc gần với các tinh thể carbon graphit dạng
tấm hoặc lớp, và khá gần cấu trúc của
graphen đa lớp [9,10], như đã được chỉ ra
trong kết quả ảnh SEM trong hình 2.
Hình 4: Phổ Raman của TAC và
than hoạt tính thương mại (CAC)
3.2. Khảo sát ảnh hưởng của pH
Quá trình hấp phụ bị ảnh hưởng rất nhiều
bởi pH của môi trường. Sự thay đổi pH của
môi trường dẫn đến sự thay đổi về bản chất
của chất bị hấp phụ, các nhóm chức bề mặt,
thế oxy hóa khử, dạng tồn tại của hợp chất
đó. Vì vậy, pH luôn là yếu tố đầu tiên và
quan trọng ảnh hưởng tới tất cả các quá trình
xử lý môi trường nước hiện nay. Việc xác
định được khoảng pH nhất định cho một quá
trình nào đó để đạt hiệu quả cao nhất là
không thể thiếu được. Hình 5 cho thấy: Khi
giá trị pH tăng thì hiệu suất hấp phụ
bentazon của TAC giảm dần. Điều này được
giải thích như sau: bentazon có giá trị pKa là
3,3 [8], tại các giá trị pH lớn hơn các giá trị
pKa, bentazon tồn tại chủ yếu ở dạng anion
hay khi giá trị pH tăng lên, mức độ phân ly
của phân tử bentazon tăng lên. Do đó làm
giảm hiệu suất hấp phụ của TAC. Mặt khác
ở các giá trị pH cao (lớn hơn giá trị điểm
đẳng điện) bề mặt vật liệu tích điện âm xuất
hiện lực đẩy tĩnh điện giữa bề mặt TAC với
bentazon tồn tại ở dạng anion. Vì vậy chúng
tôi chọn giá trị pH = 3,0 cho quá trình hấp
phụ bentazon đối với TAC, giá trị này được
sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo.
50
55
60
65
70
75
80
85
1,65 2,96 4,52 5,97 7,15 8,54 9,78 11,03
H (%)
pH
Hình 5: Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của
hiệu suất hấp phụ bentazon của TAC vào pH
3.3. Khảo sát thời gian đạt cân bằng hấp
phụ
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của pH đến
khả năng hấp phụ bentazon được chỉ ra ở
hình 6.
197
Hình 6: Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của
hiệu suất hấp phụ bentazon của TAC vào
thời gian
Từ hình 6 ta thấy các đường đồ thị biểu
diễn sự phụ thuộc của hiệu suất hấp phụ
bentazon vào thời gian khi khảo sát ở
những nồng độ khác nhau đều cho dáng
điệu đồ thị như nhau. Cụ thể là: Trong
khoảng thời gian 30-300 phút, hiệu suất hấp
phụ bentazon tăng tương đối nhanh từ 30-180
phút và tăng theo quy luật gần như tuyến tính
và dần ổn định trong khoảng thời gian 180 -
300 phút. Do vậy, chúng tôi chọn thời gian
đạt cân bằng hấp phụ là 180 phút với
bentazon. Kết quả này được sử dụng cho các
thí nghiệm tiếp theo.
3.4. Khảo sát ảnh hưởng của khối lượng
TAC
Hình 7 là đồ thị biểu diễn ảnh hưởng của
khối lượng của TAC đến hiệu suất hấp phụ
bentazon.
30
40
50
60
70
80
90
0,01 0,05 0,1 0,2 0,3
H (%)
m (gam)
Hình 7: Đồ thị biểu diễn ảnh hưởng
của khối lượng TAC đến hiệu suất hấp phụ
bentazon
Từ hình 7 ta thấy khi tăng khối lượng TAC
hiệu suất hấp phụ bentazon tăng, dung lượng
hấp phụ giảm trong khoảng khối lượng vật
liệu hấp phụ được khảo sát. Điều này có thể lí
giải do có sự tăng của số vị trí các tâm hấp
phụ. Tuy nhiên trong khoảng khối lượng
TAC tăng từ 0,01- 0,05g, hiệu suất hấp phụ
tăng nhiều (từ 46,89% đến 82,73%), còn khi
giá trị khối lượng TAC tăng từ 0,05 - 0,3g thì
hiệu suất hấp phụ tăng không đáng kể (từ
82,73% đến 85,35%). Vì vậy tôi lựa chọn
khối lượng TAC bằng 0,05g cho các nghiên
cứu tiếp theo đối với bentazon.
3.5. Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ
H(%)
74
76
78
80
82
84
86
296 303 313 323 T (K)
Hình 8: Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc hiệu
suất hấp phụ vào nhiệt độ
Kết quả được chỉ ra ở hình 8 cho thấy khi
tăng nhiệt độ thì cả hiệu suất hấp phụ và dung
lượng hấp phụ đều giảm. Điều này chứng tỏ
sự hấp phụ bentazon của TAC là quá trình tỏa
nhiệt. Vì vậy, khi tăng nhiệt độ, cân bằng hấp
phụ chuyển dịch theo chiều nghịch tức làm
tăng nồng độ chất bị hấp phụ trong dung dịch
và dẫn đến làm giảm hiệu suất và dung lượng
hấp phụ của quá trình hấp phụ. Điều này cũng
cho thấy sự hấp phụ bentazon trên TAC là
hấp phụ vật lý [8].
3.6. Khảo sát dung lượng hấp phụ theo
mô hình hấp phụ đẳng nhiệt Langmuir
Chúng tôi tiến hành khảo sát cân bằng hấp
phụ theo mô hình đẳng nhiệt hấp phụ
Langmuir. Kết quả được thể hiện trong các
hình 9.
198
y = 0,0085x + 0,2399
R2 = 0,9986
0
0,5
1
1,5
2
2,5
3
3,5
4
4,5
5
0 100 200 300 400 500 600
C(c/b)/q
Cc/b (mg/L)
Hình 9: Sự phụ thuộc Ccb/q vào Ccb của
bentazon
Từ đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của Ccb/q
(g/l) vào Ccb (mg/l) đối với bentazon tính
được các giá trị dung lượng hấp phụ cực đại
qmax và hằng số Langmuir b như sau:
Bảng 1: Dung lượng hấp phụ cực đại và
hằng số Langmuir
Dung lượng hấp phụ cực đại
qmax (mg/g)
117,647
Hằng số Langmuir b 0,0354
Từ các kết quả thực nghiệm cho thấy hệ số
hồi quy tuyến tính R2 > 0,99 cho thấy quá
trình hấp phụ bentazon tuân theo mô hình
đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir, hấp phụ xảy ra
trên bề mặt TAC là hấp phụ đơn lớp và quá
trình hấp phụ cân bằng khi dung lượng hấp
phụ đạt cực đại.
3.7. Khảo sát quá trình hấp phụ theo mô
hình hấp phụ đẳng nhiệt Freundlich
Kết quả được trình bày ở hình 10.
y = 0,3919x + 1,0669
R2 = 0,9404
0
0,5
1
1,5
2
2,5
0,5 1 1,5 2 2,5 3
log(Cc/b)
log(q)
Hình 10: Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc lgq
vào lgCcb đối với sự hấp phụ bentazon
Từ đồ thị sự phụ thuộc của lgq vào lgCcb
đối với sự hấp phụ bentazon của TAC ta xác
định được:
Bảng 2: Các hằng số của phương trình
Freundlich
k n
11,665 2,552
Mô hình đẳng nhiệt hấp phụ Freundlich mô tả
tương đối chính xác sự hấp phụ bentazon của
TAC. Điều này thể hiện qua hệ số tương quan
R2 của đường đẳng nhiệt hấp phụ bentazon là
0,9404. Tuy nhiên mô hình đẳng nhiệt hấp phụ
Langmuir mô tả thích hợp hơn quá trình hấp
phụ bentazon của TAC so với mô hình đẳng
nhiệt hấp phụ Freundlich. Mô hình đẳng nhiệt
hấp phụ Langmuir thường được áp dụng cho
quá trình hấp phụ đơn lớp, tất cả các tâm hấp
phụ đều ở trạng thái cân bằng và bề mặt là
đồng nhất, mỗi phân tử chỉ hấp phụ trên một
tâm xác định và các phân tử bị hấp phụ độc lập
không tương tác với nhau. Điều này cũng cho
thấy sự hấp phụ bentazon trên TAC là hấp phụ
vật lý xảy ra đơn lớp [8].
4. KẾT LUẬN
- Đã bước đầu chế tạo thành công vật liệu
hấp phụ than hoạt tính từ bã chè.
- Đã xác định được đặc điểm bề mặt, tính
chất vật lý, cấu trúc của TAC qua ảnh hiển
vi điện tử quét, phổ Raman và giản đồ
nhiễu xạ tia X.
- Khảo sát được một số yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng hấp phụ bentazon của TAC
theo phương pháp hấp phụ tĩnh cho kết quả:
+ Thời gian đạt cân bằng hấp phụ là 180 phút.
+ pH hấp phụ tốt nhất đối với 2,4-D là 3,0.
+ Trong khoảng khối lượng vật liệu hấp
phụ đã khảo sát thì khối lượng vật liệu tối
ưu cho sự hấp phụ bentazon là 0,05g.
+ Khi tăng nhiệt độ từ 230C - 500C thì hiệu
suất hấp phụ bentazon giảm.
199
- Xác định được dung lượng hấp phụ cực đại
đối với bentazon là qmax= 117,647 mg/g.
- Từ kết quả tính toán theo mô hình hấp phụ
đẳng nhiệt Langmuir, Freundlich, cho phép
kết luận quá trình hấp phụ bentazon là quá
trình tỏa nhiệt. Sự hấp phụ bentazon trên
TAC là hấp phụ vật lý xảy ra đơn lớp.
Việc sử dụng TAC để hấp phụ bentazon cho
kết quả tốt. Các kết quả thu được sẽ là cơ sở
cho định hướng nghiên cứu nhằm ứng dụng
TAC trong việc xử lý nguồn nước bị ô nhiễm.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ
bởi Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ
quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số
103.02_2014.68.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đỗ Trà Hương, Lê Xuân Quế. (2014)
“Nghiên cứu hấp phụ Cr(VI), Ni(II) bằng
vật liệu hấp phụ oxit từ tính nano Fe3O4
phân tán trên bã chè”. Tạp chí Hóa học, tập
52, số 5A, tr 41-46.
[2]. Đỗ Trà Hương. Lê Xuân Quế, Đặng
Văn Thành. (2014) “Nghiên cứu hấp phụ
màu phẩm đỏ hoạt tính ĐH 120 bằng vật
liệu bã chè”. Tạp chí Hóa học, tập 52, số
(6ABC), tr 46-52.
[3]. Rajesh Madhu, Kalimuthu Vijaya
Sankar, Shen-Ming Chen, Ramakrishnan
Kalai Selvan, (2014) “Eco-friendly
synthesis of activated carbon fromdead
mango leaves for the ultra high sensitive
detection of toxic heavy metal ions and
energy storage applications”, RSC
Advances, 4, pp 1225-1233.
[4]. S. Senthilkumaar, P.R. Varadarajan, K.
Porkodi, C.V. Subbhuraam, (2005)
“Adsorptionof methylene blue onto jute
fiber carbon: kinetics and equilibrium
studies”, J.Colloid Interf. Sci. 284, pp 78-82.
[5]. T Celal Durana, Duygu Ozdesa, Ali
Gundogdub, Mustafa Imamogluc, Hasan Basri
Senturk, (2011) “Tea-industry waste activated
carbon, as a novel adsorbent for separation,
preconcentration and speciation of chromium”.
Analytica Chimica Acta , 688, pp 75-83.
[6]. V. Vadivelan, K.V. Kumar, (2005)
“Equilibrium, kinetics, mechanism, and
process designfor the sorption of methylene
blue onto rice hush”, J. Colloid Interf. Sci.
286, pp 90–100.
[7]. Xiaoping Yang, Xiaoning Cui, (2013)
“Adsorption characteristics of Pb(II) on
alkali treated tea residue”. Water
Resourcesand Industry, 3, pp 1-10.
[8]. J.M. Salmana, V.O. Njokua,b, B.H.
Hameeda; (2011) “Adsorption of pesticides
from aqueous solution onto banana stalk
activated carbon”, Chemical Engineering
Journal, 174, pp 41– 48.
[9] Ferrari, A. C.; Meyer, J. C.; Scardaci,
V.; Casiraghi, C.; Lazzeri, M.; Mauri, F.;
Piscanec, S.; Jiang, D.; Novoselov, K. S.;
Roth, S.; Geim, A. K.: (2006) “Raman
Spectrum of Graphene and Graphene
Layers”. Physical Review Letters, 97,
pp187- 401.
[10] Geng, J.; Kong, B.-S.; Yang, S. B.;
Jung, H.-T. (2010) “Preparation of
graphene relying on porphyrin exfoliation
of graphite”. Chemical Communications,
46, pp 5091-5093.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22423_74967_1_pb_2972_2096790.pdf