Tại Tp.Vị Thanh tỉnh Hậu Giang, độ bao phủ
BHYT năm 2012 đối với người dân hộ cận nghèo
có mức độ khả quan so với thời gian trước.
Bao phủ BHYT có ảnh hưởng đến sự lựa
chọn dịch vụ y tế với tỷ lệ chọn nơi KCB là cơ
quan y tế công cao hơn ở người có BHYT. Người
không có BHYT có tần số chọn tự mua thuốc
điều trị và phòng mạch tư cao hơn.
Đối với người có tham gia BHYT thì khi điều
trị bệnh nội trú hầu hết đều sử dụng BHYT.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 439 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chi phí y tế và độ bao phủ bảo hiểm y tế ảnh hưởng đến việc sử dụng các dịch vụ y tế nhóm cận nghèo tại thành phố Vị Thanh tỉnh Hậu Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 380
CHI PHÍ Y TẾ VÀ ĐỘ BAO PHỦ BẢO HIỂM Y TẾ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG CÁC DỊCH VỤ Y TẾ NHÓM CẬN NGHÈO
TẠI THÀNH PHỐ VỊ THANH TỈNH HẬU GIANG
Nguyễn Bích Hà*, Phùng Đức Nhật*, Nguyễn Thị Thùy*, Mai Tiến Thành*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Người dân hộ cận nghèo đang được ngân sách hỗ trợ từ 50% ‐ 70% để mua bảo hiểm y tế
(BHYT). Chi phí y tế có thể chiếm một phần đáng kể trong chi tiêu của hộ gia đình và BHYT có thể ảnh hưởng
tới lựa chọn sử dụng các dịch vụ y tế của nhóm này.
Mục tiêu: Xác định chi phí y tế và tỷ trọng của nó trong chi tiêu gia đình, độ bao phủ BHYT và ảnh hưởng
của BHYT đến việc sử dụng dịch vụ y tế của người dân hộ cận nghèo tại Tp.Vị Thanh tỉnh Hậu Giang.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Lấy mẫu cụm, được 328 hộ cận nghèo. Phỏng vấn
người đại diện hộ cận nghèo về tham gia BHYT, sử dụng dịch vụ y tế, chi phí y tế của các thành viên trong gia
đình trong 6 tháng vừa qua so với thời điểm điều tra vào tháng 7/2012.
Kết quả: Có 95,7% hộ cận nghèo có chi trả chi phí y tế. Chi phí y tế trực tiếp có trung vị là 700.000
đồng/hộ/6 tháng, khoảng tứ vị (KTV) 200.000 – 1.700.000 đồng; chi phí phi y tế trực tiếp là 200.000 đồng/hộ/6
tháng, KTV 100.000 – 701.000 đồng; tổng chi phí trực tiếp chiếm 4,78%; tổng chi phí hộ gia đình (KTV 1,66 –
13,73%). Tỷ lệ hộ gia đình có chi phí thảm họa là 6,1%. Tỷ lệ hộ gia đình có tham gia BHYT là 69,5% và tính
theo đầu người có BHYT là 40,8%. Bao phủ BHYT có ảnh hưởng đến sự lựa chọn dịch vụ y tế với nơi khám
chữa bệnh (KCB) là cơ quan y tế công cao hơn ở người có BHYT (tỷ lệ 65,39%); người không có BHYT có tần số
chọn tự mua thuốc điều trị và phòng mạch tư cao hơn (tỷ lệ 77,38%); khác biệt có ý nghĩa thống kê, p<0,001. Nơi
đến KCB bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất là bệnh viện Tp.Vị Thanh (28%), kế đến là phòng mạch tư (18,4%), còn tỷ lệ
tới KCB ở tuyến tỉnh Hậu Giang chỉ 9,5% và tuyến tỉnh thành phố khác hoặc trung ương chỉ 2,8% trên tổng số
lượt KCB.Người có tham gia BHYT thì khi điều trị bệnh nội trú phần lớn đều sử dụng BHYT (91,2%), trong khi
khám bệnh ngoại trú tỷ lệ này là 56,9%. Những trường hợp bệnh nhẹ và thông thường thì người bệnh chỉ mua
thuốc tự điều trị hoặc không điều trị (33,8%).
Kết luận: Tỷ lệ bao phủ BHYT cho từng cá nhân thuộc hộ cận nghèo có cao hơn trước nhưng còn ở mức
thấp hơn tỷ lệ chung. Cần tăng cường các biện pháp để họ tiếp cận và có điều kiện mua được BHYT cho tất cả các
thành viên trong gia đình cũng như được tuyên truyền để giảm các hành vi tự điều trị bệnh, tăng sử dụng
BHYT khi KCB đúng tuyến.
Từ khoá: chi phí y tế, độ bao phủ bảo hiểm y tế, cận nghèo.
ABSTRACT
IMPACT OF HEALTH CARE EXPENDITURES AND COVERAGE OFHEALTH INSURANCE ON
UTILITY OF HEALTH CARE SERVICES AMONG MAGINALLY POOR PEOPLE IN VI THANH CITY,
HAU GIANG PROVINCE
Nguyen Bich Ha, Phung Duc Nhat, Nguyen Thi Thuy, Mai Tien Thanh
* Y Hoc Tp. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 380 – 387
Introduction: The maginally poor familiesare now supported from 50%to 70% of total cost for
purchase of health insurance. Health care expenditures might be accounted for a significant portion of
Viện Y tế Công cộng Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Bích Hà ĐT: 0908877820 Email: nguyenbichha@ihph.org.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 381
household expenditures of these group of patients; thus, the available or lack of health insurance may affect
considerations of using health care services among them.
Objective: To define the health care expenditures and its weighted proportion on household expenditures,
the coverage of health insurance and its effects on using the health care services of maginally poor families in Vi
Thanh city, Ha Giang province.
Methods of the research: A cross‐sectional study with cluster sampling procedures was conducted on 328
maginally poor families. Face‐to‐face interviews were performed with representatives of the households. The
questionnaire included information about health insurance purchase, access of health care services, health care
expenditures of family members in the last 6 months (from 7/2012 to the time of conducting study).
Result: There was 95.7% households spent money for health care services in the last six months. The median
of directly medical costs and non‐medical cost were 700,000VND (interquartile range 200,000 – 1,700,000) and
200,000 VND (IQR 100,000 – 701,000) per household in 6 months, respectively. The proportion of directly
medical cost was 4.78% of total health care expenditures (IQR 1.66% – 13.73%). The proportion of households
with cost for disaster preparedness was 6.1%. The proportion of households with health insurance was 69.5%,
yielding 40.8% per capita. Health insurance coverage might affect choices of health care facilities in which the
proportion of patients with health insurance treated at public health care facilities higher than patients without
health insurance, while patients without health insurance treated at private clinic more frequent than patient with
health insurance. Such difference had a significantly statistical meaning with p<0,001. The highest chosen health
facilities by patients was Vi Thanh General Hospital (28%), followed by private clinics (18.4%). Other health
facilities such as Hau Giang Hospital and other provincial hospitals were merely chosen by a small amount of
patients (9.5% and 2.8%, respectively).Most of patients used their health insurance for hospital stays (91.2%),
while only 56.9% used for outpatients services. For patients with mild and common illnesses, they were self‐care
or bought drug at pharmacies and treated at home (33.8%).
Conclusion: The coverage of health insurance among marginally poor households was low. It should have
intervension measures to enhance their access to health insurance and increase the affordability of health
insurance for all family members as well. Communication was also neccessary for reducing self‐treatment
behavior and increasing proper usage of health insurance toward this subgroup of patients
Keywords: Health care expenditure, health insurance coverage, marginally poor households.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, chi phí y tế chiếm một tỷ trọng
nhất định trong chi tiêu hộ gia đình ngày nay.
Theo các cuộc điều tra xã hội học con số tuyệt đối
chi phí cho y tế không khác nhau nhiều giữa các
nhóm thu nhập, nhưng tỷ trọng của nó trong
tổng số chi tiêu là khác biệt(6). Người nghèo,
người thu nhập thấp thường phải chi ở tỷ trọng
cao cho chi phí y tế, họ không có điều kiện để
khám chữa bệnh thường xuyên cộng với nguy cơ
bị nghèo hóa bởi chi phí y tế(1). Bảo hiểm y tế
(BHYT) chính là một hình thức tương trợ xã hội
rất có giá trị để mỗi người tham gia có thể vượt
qua được những rủi ro về sức khỏe một cách
thuận lợi hơn. Các đối tượng người nghèo, cận
nghèo, người có thu nhập thấp đang được hưởng
hỗ trợ mua BHYT từ Chính phủ và các tổ chức xã
hội. Tuy nhiên, trong khi người thuộc hộ nghèo
được cấp miễn phí thẻ BHYT (hỗ trợ 100%) thì
người thuộc hộ cận nghèo được hỗ trợ tối thiểu
50% để mua BHYT(5). Việc bỏ ra một khoản tiền
để mua BHYT (tự nguyện) đối với người dân
chưa phải là một việc được chấp thuận dễ dàng
đặc biệt đối với người cận nghèo là người còn rất
eo hẹp về kinh tế. Vì thế, theo báo cáo năm 2010
của Vụ BHYT – Bộ Y tế, tỷ lệ bao phủ BHYT
chung đạt gần 60% dân số nhưng riêng nhóm cận
nghèo mới đạt 11,5%. Bên cạnh 50% phí BHYT
được hỗ trợ từ ngân sách thì tùy từng địa phương
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 382
mà người cận nghèo được hỗ trợ thêm cho tới
90% để mua BHYT. Người cận nghèo luôn ở một
ranh giới nhạy cảm, đó là khi mắc bệnh họ sẽ
phải tốn các chi phí y tế cả trực tiếp và gián tiếp
dù họ có BHYT hay không. Các chi phí y tế có thể
là gánh nặng kéo họ trở lại vào nhóm nghèo và
điều này đi ngược với chủ trương xóa đói giảm
nghèo cũng như những phấn đấu của cá nhân và
cả cộng đồng. Nghiên cứu chi phí y tế, độ bao
phủ bảo hiểm y tế của nhóm cận nghèo tại một
địa phương để đánh giá thực trạng và ảnh hưởng
của nó lên việc sử dụng các dịch vụ y tế để có các
giải pháp nhằm chăm sóc sức khỏe tốt hơn cho
nhóm đối tượng này.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và thời gian: Hộ cận nghèo thuộc
thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang, tiến hành
vào tháng 7/2012.
Thiết kế nghiên cứu: cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu 1 tỷ lệ:
p x (1‐p)
n = Z21‐α/2x ──────
d2
Với độ tin cậy 95%, Z = 1,96; sai số d = 0,05;
Tham khảo tỷ lệ bao phủ BHYT hộ cận
nghèo toàn quốc 2010, p = 0,12. Áp dụng kỹ
thuật lấy mẫu cụm, hệ số thiết kế k = 2, cỡ mẫu n
= 330 hộ cận nghèo.
Phỏng vấn trực tiếp đối tượng đại diện cho
hộ (Từ 18 – 65 tuổi, ưu tiên chủ hộ) bằng bộ câu
hỏi soạn sẵn. Chi phí y tế trực tiếp gồm chi cho
khám bệnh, mua thuốc, trả viện phí, trong
nghiên cứu này chỉ hỏi đến góc độ khám chữa
bệnh (KCB).
Chi phí phi y tế trực tiếp gồm chi cho sinh
hoạt của bệnh nhân và người chăm bệnh khi
nằm viện, tiền xe đi lại đến nơi khám chữa bệnh.
Chi phí cơ hội ước tính bằng thu nhập theo ngày
nhân với ngày công mất đi của bệnh nhân nằm
viện và của người nhà đi theo chăm bệnh.
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.0,
phân tích số liệu bẳng phần mềm Stata 10. Kiểm
định sự khác biệt bằng χ2.
KẾT QUẢ
Dân số nghiên cứu
Tổng số hộ được điều tra là 328 hộ với 1.359
người trong đó, tỷ lệ hộ gia đình cận nghèo có từ
5 thành viên trở lên thấp (12,8%), chủ yếu có từ 4
thành viên trở xuống (87,2%). Nhìn chung nghề
nghiệp của người dân hộ cận nghèo chủ yếu là
lao động phổ thông, chăn nuôi trồng trọt. Trình
độ học vấn chủ yếu từ cấp 1 trở xuống (80,5%).
Chi phí y tế hộ cận nghèo trong 6 tháng
qua
Số hộ trả lời có chi phí y tế là 314 (95,7%), còn
lại 14 hộ (4,3%) không có chi phí y tế nào trong 6
tháng qua.
Chi phí y tế và phi y tế trực tiếp, chi phí cơ
hội
Bảng 1: Chi phí y tế trực tiếp, chi phí phi y tế và chi
phí cơ hội của hộ gia đình trong 6 tháng qua
Đơn vị tính: 1.000 VNĐ và ngày công: ngày
Trung vị Khoảng tứ vị Min Max
Tổng chi phí y tế trực tiếp
(n=294) 700
200 –
1.700 3 50.000
Tổng chi phí phi y tế
(n=112) 200 100 – 701 10 25.000
Số ngày công bị mất của
người bệnh (n=107) 8 5 – 24 1 90
Thu nhập bị mất của
người bệnh (n=96) 700
300 –
1.640 60 11.250
Số ngày công bị mất của
người chăm bệnh (n=80) 7 3 – 13,5 1 60
Thu nhập bị mất của
người chăm bệnh (n=82) 600 200 – 900 40 4.200
Trong số 314 hộ có chi phí KCB, có 294 hộ kể
được số tiền phải chi phí y tế trực tiếp cho KCB
với trung vị là 700.000 đồng/hộ trong 6 tháng và
112 hộ cho biết có số tiền chi phí trực tiếp phi y
tế, trung vị là 200.000 đồng. Nhìn chung chi phí
phi y tế trực tiếp thấp hơn so với chi phí y tế trực
tiếp trên đối tượng hộ cận nghèo. Trung vị số
ngày công người bệnh bị mất trong 6 tháng là 8
ngày và số tiền công là 700.000 đồng; đối với
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 383
người chăm bệnh cũng gần tương tự (7 ngày và
600.000 đồng). Số tiền gần bằng 1 tháng chi tiêu
thiết yếu của 1 người diện cận nghèo.
Độ bao phủ BHYT của người cận nghèo
Bảng 2: Tình hình tham gia BHYT của hộ gia đình
và các cá nhân trong hộ
Tần số Tỷ lệ (%)
Hộ cận nghèo (n=328)
Tất cả mọi người đều có 70 21,3
Tần số Tỷ lệ (%)
Người có, người không 158 48,2
Không ai có 100 30,5
Tính trên số người (n= 1.359)
Có BHYT 555 40,8
Không có BHYT 804 59,2
Khi xét sự tham gia BHYT theo hộ thì chủ yếu
hộ có người có và người không có BHYT chiếm
48,2% và dựa vào tổng số người trong 328 hộ
được điều tra thì tỷ lệ người có BHYT dưới 41%.
Tình trạng kinh tế hộ cận nghèo và ảnh hưởng của chi phí y tế
Bảng 3: Thu nhập và chi tiêu hộ gia đình trong 6 tháng qua (n=328)
Đơn vị tính: 1.000 VNĐ
Trung vị Khoảng tứ vị Min Max
Tổng thu nhập 15.000 9.000 – 21.000 900 54.000
Tổng chi tiêu trong ăn uống 8.400 5.400 – 11.400 1.260 50.000
Tổng chi tiêu ngoài ăn uống 5.100 3.260 – 8.349 420 100.000
Tổng chi phí y tế trực tiếp và gián tiếp 750 220 – 2.200 3 62.100
Tổng chi tiêu 15.000 10.110 – 18.546 2.880 88.000
Tỷ trọng chi phí y tế trên tổng chi tiêu (%) 4,78 1,66 – 13,73 0,01 83,33
Bảng 4: Tỷ lệ chi phí y tế hộ gia đình theo khả năng
chi trả (n=328)
Tần số Tỷ lệ (%)
Ngưỡng
x ≤ 10% 243 74,1
10% < x ≤ 20% 40 12,2
20% < x ≤ 30% 18 5,5
30% < x ≤ 40% 7 2,1
x > 40% 20 6,1
Vay tiền (n=314) 99 31,5
Bán tài sản (n=314) 6 1,9
Chi chú: x là tỷ lệ chi phí y tế hộ gia đình theo khả năng
chi trả. Khả năng chi trả = tổng chi phí – tổng chi phí thiết
yếu tính theo chuẩn hộ cận nghèo năm tương ứng. Chi
phí thiết yếu = chi phí ăn uống dự tính vừa đủ cho 1 cá
nhân trong 1 tháng.
Tỷ lệ hộ gia đình cận nghèo có chi phí thảm
họa (x≥ 40%) là 6,1%. Có 31,1% số hộ phải vay
tiền để chi trả chi phí y tế trong 6 tháng qua.
Tình trạng sử dụng dịch vụ y tế của hộ cận
nghèo
Lượt khám chữa bệnh và nơi KCB của người
dân hộ cận nghèo
Biểu đồ 1:Tỷ lệ lượt đến khám chữa bệnh và nơi KCB.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 384
Nhìn chung tỷ lệ mua thuốc tự điều trị có
tỷ lệ cao nhất (33,8%), kế đến là bệnh viện
Tp.Vị Thanh, đứng thứ ba là phòng mạch tư,
tỷ lệ đến trạm y tế thấp dưới 5%; trong khi tới
BV tỉnh Hậu Giang đạt 9,5% và tới các BV
tuyến tỉnh khác hoặc trung ương chỉ chiếm tỷ
lệ thấp (< 3%).
Ảnh hưởng của độ bao phủ BHYT tới sử
dụng dịch vụ y tế của người cận nghèo
Bảng 5: Tỷ lệ người bệnh có BHYT tính theo nơi
khám chữa bệnh
Nơi đến khám chữa bệnh
(n=lượt người KCB)
Tham gia BHYT
Có
tần số (%)
Không
tần số (%)
Cơ sở y tế công lập
Trạm y tế xã/phường (n=32) 22 (68,75) 10 (31,25)
Bệnh viện Tp Vị Thanh (n=179) 133 (74,30) 46 (25,70)
Bệnh viện tỉnh Hậu Giang (n=54) 39 (72,22) 15 (27,78)
Bệnh viện tỉnh/TW (n=17) 12 (70,58) 5 (29,42)
Cộng (n=282) 206 (73,05) 76 (26,95)
Cơ sở y tế ngoài công lập
Bệnh viện tư nhân (n=7) 2 (28,58) 5 (71,42)
Phòng mạch tư (n=119) 46 (38,65) 73 (61,35)
Phòng mạch lương y (n=3) 1 (33,33) 2 (66,67)
Tự điều trị (n=233) 58 (24,89) 175 (75,11)
Không điều trị gì (n=8) 3 (37,5) 5 (62,5)
Cộng (n=370) 110 (29,73) 260 (70,27)
Cộng lượt BHYT 316 336
Lượt KCB ở cơ sở y tế công lập 206 (65,19) 76 (22,62)
Lượt KCB ở cơ sở ngoài công
lập 110 (34,81) 260 (77,38)
PR = 2,88 (CI = 2,33 ÷ 3,57) ; p < 0,001
Tỷ lệ lượt KCB ở cơ sở y tế công lập của
người có BHYT thì cao hơn so với người
không có BHYT và ngược lại, lượt KCB ở cơ sở
ngoài công lập có tỷ lệ cao hơn ở người không
có BHYT. Khác biệt này có y nghĩa thống kê
với p<0,001.
Bảng 6: Mối liên quan giữa đặc điểm người có bệnh,
tình trạng có bệnh hoặc không, hình thức KCB, số
lượt KCB và tỷ lệ có BHYT
BHYT P PR
(KTC 95%)Có (%) Không (%)
Nhóm tuổi(n=560)
≤ 15 tuổi 78 (56,5) 60 (43,5)
< 0,001
1
16 – 40 tuổi 60 (35,1) 111 (64,9) 0,6 (0,5-0,7)
41 – 60 tuổi 68 (39,3) 105 (60,7) 0,7 (0,5-0,9)
> 60 tuổi 57 (73,1) 21 (26,9) 1,3 (1,1-1,6)
Giới (n=560)
Nam 125 (49,6) 126 (50,4)
0,262 1,1 (0,9-1,3)
Nữ 139 (44,8) 171 (55,2)
Bệnh (n= 1.359)
Có 263 (47,0) 297 (53,0)
< 0,001 1,3(1,1 – 1,5)
Không 292 (37,0) 507 (63,0)
Hình thức KCB (n=750)
Nội trú 74 (74,0) 26 (26,0)
< 0,001 1,6(1,4 – 1,8)
Ngoại trú 306 (47,1) 344 (52,9)
Tỷ lệ người có ít nhất 1 lần bệnh và có
BHYT là 47% cao hơn tỷ lệ người không bệnh
và có BHYT (36,5%); sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,001, PR = 1,3 KTC 95% = 1,1 –
1,5). Người bệnh có BHYT thì chiếm tỷ lệ cao ở
nhóm tuổi từ 15 tuổi trở xuống và nhóm trên
60 tuổi và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa nhóm tuổi và có BHYT ở người có bệnh
với p< 0,001. Có 750 lượt KCB/560 người có ít
nhất 1 lần mắc bệnh trong 6 tháng. Số lượt có
BHYT chiếm tỷ lệ 50,1%; lượt khám của người
có BHYT ở hình thức nội trú có tỷ lệ cao hơn
ngoại trú (74% so với 47,1%); ngược lại, lượt
khám của người không có BHYT ở hình thức
nội trú thấp một nửa so với ngoại trú (26% và
52,9%), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001,
PR = 1,6 KTC 95% = 1,4 – 1,8).
Bảng 7: Tỷ lệ sử dụng BHYT khi KCB của lượt
người có BHYT (n=380)
Hình thức
KCB
Sử dụng BHYT
P PR (KTC 95%)Có (%) Không (%)
Nội trú 68 (91,2) 6 (8,8)
< 0,001 1,6 (1,4– 1,8)
Ngoại trú 174 (56,9) 132 (43,1)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 385
Trong số 380 lượt người KCB có BHYT thì
có sử dụng BHYT khi KCB là 242 lượt (63,7%);
nếu tính riêng nội trú đạt 91,2%, ngoại trú đạt
56,9%; ngược lại, không sử dụng BHYT ở hình
thức KCB nội trú thấp hơn nhiều so với ngoại
trú (8,8% và 43,1%), khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p<0,001, PR = 1,6 KTC 95% = 1,4 – 1,8).
BÀN LUẬN
Về chi phí y tế của hộ cận nghèo trong 6
tháng qua
Do thông tin thu thập được qua việc nhớ lại
của từng lần bị bệnh và đi khám bệnh ở những
nơi khác nhau sẽ không hoàn toàn đầy đủ thông
tin chính xác về số tiền chi cho khám chữa bệnh.
Cũng tương tự, hỏi về thu nhập và chi tiêu hàng
ngày chỉ được câu trả lời mức gần đúng nhất
theo ước lượng của người đại diện chủ hộ, đó là
hạn chế của nghiên cứu cắt ngang này.
Theo bảng 1, chi phí y tế trực tiếp trong 6
tháng của 1 hộ cận nghèo bằng 700.000 đồng,
gần tương đương với chi phí thiết yếu 1 tháng
đối với 1 thành viên của hộ cận nghèo (650.000
đồng). Chi phí phi y tế trực tiếp trong 6 tháng thì
thấp dưới 1/3 so với chi y tế trực tiếp. Có thể giải
thích vì điều tra tại cộng đồng, phần lớn là người
dân chỉ mắc các bệnh thông thường, điều trị
ngoại trú nên chi phí phi y tế nếu có cũng
thường thấp, thậm chí đa số (204 hộ trong số 314
hộ, chiếm 65,0%) không có chi phí này.
Đối với chi phí cơ hội (bảng 1) trong sáu
tháng do khám bệnh, nằm viện, người bệnh bị
mất khoảng 6 ngày làm việc và số tiền công là
700.000 đồng, người chăm bệnh cũng gần tương
tự (7 ngày và 600.000 đồng). Tuy số ngày công
chỉ là 6 – 7 ngày nhưng số tiền gần bằng 1 tháng
chi tiêu thiết yếu của 1 người diện cận nghèo
(650.000 đồng).
Về chi tiêu hộ gia đình trong 6 tháng qua,
tổng chi tiêu hầu như luôn tương đương với tổng
thu nhập mà người dân có thể kể ra (bảng 3).
Điều này cũng có nghĩa hộ cận nghèo không có
tích lũy, thậm chí chi tiêu vượt mức dẫn tới phải
vay mượn hoặc bán tài sản. Chi tiêu dành cho y tế
chiếm 4,78% so với tổng chi, mức thấp nhất
(0,01%) rất cách xa mức cao nhất (83,33%), tỷ
trọng này cũng cao hơn so với nghiên cứu tại Ba
Vì (Hà Tây cũ) là 3% đối với toàn bộ các đối
tượng dân cư(4). Có khoảng gần 1/3 hộ gia đình
phải vay tiền và 1,9% bán tài sản để khám chữa
bệnh (bảng 4). Lượng tiền vay dao động từ 50
nghìn đồng đến 30 triệu đồng, trung vị là 2 triệu
đồng bằng khoảng 2 tháng lương cơ bản hoặc 3
tháng chi phí thiết yếu cho 1 người hộ cận nghèo.
Xét mối tương quan chi phí y tế và khả năng
chi trả của hộ cận nghèo (bảng 4), tỷ lệ gia đình có
chi phí thảm họa về y tế là 6,1%, tỷ lệ này cũng phù
hợp với báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (2008) là
6% trên tổng số hộ gia đình của Việt Nam(3).
Về độ bao phủ bảo hiểm y tế của hộ cận nghèo
Tuy tỷ lệ bao phủ hộ gia đình là gần 70%
nhưng tính trên đầu người chỉ được hơn 40% số
người trong các hộ gia đình cận nghèo có BHYT
(bảng 2), thấp hơn độ bao phủ BHYT chung cả
nước năm 2011 là 62%(2). Lý do không có bảo
hiểm được kể đến nhiều nhất là “kinh tế khó
khăn” hay chính xác hơn là “tình hình tài chính
hộ gia đình không đủ khả năng chi trả cho việc
mua BHYT”, đặc biệt lý do thứ hai là “không có
người bị bệnh” cho thấy hộ gia đình lựa chọn
cân nhắc khi mua BHYT chỉ khi có người bệnh
trong hộ gia đình. Tuy nhiên đây cũng là tỷ lệ
khả quan hơn nhiều so với 11,2% tỷ lệ bao phủ
BHYT hộ cận nghèo năm 2010.
Về tình trạng sử dụng dịch vụ y tế của hộ
cận nghèo
Hầu hết (95,7%) các hộ gia đình trong 6 tháng
qua có ít nhất một người bị mắc một bệnh nào đó.
Có 560 người đã từng có từ 1 lần mắc một bệnh
nào đó trong 6 tháng qua, tỷ lệ nữ cao hơn nam,
tỷ lệ người tham gia bảo hiểm có bệnh cũng
không nhiều hơn so với người không tham gia.
Nếu tính lượt khám chữa bệnh theo nơi KCB của
người dân hộ cận nghèo (biểu đồ 1) thì mua thuốc
tự điều trị có tỷ lệ cao nhất là đáng lo ngại, cụ thể
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 386
là tự điều trị ngay từ đầu đối với bệnh nhẹ, hoặc
tự mua theo toa cũ đối với bệnh mạn tính. Người
dân phần lớn khám theo tuyến đăng ký BHYT
chủ yếu tại bệnh viện Tp.Vị Thanh (28%), tuyến
tỉnh là 9,5%. Tuy nhiên, tỷ lệ đến phòng mạch tư
cũng cao (18,4%), còn đến trạm y tế chiếm tỷ lệ
thấp dưới 5% và tới các BV tuyến tỉnh khác hoặc
trung ương chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (2,8%).
Về ảnh hưởng của độ bao phủ BHYT tới sử
dụng dịch vụ y tế của người cận nghèo
Theo bảng 5, tỷ lệ lượt KCB ở cơ sở y tế công
lập của người có BHYT thì cao hơn so với người
không có BHYT gấp 2,88 lần và ngược lại, lượt
KCB ở cơ sở ngoài công lập có tỷ lệ cao hơn ở
người không có BHYT. Khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p<0,001. Kết quả này cho thấy có
BHYT đã ảnh hưởng tới xu hướng lựa chọn nơi
KCB. Tuy nhiên, người có BHYT cũng có thể là
người lớn tuổi, có nhiều bệnh nặng hơn và sẽ
chọn những cơ sở y tế công để giảm chi phí.
Theo bảng 6, có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa tỷ lệ người có bệnh và có BHYT là
47% cao hơn tỷ lệ người không bệnh và có BHYT
(36,5%). Đây có thể là thể hiện của sự lựa chọn
ngược (chỉ người biết mình mắc bệnh và thường
là bệnh mạn tính, mới chịu mua BHYT). Mặc dù
khi phân tích đặc điểm của những người có
BHYT diện cận nghèo thì không thấy có khác
biệt gì đáng kể về tuổi, giới. Tuy nhiên, khi phân
tích đặc điểm người có bệnh (bảng 6) thì có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa người bệnh có
BHYT với nhóm tuổi (P <0,01). Có thể thấy hai
nhóm tuổi trẻ nhất và già nhất có bệnh và có
BHYT nhiều hơn khả năng do bắt buộc (tuổi học
sinh và nhóm tuổi dưới 6 tuổi thuộc nhóm
BHYT bắt buộc và miễn phí chi trả) hoặc được
chú trọng mua BHYT vì nhóm tuổi cao trên 60
dễ mắc bệnh mạn tính hơn.
Những bệnh nhân khám nội trú phần lớn
đều có BHYT chiếm tỷ lệ (74,0%) (bảng 6) trong
số đó có sử dụng BHYT là 91,2% (bảng 7). Bên
cạnh đó lượt bệnh nhân khám ngoại trú có
BHYT là 47%, chỉ sử dụng BHYT khi khám có
56,9% (bảng 7). Như vậy, người dân sử dụng
BHYT chủ yếu cho KCB nội trú. Điều này có thể
do khi có bệnh nhẹ thì người dân nhanh chóng
khám ở phòng mạch tư, hoặc tự mua thuốc với
các bệnh mạn tính. Người có BHYT thì KCB ở hệ
thống y tế công và ngay tại địa phương nhiều
hơn và hoàn toàn phù hợp với tháp tuyến y tế,
không đáng quan ngại để gây ra tình trạng quá
tải BV tuyến trên đối với người dân cận nghèo.
KẾT LUẬN
Tại Tp.Vị Thanh tỉnh Hậu Giang, độ bao phủ
BHYT năm 2012 đối với người dân hộ cận nghèo
có mức độ khả quan so với thời gian trước.
Bao phủ BHYT có ảnh hưởng đến sự lựa
chọn dịch vụ y tế với tỷ lệ chọn nơi KCB là cơ
quan y tế công cao hơn ở người có BHYT. Người
không có BHYT có tần số chọn tự mua thuốc
điều trị và phòng mạch tư cao hơn.
Đối với người có tham gia BHYT thì khi điều
trị bệnh nội trú hầu hết đều sử dụng BHYT.
KIẾN NGHỊ
Người dân hộ cận nghèo cần được tăng
cường các biện pháp để tiếp cận và có điều kiện
mua được BHYT cho tất cả mọi thành viên trong
gia đình đồng thời cần được tuyên truyền để
giảm các hành vi tự điều trị bệnh, tăng sử dụng
BHYT khi KCB đúng tuyến, nhờ đó giảm được
chi phí y tế.
Lời cảm ơn:Chúng tôi trân trọng cám ơn sự hợp tác của
UBND thành phố Vị Thanh, các cán bộ Phòng Lao động
Thương binh Xã hội và Phòng Y tế, các cộng tác viên tại các
xã, phường, khu vực dân cư được điều tra, với sự cộng tác của
họ đã giúp chúng tôi hoàn thành nghiên cứu này.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 387
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y Tế (2008). Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm
2007. Hà Nội. Tr. 52‐53
2. Cổng thông tin bảo hiểm Việt Nam (2011) Người nghèo thờ ơ
với bảo hiểm y tế: Vì sao?. http:
//www.webbaohiem.net/lu%E1%BA%ADt‐ph/6173‐nguoi‐
ngheo‐tho‐o‐voi‐bao‐hiem‐y‐te‐vi‐sao.html. Truy cập ngày
5/2/2012
3. Hoàng Văn Minh, Nguyễn Thị Kim Phượng (2010) Gánh
nặng chi phí y tế của hộ gia đình tại VN: Kết quả phân tích số
liệu điều tra mức sống dân cư 2002‐2008. Trung tâm nghiên
cứu hệ thống y tế. Báo cáo nghiên cứu. Hà Nội. Tr. 7‐15
4. Nguyễn Thị Bích Thuận, Nguyễn Thị Kim Chúc (2003)
Nghiên cứu chi phí y tế hộ gia đình ở huyện Ba Vì tỉnh Hà
Tây. Đề tài cấp bộ Bộ Y tế. Hà Tây. Tr. 78‐90.
5. Quốc hội (2008) Luật số 25/2008/QH12. ngày 14/11/2008 về
việc ban hành ʺLuật Bảo Hiểm Y Tếʺ
6. Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2009)http:
//www.thesaigontimes.vn/epaper/TB‐KTSG/So30‐
2009%28970%29/25710/. Truy cập ngày 1/2/2012
7. Tổng cục thống kê (2011) Kết quả khỏa sát mức sống dân cư
năm 2010. NXB Thống Kê.Hà Nội. Tr. 277‐300
Ngày nhận bài báo: 25/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chi_phi_y_te_va_do_bao_phu_bao_hiem_y_te_anh_huong_den_viec.pdf