Bài viết này cũng đã chỉ ra rằng quá trình
chuyển đổi số trên phạm vi toàn cầu đã làm cho
chiến lược FDI của MNCs số hóa và công nghệ
khác với MNCs truyền thống theo bốn cách như
sau. Thứ nhất, quá trình số hóa làm giảm sự cần
thiết phải hiện diện trực tiếp tại thị trường nước
ngoài, trong đó, doanh nghiệp không cần đánh
đổi giữa xuất khẩu và FDI tìm kiếm thị trường.
MNCs số hóa có thể lựa chọn xuất khẩu vì các
doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng nước
ngoài thông qua internet. MNCs sẽ phát triển
các mô hình kinh doanh quốc tế mới để gây
dựng sự hiện diện trên thị trường toàn cầu mà
không cần đầu tư một lượng vốn FDI lớn. Tỷ lệ
tài sản đầu tư của MNCs sẽ giảm đi, hay nói
cách khác là dấu chân quốc tế của MNCs sẽ nhẹ
hơn [5]. Thứ hai, dấu chân quốc tế nhẹ hơn
cùng với mục tiêu tìm kiếm kiến thức và công
nghệ đã làm đảo ngược xu hướng dân chủ trong
dòng FDI toàn cầu. Ngoài ra, tổng hợp của tác
giả cũng cho thấy hiện nay có xu hướng tài
chính hóa FDI. Tỷ lệ tài sản hữu hình so tài sản
vô hình cùng lượng tiền mặt và tài sản tương
đương tiền mặt của MNCs số hóa cao hơn so
với MNCs truyền thống [3, 5]. Thứ ba, có thể
thấy sự gia tăng đầu tư vào các lĩnh vực nền
kinh tế số của MNCs truyền thống trong một số
ngành như nông nghiệp, bất động sản, xây
dựng, y tế, các dịch vụ chuyên môn và bán lẻ.
Họ cũng sử dụng các mô hình kinh doanh với
cường độ vốn FDI thấp hơn [27]. Thứ tư là xu
hướng các doanh nghiệp số hóa mua lại các tài
sản phi kỹ thuật số [27]. Điều này phản ánh
tiềm năng tăng năng suất và năng lực cạnh
tranh của các công ty khi thích ứng với xu
hướng chuyển đổi số.
Những xu hướng trên gợi ý một số hướng
nghiên cứu mới, chẳng hạn như các nhân tố
quyết định đến động lực FDI trong bối cảnh
mới. Đối với MNCs công nghệ và số hóa, mục
tiêu tìm kiếm các nhân tố sản xuất giá rẻ hay thị
trường truyền thống đã không còn nhiều ý
nghĩa. Thay vào đó, họ thực hiện hoạt động FDI
để tìm kiếm các tài sản vô hình. Ngoài ra, cũng
cần có những nghiên cứu thực nghiệm để xem
xét những lợi thế cạnh tranh cụ thể của MNCs
số hóa và công nghệ. Địa điểm phân tán chuỗi
giá trị và hoạt động sản xuất toàn cầu cũng là
một khía cạnh mới cần nghiên cứu dưới ảnh
hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Đây là những hướng nghiên cứu mới, thú vị
và đầy thách thức trong lĩnh vực kinh doanh
quốc tế và quản trị chiến lược.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chiến lược đầu tư trực tiếp nước ngoài của MNCs trong bối cảnh chuyển đổi số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 34-42
34
Original Article
Foreign Direct Investment Strategy of MNCs
in the Context of Digital Transformation
Nguyen Thi Thanh Mai*
VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 06 April 2020
Revised 09 September 2020; Accepted 09 September 2020
Abstract: Nowadays, the process of digital transformation and the introduction of a series of
destructive technologies has revolutionized the way the companies do business and has important
implications for the Foreign Direct Investment (FDI) pattern of Multinational Companies (MNCs).
The objective of this paper is to point out the change in FDI strategy of MNCs in the new context
through a review of existing studies. The results show that digitization can lead to the withdrawal
of FDI, as it allows MNCs to enter foreign markets without having to be directly present there.
Traditional markets- and tangible resources-seeking FDI may be partly weakened by digitization;
and other forms such as knowledge-seeking and tax-and financial-driven FDI may become more
important. There are also a number of other trends such as the FDI de-democratization, FDI
financialization; the increase in investment of traditional MNCs in the digital sectors and the trend
of digital companies acquiring non-digital assets.
Keywords: FDI, digital transformation, multinational companies.
D*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: maintt@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4340
N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 34-42
35
Chiến lược đầu tư trực tiếp nước ngoài của MNCs
trong bối cảnh chuyển đổi số
Nguyễn Thị Thanh Mai*
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 06 tháng 4 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 09 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 09 tháng 9 năm 2020
Tóm tắt: Hiện nay, quá trình chuyển đổi số và sự ra đời của hàng loạt các công nghệ mang tính
chất phá hủy đã cách mạng hóa cách công ty làm kinh doanh và có những ảnh hưởng quan trọng
tới mô thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các công ty đa quốc gia (MNCs). Mục tiêu của
bài viết này là chỉ ra sự thay đổi trong chiến lược FDI của MNCs trong bối cảnh mới thông qua rà
soát những nghiên cứu hiện có. Kết quả tổng quan cho thấy số hóa có thể dẫn đến sự rút lui của
FDI, vì nó cho phép MNCs tham gia vào thị trường nước ngoài mà không cần phải hiện diện trực
tiếp ở đó. Các hình thức FDI tìm kiếm thị trường truyền thống và nguồn lực hữu hình có thể bị suy
yếu một phần do số hóa; các hình thức FDI khác như FDI tìm kiếm kiến thức hay FDI thúc đẩy bởi
tài chính và thuế có thể trở nên quan trọng hơn. Ngoài ra còn có một số xu hướng khác như sự đảo
ngược xu hướng dân chủ trong dòng FDI, xu hướng tài chính hóa FDI, sự gia tăng đầu tư vào các
lĩnh vực số hóa của MNCs truyền thống và xu hướng các công ty số hóa mua lại các tài sản phi
hữu hình.
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuyển đổi số, công ty đa quốc gia.
1. Mở đầu *
Trong những năm gần đây, tiến bộ khoa học
công nghệ đã và đang làm thay đổi cách thức
sản xuất hàng hóa và dịch vụ, mở đường cho
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư [1]. Các
lĩnh vực kinh tế số đang trở thành một phần
ngày càng quan trọng trong sự chuyển đổi này,
trong đó MNCs được coi là thành phần tham
gia chính, vừa kiến tạo vừa chịu ảnh hưởng của
quá trình chuyển đổi số. Sự phát triển nhanh
chóng của MNCs công nghệ đại diện cho một
xu hướng nổi bật hiện nay trên thế giới là sự
hiện diện của những đại tập đoàn toàn cầu
[2, 3]. Từ năm 2010 đến 2015, số lượng các
công ty công nghệ trong bảng xếp hạng của 100
MNCs hàng đầu của UNCTAD đã tăng hơn gấp
đôi, từ 4 lên 10, và con số này là 18 theo xếp
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: maintt@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4340
hạng của Forbes (2019) [4]. MNCs công nghệ
không chỉ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong
tổng MNCs lớn nhất toàn cầu, mà còn đại diện
cho những công ty năng động nhất. Trong cùng
thời gian, tài sản của MNCs này tăng 65%,
doanh thu và số lượng nhân viên của họ tăng
khoảng 30% so với xu hướng của 100 MNCs
hàng đầu khác [5].
Trước xu hướng này, câu hỏi đặt ra là liệu
số hóa có làm thay đổi chiến lược đầu tư ở nước
ngoài của MNCs hay không và thay đổi như thế
nào? Liệu chiến lược FDI của MNCs công nghệ
có khác gì so với MNCs truyền thống? Một số
học giả lập luận rằng quá trình chuyển đổi số có
thể dẫn đến sự rút lui của FDI vì nó cho phép
MNCs tham gia vào thị trường nước ngoài mà
không cần phải hiện diện trực tiếp ở đó [6, 7].
Các hình thức FDI tìm kiếm thị trường (truyền
thống) và nguồn lực (hữu hình) có thể bị suy
yếu một phần do quá trình số hóa; các hình thức
FDI khác có thể trở nên quan trọng hơn, chẳng
hạn như FDI tìm kiếm kiến thức hay FDI thúc
N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 34-42
36
đẩy bởi tài chính và thuế. Những xu hướng này
có thể ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa điểm
phân tán hoạt động sản xuất quốc tế của MNCs.
Theo Casella và Formenti (2019), MNCs trong
các lĩnh vực số hóa cao dự kiến sẽ có “dấu chân
quốc tế” (international footprint) nhẹ hơn so với
MNCs truyền thống [3]. Họ có thể tạo ra lượng
lớn doanh thu từ nước ngoài trong khi đầu tư
tương đối ít vào tài sản hữu hình, đồng thời vẫn
duy trì hoạt động tại quốc gia của họ (mà chủ
yếu là các quốc gia phát triển). Điều này tạo ra
hướng nghiên cứu mới thú vị nhưng đầy thách
thức. Mục tiêu của bài viết này là tổng quan các
nghiên cứu hiện có nhằm tổng hợp những lập
luận lý thuyết liên quan đến sự thay đổi của
chiến lược quốc tế hóa nói chung và chiến lược
FDI nói riêng dưới ảnh hưởng của quá trình
chuyển đổi số, từ đó đưa ra một số gợi mở về
hướng nghiên cứu mới trong lĩnh vực này.
2. Xu hướng chuyển đổi số và sự hình thành
nền kinh tế số
Quá trình chuyển đổi số trên phạm vi toàn
cầu hiện nay đã và đang dẫn tới sự hình thành
nền kinh tế số - một bộ phận ngày càng quan
trọng hơn trong nền kinh tế thế giới. Ngành
internet đóng góp gần 4% vào tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) ở các nền kinh tế lớn nhất thế
giới và những nước này tạo ra 70% GDP toàn
cầu [8]. Internet cũng ngày phổ biến trong các
phương thức kinh doanh. UNCTAD (2015) ước
tính rằng giá trị giao dịch kinh doanh giữa các
doanh nghiệp (Business to Business - B2B) dựa
trên nền tảng web cao hơn 30% so với toàn bộ
giao dịch giữa doanh nghiệp và khách hàng
(Business to Customer - B2C) [9].
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về xu
hướng chuyển đổi số và sự hình thành nền kinh
tế số nói chung [1, 5, 10, 11, 12],... Các nghiên
cứu này đề cập đến định nghĩa về nền kinh tế số
hay các lĩnh vực kinh tế được hình thành trong
quá trình chuyển đổi số và người tham gia
chính trong lĩnh vực này.
Về định nghĩa nền kinh tế số, hiện có nhiều
cách hiểu khác nhau nhưng chưa có một định
nghĩa được thừa nhận chung. Global Trends
(2013) cho rằng nền kinh tế số là “các hoạt
động kinh tế và xã hội thể hiện các đặc điểm
sau: được kích hoạt bởi các nền tảng công nghệ
internet/di động và cảm biến, cung cấp một môi
trường giàu thông tin, được xây dựng dựa trên
các thông tin toàn cầu, tức thời, cung cấp truy
cập 24/7 ở mọi nơi và hỗ trợ bởi nhiều mạng ảo
kết nối” [13]. OECD (2012) định nghĩa nền
kinh tế số “bao gồm các thị trường dựa trên
công nghệ số, thúc đẩy thương mại hàng hóa và
dịch vụ thông qua thương mại điện tử” [14].
Schawab (2016) cho rằng nền kinh tế số là việc
ứng dụng các công nghệ số dựa trên internet
vào sản xuất và thương mại hàng hóa, dịch vụ
[1]. Dù đưa ra những định nghĩa khác nhau
nhưng các tác giả đều thừa nhận nền kinh tế số
được châm ngòi bởi vài công nghệ mang tính
chất phá hủy (disruptive technologies) có khả
năng làm thay đổi thị trường [3]. Các công nghệ
này gồm có Internet di động, tự động hóa công
việc tri thức, Internet vạn vật, điện toán đám
mây, robot, máy in 3D và các nguyên vật liệu
hiện đại. Các sáng tạo công nghệ có thể tạo ra
quá trình mà Schumpeter gọi là “sự phá hủy
sáng tạo” - điều này vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra
thách thức [6].
Liên quan đến người tham gia chính vào
nền kinh tế số trong quá trình chuyển đổi số,
UNCTAD (2017) phân loại thành thành hai
nhóm [5]. Nhóm thứ nhất là các công ty số, bao
gồm các công ty số thuần túy (cung cấp nền
tảng internet và giải pháp số hoạt động hoàn
toàn trong môi trường số hóa) và các doanh
nghiệp “hỗn hợp” (hoạt động trong lĩnh vực
thương mại điện tử và cung cấp nội dung số -
trong đó kết hợp các khía cạnh nổi bật của công
nghệ số với tài sản vật chất). Nền tảng internet
bao gồm công cụ internet, mạng xã hội và các
nền tảng khác, chẳng hạn như nền tảng giao
dịch (Ebay) và nền tảng nguồn mở (Red Hat).
Giải pháp số bao gồm thanh toán số và điện tử,
điện toán và lưu trữ đám mây, lưu trữ web, dịch
vụ email và giải pháp số cho quản lý doanh
nghiệp và công nghệ tài chính. Những doanh
nghiệp hỗn hợp gồm có các hãng thương mại
điện tử (bán lẻ trên internet và dịch vụ thương
mại điện tử khác), chẳng hạn như các cửa hàng
trực tuyến, đại lý đặt chỗ và du lịch trực tuyến,
N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 34-42
37
quảng cáo và marketing trực tuyến. Các doanh
nghiệp cung cấp nội dung số bán các sản phẩm
như âm nhạc, video, sách điện tử và tạp chí trực
tuyến, khóa học trực tuyến và trò chơi điện tử.
Nhóm thứ hai là các công ty công nghệ thông
tin và truyền thông (ICT), bao gồm các công ty
công nghệ thông tin (IT) sản xuất phần
cứng/phần mềm và các công ty viễn thông. Các
công ty IT bao gồm các nhà sản xuất phần cứng
(các thương hiệu máy tính) và các linh kiện
(chẳng hạn như ngành công nghiệp chất bán
dẫn) cũng như các hãng sản xuất phần mềm và
các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ. Các công ty
viễn thông là chủ sở hữu các cơ sở hạ tầng viễn
thông lưu trữ dữ liệu.
3. Ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi số đến
chiến lược quốc tế hóa nói chung của MNCs
Bất kỳ doanh nghiệp nào dự định mở rộng
ra thị trường quốc tế đều phải suy tính đến một
số vấn đề trọng tâm như nên gia nhập thị trường
nào, quốc tế hóa bằng phương thức nào hay lợi
thế cạnh tranh của công ty là gì? Quyết định lựa
chọn thị trường cần phải dựa trên đánh giá về
tăng trưởng dài hạn và lợi nhuận tiềm năng của
doanh nghiệp tại thị trường đó. Các phương
thức gia nhập thị trường nước ngoài có thể là
xuất khẩu, cấp phép hoặc nhượng quyền thương
mại, thành lập liên doanh hoặc thiết lập công ty
con tại nước nhận đầu tư thông qua hình thức
FDI. Bối cảnh chuyển đổi số hiện nay đã có
những ảnh hưởng đáng kể đến cách thức mà
MNCs giải quyết các vấn đề nói trên.
Brouthers, Geisser và Rothlauf (2016) cho
rằng số hóa ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình
quốc tế hóa của MNCs thông qua giảm chi phí
giao dịch, tạo lợi thế kinh tế nhờ mạng lưới hay
tăng tốc độ và khả năng mở rộng ra thị trường
toàn cầu [15]. Wittkop, Zulauf và Wagner
(2018) đã phát triển một khung khổ lý thuyết để
hiểu cách các công ty dựa vào internet để quốc
tế hóa trong môi trường số hóa và sự khác biệt
trong quy trình quốc tế hóa của họ với các công
ty khác [16]. Theo các tác giả, môi trường số
hóa đã thay đổi cách tiếp cận chiến lược của
doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường nước
ngoài và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
cũng thay đổi do sự khác biệt giữa hàng hóa số
hóa và hàng hóa vật chất thông thường. Các yếu
tố như danh tiếng online và chất lượng dịch vụ
trở nên quan trọng hơn. Trước đó, Alcácer,
Cantwell và Piscitello (2016) cũng đã lập luận
rằng quá trình chuyển đổi số đã và đang thay
đổi lợi thế cạnh tranh về địa điểm, lợi thế sở
hữu và lợi thế nội vi hóa trong mô hình chiết
trung (OLI) được đề xuất bởi Dunning - một lý
thuyết tích hợp được sử dụng phổ biến để giải
thích quá trình quốc tế hóa của doanh nghiệp
[17]. Nhóm tác giả đã đưa ra 3 khía cạnh quan
trọng trong chiến lược quốc tế hóa của MNCs,
tương ứng với lợi thế địa điểm (L), lợi thế sở
hữu (O) và lợi thế nội vi hóa (I) trong mô hình
OLI là: chiến lược lựa chọn địa điểm phân tán
hoạt động của MNC; lợi thế cạnh tranh; chiến
lược của hãng và cấu trúc quản trị doanh
nghiệp. Có nhiều tác giả cũng có quan điểm khá
nhất quán với Alcácer, Cantwell và Piscitello
(2016) [17], cụ thể như sau:
Liên quan tới khía cạnh đầu tiên, chiến lược
lựa chọn địa điểm phân tán hoạt động, Chen và
Kamal (2016) cho rằng việc áp dụng IT sẽ làm
tỷ lệ vốn được đầu tư tại nước chính quốc tăng
lên [18]. Điều này nhất quán với nghiên cứu
trước đó của de la Torre và Moxon (2001) [19]
và Zaheer và Manrakhan (2001) [20] cho rằng
công nghệ thông tin có xu hướng mở rộng sự
phân tán về mặt địa lý của doanh nghiệp kinh
doanh quốc tế. Laplume, Petersen và Pearce
(2016) xem xét ảnh hưởng của công nghệ in 3D
tới phạm vi địa lý và sự phân tán trong chuỗi
giá trị của doanh nghiệp [21]. Nghiên cứu đã
chỉ ra rằng việc áp dụng rộng rãi công nghệ này
làm đảo ngược xu hướng phân tán hoạt động
sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Doanh nghiệp
có thể hợp nhất một số chức năng sản xuất
trung gian và vì thế có thể loại bỏ một số cơ sở
thực hiện chức năng thượng nguồn trong chuỗi
giá trị. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể phân tán
giai đoạn sản xuất cuối cùng tới gần thị trường
mục tiêu hơn để phục vụ khách hàng. Rezk,
Srai và Williamson (2016) cũng cho rằng công
nghệ làm cho quá trình sản xuất của doanh
nghiệp có ít công đoạn hơn và các hoạt động
sản xuất có thể tập trung hơn [22]. Nhóm tác
N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 34-42
38
giả cho rằng xu hướng này sẽ làm cho chuỗi giá
trị của doanh nghiệp chuyển từ cấu trúc phức
tạp, nhiều tầng lớp sang chuỗi giá trị tích hợp
và tương đối ngắn hơn. Dựa trên số liệu từ
1.700 công ty trong lĩnh vực sản xuất của Áo,
Đức và Thụy Sĩ, Dachs, Kinkel và Jäger (2019)
cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và kỹ
thuật sản xuất số hóa sẽ giúp doanh nghiệp thực
hiện việc chuyển hoạt động sản xuất về nước
[23]. Kết quả thống kê và hồi quy cho thấy có
mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa việc áp dụng công
nghệ 4.0 và tỷ lệ hồi hương của doanh nghiệp.
Khía cạnh thứ hai của quá trình quốc tế hóa
mà các học giả quan tâm là việc thay đổi bản
chất lợi thế cạnh tranh do ảnh hưởng của IT
[24]. Banalieva và Dhanaraj (2019) đã phân
tích chiến lược quốc tế hóa của MNCs số hóa
trong ngành dịch vụ, tập trung vào cách chuyển
đổi số làm thay đổi các giả định của lý thuyết
nội vi hóa về bản chất lợi thế cạnh tranh của
hãng và đưa ra dự đoán về cách thức quản trị
giao dịch xuyên quốc gia [25]. Các tác giả cho
rằng trong bối cảnh mới, lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp là công nghệ và vốn con người.
Số hóa không chỉ làm giảm chi phí trao đổi
thông tin mà còn tạo ra phương thức phối hợp
hiệu quả giữa các đối tác. Điều này phụ thuộc
vào lợi thế cạnh tranh mà doanh nghiệp có
trong quá trình quốc tế hóa. Brouthers, Geisser
và Rothlauf (2016) xem xét chiến lược của một
loại doanh nghiệp đặc biệt - đây là những doanh
nghiệp hoàn toàn sử dụng internet và kỹ thuật
hệ thống thông tin để cho phép người dùng
tương tác với nhau [15]. Vì sản phẩm/dịch vụ
của các doanh nghiệp này hoàn toàn là số hóa
và được trao đổi thông qua internet nên người
sử dụng có thể tiếp cận từ bất cứ nơi nào trên
thế giới với chi phí tương đối thấp. Chính vì
thế, khả năng tạo giá trị của những doanh
nghiệp này phụ thuộc vào năng lực xây dựng
mạng lưới mới và trở thành người bên trong của
các mạng lưới đã được thiết lập. Ngoài ra, sự
phát triển của các công nghệ sản xuất mới và sự
tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SMEs), các start-up toàn cầu, các doanh nhân...
đã làm thay đổi lợi thế cạnh tranh của các
doanh nghiệp khác nhau trong chuỗi giá trị.
Khía cạnh thứ ba và cuối cùng mà các học
giả tranh luận là cấu trúc quản trị của doanh
nghiệp trong môi trường thể chế mới. Cả de la
Torre và Moxon (2001) [19] và Rangan và
Sengul (2009) [27] đều nhận thấy các doanh
nghiệp thích các giao dịch dựa trên thị trường
và hoạt động thuê ngoài do sự phát triển của
công nghệ có thể làm cho doanh nghiệp tiếp cận
được nguồn thông tin chất lượng cao và quản lý
được các giao dịch của họ. ICT làm cho doanh
nghiệp không cần thiết phải tự thực hiện mọi
hoạt động, hay nói cách khác là sở hữu các hoạt
động đó.
4. Ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi số
đến chiến lược FDI của MNCs
FDI là trọng tâm nghiên cứu của hầu hết tất
cả các khía cạnh trong lĩnh vực kinh doanh
quốc tế. Khi không tham gia hoạt động đầu tư ở
nước ngoài, khái niệm về MNC sẽ mất đi ý
nghĩa. FDI là phương tiện để các công ty đạt
được các mục tiêu chiến lược của họ. Một số
lập luận lý thuyết về chiến lược FDI của MNCs
trong bối cảnh mới có thể tìm thấy trong các
nghiên cứu trước [2, 3, 5, 6, 27],... Theo đó,
chiến lược FDI của MNCs trong bối cảnh
chuyển đối số được thể hiện ở một số điểm
chính sau:
Thứ nhất, các tác giả đều cho rằng một
trong những ảnh hưởng quan trọng của xu
hướng số hóa đến chiến lược của MNCs là việc
giảm sự cần thiết phải hiện diện trực tiếp để
phục vụ thị trường nước ngoài. Cụ thể:
Doanh nghiệp không nhất thiết phải đầu tư
trực tiếp ở nước ngoài để tìm kiếm thị trường
và MNCs số hóa có thể lựa chọn xuất khẩu [6,
27]. Các doanh nghiệp có thể cung cấp sản
phẩm và dịch vụ cho khách hàng nước ngoài
thông qua hình thức số hóa, chẳng hạn như âm
nhạc, xuất bản phẩm và dịch vụ (ví dụ là thiết
kế, kiến trúc, bán lẻ,). Các sản phẩm vật chất
có thể được tạo ra cho khách hàng ở thị trường
nước ngoài bằng cách gửi các tệp kỹ thuật số
đến máy in 3D ở các thị trường đó [27].
Việc sử dụng FDI như là một phương thức
gia nhập thị trường có thể giảm đi [5, 27]. Quá
N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 34-42
39
trình chuyển đổi số sẽ tiếp tục có những tác
động đột phá và MNCs sẽ phát triển các mô
hình kinh doanh quốc tế mới để gây dựng sự
hiện diện tại thị trường toàn cầu mà không cần
đầu tư một lượng vốn FDI lớn. Tuy nhiên, FDI
vẫn tiếp tục là hình thức quốc tế hóa của các
ngành truyền thống [5]. Sự gia tăng của các
công ty đa quốc gia siêu nhỏ và các công ty với
tầm nhìn toàn cầu cùng khả năng tiếp cận thị
trường quốc tế một cách nhanh chóng và lượng
đầu tư xuyên biên giới tối thiểu là biểu hiện của
xu hướng này.
Khi lựa chọn phương thức FDI để gia nhập
thị trường, nghiên cứu của các tác giả trước đây
cho thấy tỷ lệ tài sản đầu tư của MNCs sẽ giảm,
hay nói cách khác là “dấu chân quốc tế” của
MNCs sẽ nhẹ đi. UNCTAD (2017) đã phát triển
một chỉ số gọi là “FDI lightness indicator” -
được đo bằng tỷ lệ giữa doanh thu tạo ra bởi
các chi nhánh nước ngoài với tổng tài sản nước
ngoài tương ứng [5]. Nó thể hiện mức độ mà
doanh nghiệp có thể tạo ra doanh thu ở nước
ngoài trên tổng tài sản nhất định. Chỉ số này là
thấp (từ 0 đến 1) nếu tỷ lệ tài sản ở nước ngoài
lớn hơn doanh thu tương ứng (doanh nghiệp có
sự hiện diện lớn ở nước ngoài), bằng 1 khi hai
tỷ lệ trên là như nhau, và cao (lớn hơn 1) khi tỷ
lệ tài sản ở nước ngoài thấp hơn tỷ lệ doanh thu
(doanh nghiệp có sự hiện diện nhỏ ở nước
ngoài). Casella và Formenti (2019) đã dựa vào
khung phân tích, dữ liệu và các chỉ số được
UNCTAD đưa ra trong Báo cáo đầu tư thế giới
năm 2017 để phân tích chiến lược quốc tế hóa
của MNCs hoạt động trong lĩnh vực kinh tế số
và xác định internet đang chuyển đổi các hoạt
động quốc tế của MNCs, làm cho sự hiện diện
trực tiếp ở nước ngoài trở nên ít quan trọng hơn
và do đó làm nhẹ đi “dấu chân” của MNCs
trong hoạt động sản xuất quốc tế [3]. Trong các
mô hình kinh doanh đặc trưng bởi cường độ
internet cao hơn, tỷ lệ tài sản so với doanh số
nước ngoài có xu hướng thấp hơn. MNCs cung
cấp nền tảng internet có tỷ lệ doanh thu ở nước
ngoài cao hơn 2,5 lần so với tỷ lệ tài sản nước
ngoài, trong khi đối với MNCs truyền thống, tỷ
lệ này là 1. Ngành viễn thông có tỷ lệ thấp nhất
(0,9) - điều này thể hiện rằng khi thực hiện
chiến lược FDI, tỷ lệ vốn đầu tư của những
doanh nghiệp trong ngành này là lớn [3].
Thứ hai, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng số
hóa và việc giảm sự cần thiết phải hiện diện
trực tiếp tại thị trường nước ngoài sẽ dẫn đến
việc xóa bỏ dân chủ trong dòng FDI và xu
hướng tài chính hóa FDI [3]. Casslla và
Formenti (2019) cho rằng hiện đang có xu
hướng xóa bỏ dân chủ trong FDI [3]. Dấu chân
quốc tế nhẹ hơn của MNCs số hóa, cùng với
mục tiêu tìm kiếm kiến thức và công nghệ đã
làm đảo ngược xu hướng dân chủ trong FDI
(đây là xu hướng gia tăng tỉ lệ dòng FDI vào
các nước đang phát triển). Kết luận của các tác
giả dựa trên thống kê rằng phần lớn MNCs
công nghệ đều đến từ các nước phát triển, đặc
biệt là Mỹ. Có đến 63 trong 100 MNCs số hóa
hàng đầu từ Mỹ, 7 từ Anh và 6 từ Đức [5]. Mức
độ tập trung còn lớn hơn trong ngành cung cấp
nền tảng internet, trong đó 10 trên 11 công ty
trong cơ sở dữ liệu của UNCTAD (2017) là từ
Mỹ [5]. Trong khi đó, số lượng MNCs số hóa
từ các nước đang phát triển là rất nhỏ, chỉ có 4
trong 100. Tương tự, các chi nhánh của MNCs
số hóa chủ yếu tập trung ở các nước phát triển,
đặc biệt là Mỹ, trong khi sự hiện diện của họ ở
các nền kinh tế đang phát triển là không đáng
kể. Chỉ có 12% các chi nhánh ở nước ngoài của
MNCs công nghệ hàng đầu được đặt tại các nền
kinh tế đang phát triển, trong khi con số này với
MNCs truyền thống là khoảng 30%.
Các tác giả trên cũng cho rằng hiện nay có
xu hướng tài chính hóa FDI [3]. Xu hướng dấu
chân quốc tế nhẹ với lượng đầu tư có hạn vào
tài sản cùng doanh thu quốc tế lớn làm cho
MNCs số hóa có tính thanh khoản mạnh và khả
năng chi tiêu cao, tạo nên mảnh đất màu mỡ
cho hoạt động đầu tư nước ngoài dựa vào tài
chính và thuế. Một trong những đặc trưng nổi
bật trong cấu trúc tài sản của MNCs số hóa là tỷ
lệ có hạn của tài sản hữu hình so tỷ lệ tài sản vô
hình, lượng tiền mặt và tài sản tương đương tiền
mặt [5]. Lượng tiền mặt này thường được giữ
lại ở nước ngoài, có thể là do mục đích tối ưu
hóa tiền thuế. Các tập đoàn công nghệ lớn nhất
từ Mỹ đang giữ ở nước ngoài khoảng 62% tổng
thu nhập nước ngoài của họ, cao hơn gần 3 lần
so với MNCs khác từ quốc gia này (23%). Tỷ lệ
N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 34-42
40
này tương ứng với khoảng 385 tỷ USD, tương
đương khoảng 6 lần giá trị ước tính của tài sản
hữu hình ở nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là
do các động cơ tài chính hoặc liên quan đến
thuế1.
Thứ ba là sự gia tăng đầu tư vào các lĩnh
vực số hóa của MNCs truyền thống cùng với
việc sử dụng mô hình kinh doanh với cường độ
vốn FDI thấp hơn [28]. MNCs trong các lĩnh
vực như nông nghiệp, bất động sản, xây dựng, y
tế, các dịch vụ chuyên môn và bán lẻ đã và
đang xây dựng năng lực số hóa của họ và sử
dụng mô hình kinh doanh hỗn hợp với lượng
vốn FDI thấp hơn.
Thứ tư là xu hướng các công ty số và công
nghệ mua lại các tài sản vật chất [27]. Đây là
một xu hướng ngược đã xuất hiện trong hoạt
động đầu tư quốc tế, tuy chưa rõ ràng và mạnh
mẽ. Theo tổng hợp của Gestrin và Staudt
(2018), trong năm 2017, các công ty số hóa đã
mua lại tài sản trị giá 158 tỷ USD từ các công ty
phi số hoá nhưng vẫn thấp hơn mức 591 tỷ
USD các tài sản số hóa được mua bởi các công
ty phi số hoá [27]. Sự quan tâm lớn hơn từ phía
các công ty số hóa trong việc mua tài sản vật
chất có lẽ phản ánh tiềm năng tăng năng suất và
năng lực cạnh tranh của họ khi thích ứng với xu
hướng chuyển đổi số. Mặc dù đây là xu hướng
chung nhưng một số lĩnh vực đã chứng kiến sự
kết hợp giữa kỹ thuật số và phi kỹ thuật số
nhiều hơn so với những ngành khác. Lĩnh vực
bán lẻ là một ví dụ điển hình cho xu hướng này,
với việc Amazon mua lại nhà bán lẻ truyền
thống Whole Food vào năm 2017 và mua lại
Jet.com của Wal Mart vào năm 2016 [28].
5. Kết luận
Quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh
mẽ và các lĩnh vực kinh tế số đang trở thành
một bộ phận quan trọng hơn bao giờ hết của
nền kinh tế thế giới. Xu hướng này đã cách
mạng hóa cách công ty làm kinh doanh và có ý
_______
1 Lợi nhuận giữ lại ở nước ngoài cao chủ yếu là của MNCs
Mỹ do hệ thống thuế của Mỹ. Cải cách thuế của Mỹ vào
cuối năm 2017 đã và đang thay đổi xu hướng này.
nghĩa quan trọng đối với việc lựa chọn chiến
lược quốc tế hóa nói chung và chiến lược đầu tư
trực tiếp nước ngoài nói riêng của MNCs.
Kết quả tổng quan trong bài viết này đã chỉ
ra rằng quá trình chuyển đổi số đã làm thay đổi
chiến lược quốc tế hóa nói chung của MNCs số
hoá và MNCs công nghệ so với MNCs truyền
thống ở nhiều khía cạnh, thể hiện qua sự thay
đổi cả ba khía cạnh trong mô hình OLI – mô
hình lý thuyết tích hợp được sử dụng phổ biến
trong lĩnh vực này. Việc áp dụng các công nghệ
sản xuất mới làm cho doanh nghiệp chuyển từ
việc phân tán các hoạt động trên chuỗi giá trị
trên phạm vi toàn cầu sang tổ chức một chuỗi
giá trị tập trung hơn, ít công đoạn hơn; và tỷ lệ
vốn được đầu tư tại nước chính quốc có xu
hướng tăng lên. Bản chất của những lợi thế
cạnh tranh cũng bị thay đổi; trong đó hai lợi thế
cạnh tranh của hãng là kỹ thuật và vốn con
người. Cấu trúc quản trị của doanh nghiệp cũng
thay đổi trong môi trường thể chế mới. Cụ thể,
các học giả cho rằng có sự thay đổi từ giai đoạn
mà các hoạt động giao dịch đều được nội hóa
thông qua hình thức FDI sang một chuỗi giá trị
dựa trên các giao dịch thị trường và hoạt động
thuê ngoài do giảm được chi phí giao dịch nhờ
tiếp cận nguồn thông tin chất lượng cao và khả
năng quản lý giao dịch thuê ngoài.
Bài viết này cũng đã chỉ ra rằng quá trình
chuyển đổi số trên phạm vi toàn cầu đã làm cho
chiến lược FDI của MNCs số hóa và công nghệ
khác với MNCs truyền thống theo bốn cách như
sau. Thứ nhất, quá trình số hóa làm giảm sự cần
thiết phải hiện diện trực tiếp tại thị trường nước
ngoài, trong đó, doanh nghiệp không cần đánh
đổi giữa xuất khẩu và FDI tìm kiếm thị trường.
MNCs số hóa có thể lựa chọn xuất khẩu vì các
doanh nghiệp có thể phục vụ khách hàng nước
ngoài thông qua internet. MNCs sẽ phát triển
các mô hình kinh doanh quốc tế mới để gây
dựng sự hiện diện trên thị trường toàn cầu mà
không cần đầu tư một lượng vốn FDI lớn. Tỷ lệ
tài sản đầu tư của MNCs sẽ giảm đi, hay nói
cách khác là dấu chân quốc tế của MNCs sẽ nhẹ
hơn [5]. Thứ hai, dấu chân quốc tế nhẹ hơn
cùng với mục tiêu tìm kiếm kiến thức và công
nghệ đã làm đảo ngược xu hướng dân chủ trong
dòng FDI toàn cầu. Ngoài ra, tổng hợp của tác
N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 34-42
41
giả cũng cho thấy hiện nay có xu hướng tài
chính hóa FDI. Tỷ lệ tài sản hữu hình so tài sản
vô hình cùng lượng tiền mặt và tài sản tương
đương tiền mặt của MNCs số hóa cao hơn so
với MNCs truyền thống [3, 5]. Thứ ba, có thể
thấy sự gia tăng đầu tư vào các lĩnh vực nền
kinh tế số của MNCs truyền thống trong một số
ngành như nông nghiệp, bất động sản, xây
dựng, y tế, các dịch vụ chuyên môn và bán lẻ.
Họ cũng sử dụng các mô hình kinh doanh với
cường độ vốn FDI thấp hơn [27]. Thứ tư là xu
hướng các doanh nghiệp số hóa mua lại các tài
sản phi kỹ thuật số [27]. Điều này phản ánh
tiềm năng tăng năng suất và năng lực cạnh
tranh của các công ty khi thích ứng với xu
hướng chuyển đổi số.
Những xu hướng trên gợi ý một số hướng
nghiên cứu mới, chẳng hạn như các nhân tố
quyết định đến động lực FDI trong bối cảnh
mới. Đối với MNCs công nghệ và số hóa, mục
tiêu tìm kiếm các nhân tố sản xuất giá rẻ hay thị
trường truyền thống đã không còn nhiều ý
nghĩa. Thay vào đó, họ thực hiện hoạt động FDI
để tìm kiếm các tài sản vô hình. Ngoài ra, cũng
cần có những nghiên cứu thực nghiệm để xem
xét những lợi thế cạnh tranh cụ thể của MNCs
số hóa và công nghệ. Địa điểm phân tán chuỗi
giá trị và hoạt động sản xuất toàn cầu cũng là
một khía cạnh mới cần nghiên cứu dưới ảnh
hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Đây là những hướng nghiên cứu mới, thú vị
và đầy thách thức trong lĩnh vực kinh doanh
quốc tế và quản trị chiến lược.
Tài liệu tham khảo
[1] K. Schwab, “The Fourth Industrial Revolution
(World Economic Forum, Geneva)”, 2016.
[2] R. Bolwijn, B. Casella, J. Zhan, “International
Production và the Digital Economy”, International
Business in the Information và Digital Age: Emerald
Publishing Limited, 2018, pp. 39-64.
[3] B. Casella, L. Formenti, “FDI in the digital
economy: a shift to asset-light international
footprints”, B. Casella, L. Formenti (2018), FDI in
the digital economy: a shift to asset-light
international footprints, Transnational corporations,
25(1) (2019) 101-130.
[4] Forbes, “The World’s Largest Public Companies”.
https://www.forbes.com/global2000/list/#tab:overall/,
2019 (accessed 20 March 2020).
[5] UNCTAD, “World Investment Report 2017:
Investment và the digital economy'”, United Nations
Conference on Trade and Development, United
Nations, Geneva, 2017.
[6] L. Eden, “Multinationals và foreign investment
policies in a digital world” E15Initiative,
International Centre for Trade và Sustainable
Development and World Economic Forum, Geneva,
www. e15initiative. org.
[7] J. Manyika, M. Chui, J. Bughin, R. Dobbs,
P. Bisson, A. Marrs, Disruptive technologies:
Advances that will transform life, business, và the
global economy, McKinsey Global Institute San
Francisco, CA, 2013.
[8] R.D. Atkinson, L.A. Stewart, “Just the facts: The
economic benefits of information và
communications technology”, Information
Technology & Innovation Foundation (ITIF),
www2. itif. org/2013-tech-economy-memo. pdf.
[9] UNCTAD, Information economy report 2015-
unlocking the potential of e-commerce for
developing countries, United Nations, 2015.
[10] J. Manyika, S. Lund, J. Bughin, J.R. Woetzel, K.
Stamenov, D. Dhingra, Digital globalization: The
new era of global flows. McKinsey Global Institute
San Francisco, 2016.
[11] OECD Digital Economy Outlook, 2015.
[12] OECD Digital Economy Outlook, 2017.
[13] Global Trends (2013) The emerging digital
economy.nhttps://www.globaltrends.com/2013/06/0
6/gt-briefing-june-2013-the-digital-economy/, 2013
(accessed 20 March 2020).
[14] OECD, The Digital Economy. Executive Summary.,
Paris, France: OECD.
Economy-2012.pdf/, 2012 (accessed 20 March 2020).
[15] K.D. Brouthers, K.D. Geisser, F. Rothlauf,
“Explaining the internationalization of ibusiness
firms”, Journal of International Business Studies,
47(5) (2016) 513-534.
[16] A. Wittkop, K. Zulauf, R. Wagner, “How
digitalization changes the internationalization of
entrepreneurial firms: theoretical considerations và
empirical evidence”, Management Dynamics in the
Knowledge Economy 6(2) (2018) 193-207.
[17] J. Alcácer, J. Cantwell, L. Piscitello,
Internationalization in the information age: A new
era for places, firms, và international business
networks? : Springer, 2016.
N.T.T. Mai / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 34-42
42
[18] W. Chen, F. Kamal, “The impact of information và
communication technology adoption on
multinational firm boundary decisions”, Journal of
International Business Studies 47(5) (2016) 563-576.
[19] J. De la Torre, R.W. Moxon, “E-commerce và global
business: the impact of the information và
communication technology revolution on the
conduct of international business”, Journal of
International Business Studies 32(4) (2001) 617-640.
[20] S. Zaheer, S. Manrakhan, “Concentration và
dispersion in global industries: Remote electronic
access và the location of economic activities”,
Journal of International Business Studies 32(4)
(2001) 667-686.
[21] A.O. Laplume, B. Petersen, J.M. Pearce, “Global
value chains from a 3D printing perspective”,
Journal of International Business Studies 47(5)
(2016) 595-609.
[22] R. Rezk, J. Srai, P. Williamson, “International
configuration revisited: Assessing the impact of
product và knowledge attributes và changes in
technology on the choices available to firms”,
Journal of International Business Studies 47(5)
(2016) 610-618.
[23] N.A. Shaheer, Reappraising International Business
in a Digital Arena: Barriers, Strategies, Context for
Internationalization of Digital Innovations.
University of South Carolina, 2019.
[24] B. Dachs, S. Kinkel, A. Jäger, “Bringing it all back
home? Backshoring of manufacturing activities and
the adoption of Industry 4.0 technologies”, Journal
of World Business 54(6) (2019) 101017.
[25] R. Strange, A. Zucchella, “Industry 4.0, global value
chains và international business', Multinational
Business Review, 25(3), pp. 174-184.
[26] E.R. Banalieva, C. Dhanaraj, “Internalization theory
for the digital economy”, Journal of International
Business Studies, 2019, pp. 1-16.
[27] S. Rangan, M. Sengul, “Information technology và
transnational integration: Theory và evidence on the
evolution of the modern multinational enterprise”,
Journal of International Business Studies 40(9)
(2009) 1496-1514.
[28] M. Gestrin, J. Staudt, The digital economy,
multinational enterprises và international investment
policy, Paris: OECD, 2018.
p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chien_luoc_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_cua_mncs_trong_boi_ca.pdf