Kết luận
Việc vận dụng pháp luật nói chung và pháp luật
hàng hải cụ thể về khả năng đi biển của tàu biển của
chủ hàng và người vận chuyển theo hướng có lợi cho
bản thân họ là hoàn toàn hợp pháp. Đặc biệt, nhờ có
sự hài hòa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế,
các bên vẫn có thể áp dụng chiến lược trên mà không
có sự thay đổi nào về mục đích sử dụng. Do đó, vai
trò quyết định nằm về phía người thẩm phán với yêu
cầu phải xem xét toàn bộ chi tiết vụ tranh chấp một
cách trung lập, công bằng. Việc phân tích và chỉ rõ
chiến lược áp dụng pháp luật về khả năng đi biển của
tàu biển sẽ giúp cho các bên hữu quan hiểu rõ được
lợi thế cũng như những bất lợi mà họ đang gặp phải.
Từ đó, các bên sẽ có được vị trí chủ động hơn trong
quá trình giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế, “an toàn hàng hải, an ninh hàng hải,
điều kiện bảo đảm lao động hàng hải và phòng ngừa ô
nhiễm môi trường” chính là định hướng của Bộ luật
Hàng hải, là nguyên tắc hoạt động chủ yếu trong ngành
công nghiệp hàng hải. Quả thực, giữa vấn đề an toàn
hàng hải với nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu
biển có mối quan hệ mật thiết tương hỗ lẫn nhau. Trên
thực tế, nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển
không nên xem như là một yêu sách hành chính, kĩ
thuật mà cần được chính xác nhìn nhận như là một bước
kiểm soát an toàn giúp cho chuyến hải trình diễn ra
thuận lợi và an toàn cập cảng đến. Đảm bảo con tàu có
khả năng đi biển bằng một danh sách các điều cần kiểm
tra “check list” là điều cần thiết phải làm mỗi khi có một
con tàu ra khơi, nhằm củng cố an toàn hàng hải, đảm
bảo mạng sống của thủy thủ đoàn cũng như an toàn của
hàng hóa.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chiến lược pháp lý áp dụng với khả năng đi biển của tàu biển trong trường hợp tổn thất hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
91 SỐ 65 (01-2021)
CHIẾN LƯỢC PHÁP LÝ ÁP DỤNG VỚI KHẢ NĂNG ĐI BIỂN
CỦA TÀU BIỂN TRONG TRƯỜNG HỢP TỔN THẤT HÀNG HÓA
VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
LEGAL STRATEGY APPLIED TO THE SEAWORTHINESS
IN CASE OF DAMAGED GOODS CARRIED BY SEA
NGUYỄN THÀNH LÊ*, NGUYỄN ĐÌNH THÚY HƯỜNG
Khoa Hàng hải, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
*Email liên hệ: nguyenthanhle@vimaru.edu.vn
Tóm tắt
Nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển
là một trong những nghĩa vụ căn bản của hợp
đồng thuê tàu. Trải qua hơn 200 năm phát triển,
lịch sử ngành công nghiệp hàng hải thế giới hiện
đại đã ghi nhận sự hình thành và phát triển của
các học thuyết về khả năng đi biển của tàu biển.
Bài báo nhằm mục đích sáng tỏ giá trị pháp lí của
khả năng đi biển của tàu biển đặc biệt trong
trường hợp phát sinh các tranh chấp liên quan đến
tổn thất hàng hóa. Cụ thể, những ý nghĩa pháp lí
trên cũng sẽ được phân tích dựa theo tiến trình
phát triển của các học thuyết về khả năng đi biển
của tàu biển. Chiến lược pháp lí của người vận
chuyển, chủ hàng sẽ được làm sáng tỏ khi áp dụng
pháp luật về khả năng đi biển của tàu biển trong
trường hợp xảy ra tổn thất cho hàng hóa vận
chuyển.
Từ khóa: Khả năng đi biển của tàu biển, người
vận chuyển, chủ tàu, tổn thất hàng hóa..
Abstract
The duty to provide a seaworthy ship is considered
as one of fundemental obligations in charterparty.
Through nearly 200 years, the existence and
development of the doctrine relating to the
seaworthi-ness has appreciated in the history of
maritime industry. This article aims to clarify the
legal meanings of seaworthiness, espcially on the
subject of damaged goods. In particular, the legal
meanings of seaworthiness, following the
revolution of seaworthiness, will be analyzed.
Taking these analysis into account, the legal
strategies of carrier, shipper will be clarified in
case of claim relating to the seaworthiness in case
of damaged goods.
Keywords: Seaworthiness, shipper, shipowner,
damaged goods.
1. Đặt vấn đề
Điều 150 (Bộ luật Hàng hải 2015) và Điều 75 (Bộ
luật Hàng hải 2005) là hai điều luật trực tiếp nói đến
khả năng đi biển của tàu biển. Theo đó, “Người vận
chuyển phải mẫn cán để trước và khi bắt đầu chuyến
đi, tàu biển có đủ khả năng đi biển, ()”. Tuy nhiên,
nếu phân tích sâu hơn, chúng ta sẽ tìm thấy dấu vết về
nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển thông
qua các cụm từ “an toàn hàng hải, an ninh hàng hải,
điều kiện bảo đảm lao động hàng hải và phòng ngừa
ô nhiễm môi trường” được lặp đi lặp lại tại các quy
định về đăng kiểm tàu biển, trách nhiệm của chủ tàu,
nghĩa vụ của thuyền trưởng, thuyền bộ. Khả năng đi
biển của tàu biển là nghĩa vụ thuộc về chủ thể nào
trong quan hệ hợp đồng thuê tàu? Khả năng đi biển
của tàu biển có mối quan hệ như thế nào với an toàn
hàng hải? Đồng thời, trong thực tế hàng hải, các bên
sử dụng khả năng đi biển của tàu biển như thế nào
trong bài toán tìm kiếm và/ hoặc bảo vệ lợi ích khi xẩy
ra tổn thất cho hàng hóa? Bài nghiên cứu sẽ làm rõ
những điểm trên bằng kết cấu hai phần chính, bao gồm
phần thứ nhất về sự hình thành, phát triển và giá trị
pháp lí của các học thuyết về khả năng đi biển của tàu
biển và phần thứ hai đề cập đến chiến lược áp dụng
pháp luật của các bên khi khiếu nại về khả năng đi
biển của tàu biển trong trường hợp hàng hóa xảy ra
tổn thất.
2. Sự hình thành, phát triển và giá trị pháp lí
của các học thuyết về khả năng đi biển của
tàu biển
Nghĩa vụ đảm bảo một con tàu có đủ khả năng đi
biển đã có sự biến đổi đáng kể cùng với sự phát triển
của công nghiệp tàu thủy khi từ những con tàu ra khơi
hoạt động bằng gió cùng sức người với phần thân vỏ
bằng gỗ, cho đến ngày nay, tất cả đã được thay thế bởi
động cơ, thân vỏ sắt và rất có thể trong kỉ nguyên 4.0
hướng tới tương lai, tàu không người lái.
Hầu hết các học giả luật hàng hải quốc tế đều trích
dẫn án lệ Lyon v Mells (1804) [1] như là mốc đánh
KINH TẾ - XÃ HỘI
92 SỐ 65 (01-2021)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
dấu sự xuất hiện chính thức về khả năng đi biển của
tàu biển trong các nghiên cứu về luật hàng hải. Đây là
vụ việc mà bị đơn nhận vận chuyển len của nguyên
đơn bằng xà-lan từ cầu cảng ở Hull tới một con tàu tại
vũng đậu tàu tại Humber, thuộc Vương Quốc Anh. Xà
lan bị nước tràn vào và mắc cạn một phần gây tổn thất
cho lượng len vận chuyển. Người vận chuyển đã dựa
trên một quy định pháp luật cho phép giới hạn trách
nhiệm của người vận chuyển trong khu vực cảng đến
Humber [2]. Hệ quả của phán quyết này là việc nghĩa
vụ đảm bảo khả năng đi biển của con tàu trở thành một
quy định ngầm định ngay cả trong trường hợp không
có thỏa thuận theo hợp đồng, ràng buộc người vận
chuyển hoặc chủ xà-lan phải cung cấp một con tàu
không thấm nước và phù hợp cho việc sử dụng mà
người vận chuyển đã công bố công khai trước công
chúng. Nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của con
tàu là một nghĩa vụ nền tảng và cơ bản có hiệu lực tức
thì và thuộc về người vận chuyển.
Hệ quả của các phán quyết hàng hải trên đã mang
đến những lý thuyết sơ khai về khả năng đi biển của
tàu biển. Cụ thể:
Về việc thực hiện nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi
biển của con tàu, câu hỏi mấu chốt cần được trả lời là:
Liệu con tàu đã có mức độ phù hợp mà một người chủ
tàu cẩn trọng hợp lí trong hoàn cảnh bình thường có
thể yêu cầu từ phía con tàu để bắt đầu chuyến đi, trong
mối tương quan với các điều kiện hoàn cảnh có thể
xảy tới.
Thứ ba, về phía chủ tàu, cần phải nhắc lại một cách
tuyệt đối rằng con tàu cung cấp phải phù hợp và bất kì
sự không biết nào đều không được miễn trừ trách
nhiệm. Cụ thể, nếu tàu có một khiếm khuyết, cần phải
xem xét rằng liệu một người chủ sở hữu cẩn trọng,
trước khi đưa tàu của mình đi biển, có biết về khiếm
khuyết này không? Nếu có, tàu được coi là không có
khả năng đi biển.
200 năm sau kể từ khi nghĩa vụ đảm bảo khả năng
đi biển của con tàu được thừa nhận từ vụ Lyon v Mells,
thực tế đã trở nên ngày càng phức tạp. Từ khái niệm
cổ điển về khả năng đi biển của tàu biển, các án lệ
hàng hải đã phát triển cụ thể luận điểm trên thành
những vấn đề dưới đây:
a) Hiện trạng thực tế và trang thiết bị của con
tàu [3];
b) Khả năng/ hiệu quả làm việc của thuyền trưởng
và thủy thủ đoàn [4];
c) Khả năng vận chuyển hàng hóa của tàu [5];
d) Các tài liệu liên quan đến chuyến đi [6].
Dường như với sự mở rộng của học thuyết này,
người vận chuyển có lẽ đang rơi vào thế bất lợi, phải
đáp ứng đầy đủ, mẫn cán hợp lí và cẩn trọng những
yêu cầu như đã liệt kê phía trên. Tuy nhiên, trên thực
tế, việc mở rộng các yêu cầu về khả năng đi biển của
tàu biển lại được nhìn nhận như là những thuận lợi
góp phần đảm bảo an ninh hàng hải hơn là những đòi
hỏi, yêu sách từ các bên hữu quan, khi xét đến ý nghĩa
sâu xa của việc mở rộng học thuyết. Trong một số
tranh chấp, khiếu nại hàng hải, các bên không chỉ có
chủ hàng mà còn có cả người vận chuyển vẫn luôn sử
dụng lập luận về khả năng đi biển của tàu biển để bảo
vệ lợi ích hoặc củng cố cho yêu cầu của bên mình.
Điều này thôi thúc chúng ta phải tìm hiểu kĩ về chiến
lược áp dụng pháp luật của các bên khi khiếu nại liên
quan đến khả năng đi biển của tàu biển, nhất là khi
đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển vốn là một
nghĩa vụ thuộc về người vận chuyển.
3. Chiến lược áp dụng pháp luật của các bên
khi khiếu nại về khả năng đi biển của tàu biển
trong trường hợp tổn thất hàng hóa
Học thuyết về khả năng đi biển của tàu biển được
hình thành và phát triển dựa trên các án lệ hàng hải
của Vương quốc Anh. Tuy nhiên, đây thực sự là vấn
đề chung của tất cả các con tàu trước và trong suốt quá
trình tiến hành chuyến đi khi người vận chuyển phải
có nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của con tàu.
Điều 150 Bộ luật Hàng hải Việt Nam cũng ghi nhận
và quy định về nghĩa vụ này của người vận chuyển.
Qua đây, có thể thấy được một sự tiệm cận và hài hòa
của pháp luật Việt Nam với pháp luật Vương quốc
Anh và cả pháp luật quốc tế (Công ước Rotterdam
2009, Công ước Hague-Visby 1968) [7] bởi khả năng
đi biển quả thật là vấn đề chung, cần thiết phải điều
chỉnh và luật hóa. Có thể cách thức lựa chọn quy định
pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau (theo học
thuyết cổ điển hoặc hiện đại), nhưng khả năng đi biển
của tàu biển luôn luôn được coi là nghĩa vụ của người
vận chuyển, phải thực hiện ít nhất tại thời điểm "trước
và khi bắt đầu chuyến đi".
Vì quan hệ thương mại trong lĩnh vực hàng hải
luôn được cho là vô cùng phức tạp khi có sự tham gia
của rất nhiều bên hữu quan với nhiều quốc tịch khác
nhau, cho nên, trong phạm vi nghiên cứu, nhóm chủ
thể là người vận chuyển, chủ hàng, sẽ được phân tích
cụ thể liên quan đến chiến lược pháp lí mà họ sử dụng
về khả năng đi biển của tàu biển khi hàng hóa vận
chuyển bị tổn thất [8].
3.1. Chiến lược áp dụng pháp luật của người
vận chuyển
Trong trường hợp không có thỏa thuận hoặc thỏa
thuận không rõ ràng về khả năng đi biển của tàu biển,
KINH TẾ - XÃ HỘI
93 SỐ 65 (01-2021)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
lợi ích của chủ hàng có khả năng bị đe dọa trong khi
phía chủ tàu - người vận chuyển - thuyền viên lại
chiếm được sự ủng hộ, thu hẹp nghĩa vụ ở mức tối
thiểu theo pháp luật thực định quy định [9].
Tóm lại, trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa
bằng đường biển, người vận chuyển phải đảm bảo
rằng con tàu vận chuyển có khả năng đi biển là một
nghĩa vụ luôn luôn tồn tại dù không có điều khoản
nào thể hiện trên hợp đồng vận chuyển. Tuy nghĩa
vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển được thực
hiện bởi người vận chuyển, nhưng trên thực tế, người
vận chuyển vẫn có khả năng sử dụng lập luận để đảm
bảo khả năng đi biển của tàu biển nhằm mục đích
miễn trừ trách nhiệm khi xảy ra tổn thất đối với hàng
hóa vận chuyển. Người vận chuyển trong tranh chấp
hàng hải về bồi thường thiệt hại đối với tổn thất gây
ra cho hàng hóa trong quá trình vận chuyển sẽ tìm
mọi cách chứng minh đã vi phạm nghĩa vụ vận
chuyển và giao hàng là nhằm mục đích đảm bảo khả
năng đi biển của con tàu. Đây chính là chiến lược áp
dụng lập luận đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển
từ phía người vận chuyển nếu có khiếu nại phát sinh
từ chủ hàng nếu có tổn thất đối với hàng hóa vận
chuyển.
Điều kiện để chiến lược pháp lí này có thể thành
công là:
Thứ nhất, trong hợp đồng vận chuyển phải có thỏa
thuận rõ ràng về miễn trừ trách nhiệm của người vận
chuyển trong trường hợp đảm bảo khả năng đi biển
của tàu biển.
Thứ hai, người vận chuyển muốn được miễn trừ
trách nhiệm theo thỏa thuận từ hợp đồng vận chuyển
phải chứng minh rằng người vận chuyển đã thực hiện
nghĩa vụ vận chuyển và giao hàng của mình một cách
cẩn trọng mẫn cán và hợp lí. Tuy nhiên, để đảm bảo
khả năng đi biển của tàu biển, nghĩa vụ vận chuyển
hàng hóa của người vận chuyển này đã không thể thực
hiện được.
Phân tích trường hợp thuyền trưởng đã ra lệnh ném
hàng xuống biển để đảm bảo an toàn cho tàu trong cơn
bão, người chủ hàng sẽ phải chịu thiệt hại vì tổn thất
cho hàng hóa vì mệnh lệnh ném hàng xuống biển trên
trong khi đó người vận chuyển sẽ được miễn trừ trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho chủ tàu nếu trường hợp
trên đáp ứng đủ hai điều kiện. Trước hết, trong hợp
đồng vận chuyển phải có điều khoản thỏa thuận miễn
trừ trách nhiệm cho người vận chuyển trong trường
hợp con tàu vận chuyển gặp bão lớn, mạnh gấp nhiều
lần so với sức chịu đựng thực tế của con tàu ngay cả
khi đã có các cảnh báo về cơn bão từ trước đó. Điều
kiện đủ kế tiếp sau điều kiện cần về sự tồn tại của thỏa
thuận miễn trừ trách nhiệm trong trường hợp có tổn
thất cho hàng hóa đó là chứng minh người vận chuyển
đã thực hiện nghĩa vụ vận chuyển và giao hàng một
cách cẩn trọng, mẫn cán, hợp lí đối với hàng hóa. Cụ
thể, nếu tàu có một khiếm khuyết dẫn đến tổn thất cho
hàng hóa vận chuyển, cần phải xem xét rằng liệu một
người vận chuyển cẩn trọng, mẫn cán, trước khi bắt
đầu hải trình, một cách hợp lí có biết về khiếm khuyết
này không? Nếu có, tàu được coi là không có khả năng
đi biển. Còn nếu không, vì nguyên nhân hoặc những
nguyên nhân được liệt kê trong điều khoản miễn trừ
trách nhiệm, nghĩa vụ vận chuyển và giao hàng hóa đã
bị vi phạm không do mong muốn từ phía người vận
chuyển để đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển và
an toàn hàng hải trong suốt hải trình sẽ được miễn trừ
trách nhiệm.
Minh họa thực tiễn: Án lệ Elder, Dempster & Co.
Ltd. v. Paterson, Zochonis & Co. Ltd. [1924] A.C. 522.
Grelwen là tên con tàu thuê để chở dầu cọ bằng thùng
và hạt cọ được bọc trong bao. Bao hạt cọ được chằng
ở phía trên thùng dầu cọ. Khi tàu đến Hull, người ta
nhận thấy rằng thùng dầu cọ đã bị đè nát bởi bao hạt
cọ rất nặng. Chủ hàng yêu cầu bồi thường vì vi phạm
hợp đồng vận chuyển đồng thời khiếu nại sự bất cẩn
của người vận chuyển và vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Nếu tổn thất gây ra bởi sự chằng buộc kém hàng hóa,
Elder Dempster người vận chuyển sẽ được bảo vệ
khỏi các trách nhiệm bồi thường bởi các quy định có
trong vận đơn. Tuy nhiên nếu là một sự vi phạm nghĩa
vụ đảm bảo khả năng đi biển của con tàu, họ phải chịu
trách nhiệm hoàn toàn.
Tổn thất trong vụ Elder Dempster được kết luận
gây ra không phải do tàu không đủ khả năng đi biển,
mà do chằng buộc hàng trên tàu không chính xác. Nếu
sự phù hợp hoặc không phù hợp của con tàu được phát
hiện tại thời điểm xếp hàng lên tàu rõ ràng rằng sẽ
không còn tranh cãi gì về khả năng đi biển của con tàu.
Tuy nhiên tại thời điểm dầu cọ được xếp lên con tàu
Grelwen, con tàu này hoàn toàn phù hợp để nhận và
vận chuyển dầu cọ, tàu đã được thiết kế tốt và chắc
chắn. Mặc dù vậy, tàu đã thiếu các thiết bị cần thiết để
vận chuyển dầu cọ và tổn thất gia tăng khi những
thùng dầu cọ này đã bị chằng phía trên chúng một khối
lượng mà không một thùng dầu cọ nào chịu được (do
sức nặng từ các bao hạt cọ).
KINH TẾ - XÃ HỘI
94 SỐ 65 (01-2021)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
3.2. Chiến lược áp dụng pháp luật của chủ hàng
Để nhận diện rõ chiến lược pháp lí của chủ hàng,
cần thiết phải quay trở lại án lệ Lyon v Mells (1804)
đã được trích dẫn từ phần trên. Rõ ràng rằng mục đích
của người chủ xà-lan trong vụ việc này là để giới hạn
trách nhiệm của mình. Còn người chủ hàng, ngược lại,
mong muốn có được một khoản đền bù lớn hơn so với
mức giới hạn trách nhiệm thông thường. Tại thời điểm
xảy ra vụ việc, trước cả mốc 1804, khi mà chưa tồn tại
bất kì một điều ước quốc tế điều chỉnh vấn đề giới hạn
trách nhiệm của người vận chuyển trong lĩnh vực hàng
hải, việc định mức giới hạn trách nhiệm đền bù, trên
thực tế đã tồn tại. Bên được hưởng lợi từ quy định giới
hạn trách nhiệm vận chuyển là chủ tàu - người vận
chuyển trong khi tổn thất mà chủ hàng phải chịu, trong
đa số trường hợp đều cao hơn nhiều lần so với giá trị
kinh tế được nhận nếu chủ hàng đòi bồi thường thành
công từ người vận chuyển [10]. Nhận thức được rõ ưu
và nhược điểm của các quy định về nghĩa vụ phải cung
cấp một con tàu có đủ khả năng đi biển, phía chủ hàng
thường sử dụng lập luận tàu không đủ khả năng đi biển
để đạt được khoản bồi thường cao hơn so với mức giới
hạn bồi thường.
Để thành công với chiến lược pháp lí này, phía chủ
hàng sẽ phải chứng minh rằng chủ tàu đã không thực
hiện nghĩa vụ đủ cẩn trọng, mẫn cán và hợp lí chỉ một
trong những yêu cầu nằm trong nghĩa vụ đảm bảo khả
năng đi biển của người vận chuyển như hoặc tàu
không được trang bị đủ các dụng cụ cần thiết để đảm
bảo an toàn cho hải trình (cần phải phân biệt giữa
những thiếu sót về mặt trang thiết bị không quan trọng,
có thể sửa chữa sau, không ảnh hưởng lớn đến an toàn
của chuyến đi); hoặc thuyền viên không có khả năng
đáp ứng được yêu cầu công việc; hoặc con tàu không
được trang bị phù hợp để vận chuyển hàng hóa đặc
thù đã được thỏa thuận trong hợp đồng; hoặc tàu thiếu
các giấy tờ cần thiết cho chuyến đi.
Minh họa thực tiễn: Án lệ Tattersall v National
Steamship Co (1884) 12 QBD 297, DC là án lệ có
phán quyết nghiêng về chủ hàng. Bối cảnh của vụ việc
là do chủ tàu không trang bị đủ chuồng trại và vệ sinh
sạch tàu khi vận chuyển bò khiến cho bò chết bệnh và
bị thương rất nhiều. Thành công của chủ hàng là đã
nhận được mức bồi thường khác biệt hoàn toàn với
mức giới hạn rất thấp £5/1 con bò như trong hợp đồng
vận chuyển. Không đủ chuồng trại và không làm vệ
sinh sạch được coi là không thích hợp với hàng hóa
vận chuyển, do vậy tàu không đủ khả năng đi biển.
Nếu nhìn các mốc thời gian thì mốc 1804 của án
lệ Lyon v Mells đến vụ án Tattersall trên vào năm
1884, quãng thời gian cách nhau chỉ 80 năm nhưng
học thuyết về khả năng đi biển đã có sự biến đổi. Biến
đổi này có thể là tốt với chủ hàng nhưng không hẳn
với chủ tàu. Sự biến đổi này cũng một phần nào nói
lên cán cân lợi ích trong hàng hải tại thời điểm đó
nghiêng về phía bên nào.
5. Kết luận
Việc vận dụng pháp luật nói chung và pháp luật
hàng hải cụ thể về khả năng đi biển của tàu biển của
chủ hàng và người vận chuyển theo hướng có lợi cho
bản thân họ là hoàn toàn hợp pháp. Đặc biệt, nhờ có
sự hài hòa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế,
các bên vẫn có thể áp dụng chiến lược trên mà không
có sự thay đổi nào về mục đích sử dụng. Do đó, vai
trò quyết định nằm về phía người thẩm phán với yêu
cầu phải xem xét toàn bộ chi tiết vụ tranh chấp một
cách trung lập, công bằng. Việc phân tích và chỉ rõ
chiến lược áp dụng pháp luật về khả năng đi biển của
tàu biển sẽ giúp cho các bên hữu quan hiểu rõ được
lợi thế cũng như những bất lợi mà họ đang gặp phải.
Từ đó, các bên sẽ có được vị trí chủ động hơn trong
quá trình giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế, “an toàn hàng hải, an ninh hàng hải,
điều kiện bảo đảm lao động hàng hải và phòng ngừa ô
nhiễm môi trường” chính là định hướng của Bộ luật
Hàng hải, là nguyên tắc hoạt động chủ yếu trong ngành
công nghiệp hàng hải. Quả thực, giữa vấn đề an toàn
hàng hải với nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu
biển có mối quan hệ mật thiết tương hỗ lẫn nhau. Trên
thực tế, nghĩa vụ đảm bảo khả năng đi biển của tàu biển
không nên xem như là một yêu sách hành chính, kĩ
thuật mà cần được chính xác nhìn nhận như là một bước
kiểm soát an toàn giúp cho chuyến hải trình diễn ra
thuận lợi và an toàn cập cảng đến. Đảm bảo con tàu có
khả năng đi biển bằng một danh sách các điều cần kiểm
tra “check list” là điều cần thiết phải làm mỗi khi có một
con tàu ra khơi, nhằm củng cố an toàn hàng hải, đảm
bảo mạng sống của thủy thủ đoàn cũng như an toàn của
hàng hóa.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học
Hàng hải Việt Nam trong đề tài mã số: DT20-21.09.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lyon v Mells 5 East 428. 1804.
[2] Lyon v Mells 5 East 428 per Lord Ellenborough
CJ at p.436. 1804.
[3] State v Scott, 34 So. 479, 481, 110, La. 369.
KINH TẾ - XÃ HỘI
95 SỐ 65 (01-2021)
TẠP CHÍ ISSN: 1859-316X
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY
[4] Martin, D, Cases & materials on the carriage of
goods by sea, Cavendish Publishing Limited,
London, Third Edition, 2004.
[5] Empresa Cubana Importada de Alimentos
‘Alimport’ v Iasmos Shipping Co SA, 2 Lloyd’s
Rep 586, 1984.
[6] Alfred C Toepfer Schiffahrtsgesellschaft GmbH v
Tossa Marine Co Ltd 2 Lloyd’s Rep 325, 1985.
[7] Nguyễn Thành Lê, Nguyễn Đình Thúy Hường,
"Quy định khả năng đi biển của tàu biển trong vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển: sự hài hòa hóa
pháp luật hàng hải Việt Nam và pháp luật hàng
hải quốc tế”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng
hải Số 64 (11/2020), tr.100-106, 2020.
[8] Clarke, M, ‘Seaworthiness in time charters’
LMCLQ 493. 1977.
[9] C.LESNI, The ship owner’s obligation to ensure
seaworthiness of the ship - implicit obligation of
the ship owner in the charter party, Contemporary
Readings in Law and Social Justice (ISSN 1948-
9137), Vol. 4(1), pp.563-569, 2012.
[10] Điều 152. Giới hạn trách nhiệm của người vận
chuyển, Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015.
Ngày nhận bài: 09/12/2020
Ngày nhận bản sửa: 07/01/2021
Ngày duyệt đăng: 18/01/2021
Ngày nhận bài: 21/12/2020
Ngày nhận bản sửa lần 01: 10/01/2021
Ngày nhận bản sửa lần 02: 18/01/2021
Ngày duyệt đăng: 22/01/2021
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chien_luoc_phap_ly_ap_dung_voi_kha_nang_di_bien_cua_tau_bien.pdf