Sự già hóa dân số diễn ra cũng
được coi là điểm đáng lưu ý đến việc
nhu cầu việc làm trong nhóm nghề
thuộc lĩnh vực chăm sóc xã hội sẽ gia
tăng mạnh mẽ trong tương lai. Theo
truyền thống, việc làm trong lĩnh vực
này được trả lương thấp và thường tạm
thời do nhu cầu tự nhiên, dẫn đến tình
trạng thiếu lao động có kỹ năng. Ngành
này có một sự thiên vị giới tính mạnh
mẽ, phụ nữ có mức độ quan trọng trong
lĩnh vực này. Lương và địa vị không
phải lúc nào cũng phản ánh đúng những
yêu cầu về kỹ năng cảm xúc và giao
tiếp cần thiết để có thể chăm sóc một
cách chất lượng, và đã có các yêu cầu
nâng cao chất lượng công việc như là
một phương tiện để thu hút những
người mới vào ngành. Ví dụ, một trong
những kỹ năng của các dự án hệ sinh
thái ở Queensland, Australia, đã tập
trung vào lĩnh vực chăm sóc người cao
tuổi: "Chiến lược hình thành kỹ năng
chăm sóc người cao tuổi ở Queensland"
là một sáng kiến của chính quyền nhằm
kết nối giữa chính quyền, ngành công
nghiệp và tổ chức đào tạo đã đăng ký
để giải quyết tình trạng thiếu kỹ năng.
Sự thiếu kỹ năng được cho là bắt nguồn
từ sự thiếu cơ hội phát triển nghề
nghiệp trong lĩnh vực này, thiếu hỗ trợ
thành lập và cơ chế phát triển, không sử
dụng các kỹ năng và kiến thức của
người lao động. Chiến lược tập trung
vào giáo dục và đào tạo, quản lý lực
lượng lao động, thiết kế công việc, hình
ảnh ngành công nghiệp và quan hệ
công nghiệp. Vai trò trợ lý y tế đã được
phác họa lại, hướng đào tạo và chăm
sóc được triển khai, tất cả đều thống
nhất theo tính chất của chăm sóc (QCS
& H ITC, 2006)
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chiến lược phát triển vùng nhằm đối phó với khung hoảng và tạo việc làm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 30/Quý I- 2012
57
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VÙNG NHẰM ĐỐI PHÓ VỚI
KHUNG HOẢNG VÀ TẠO VIỆC LÀM
(Dịch từ tài liệu OECD Regional Outlook 2011: Building Resilient Regions
for stronger economies)
Biên dịch: Trần Ngọc Anh
Hiệu đính: Nguyễn Trung Hưng
Trung tâm nghiên cứu Dân số-Lao động-Việc làm
hằm đối phó với làn sóng
thất nghiệp gia tăng mạnh
mẽ trong thời gian gần đây
tại các nước thuộc khối hợp tác phát
triển kinh tế (OECD), chính phủ các
quốc gia này đã thực thi khá nhiều
những chính sách và biện pháp, trong
đó bao gồm gia tăng kinh phí đầu tư
vào các chương trình thị trường lao
động chủ động như hỗ trợ các doanh
nghiệp thực thi các chương trình việc
làm ngắn hạn, đầu tư kinh phí vào các
chương trình tạo việc làm trong khu
vực công. Mặc dù những biện pháp này
có những tác động tích cực và tương
đối có hiệu quả trong việc giúp đỡ
doanh nghiệp và người lao động đối
phó với khủng hoảng, song chúng chỉ
có tác dụng trong một thời gian ngắn.
Để đặt nền móng cho triển vọng phát
triển kinh tế bền vững hơn trong tương
lai, những chương trình hành động ở
cấp độ quốc gia, vùng và khu vực là rất
cần thiết nhằm hỗ trợ cho hoạt động
điều chỉnh cấu trúc để hướng tới mục
tiêu việc làm có hiệu quả cao hơn. Do
đó, Chương trình phát triển kinh tế và
tạo việc làm tại địa phương thuộc tổ
chức OECD đã tiến hành nghiên cứu,
xem xét và đánh giá những giải pháp
nào đã được triển khai kể từ khi khủng
hoảng xảy ra và những giải pháp nào
liên quan tới lĩnh vực việc làm và phát
triển kỹ năng được định hướng tốt hơn
dự kiến cần thiết được thực hiện trong
tương lai nhằmđáp ứng những yêu cầu
phát triển của nền kinh tế trong dài hạn
của từng địa phương/vùng lãnh thổ và
xa hơn nữa là qua đó tăng cường năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia.
1. Chính sách thị trường lao động
“Area-based” đóng vai trò quan trọng
trong quá trình hồi phục hậu khủng
hoảng
Để đối phó với khủng hoảng, chính
phủ các nước buộc phải đưa ra một số
những biện pháp trong lĩnh vực việc
làm và chính sách đào tạo, nâng cao
nguồn lực cho thị trường lao động mở
với mục đích giúp người lao động tìm
việc làm. Những tác động đầy ý nghĩa
này của chính phủ này như một phần
của gói kích cầu đã tác động tới quá
trình tạo việc làm ở địa phương, kể cả
khu vực công và tư nhân. Việc làm cho
người lao động yếu thế được các doanh
nghiệp cam kết thực hiện, chẳng hạn
như những hỗ trợ giúp các công ty thực
thiện các kế hoạch kinh doanh ngắn
hạn. Những hành động này của chính
phủ cũng phù hợp với việc đầu tư vào
vấn đề việc làm và kỹ năng lao động tại
địa phương.
Một đánh giá gần đây về ứng phó
của địa phương đối với khủng hoảng
chỉ ra rằng cho đến nay, dường như
một số nhóm đối tượng “nguy cơ
N
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 30/Quý I- 2012
58
cao/yếu thế” vẫn chưa được quan tâm
một cách đầy đủ, đúng mức trong các
sáng kiến/chương trình hành động do
chính quyền địa phương tổ chức triển
khai nhằm ứng phó lại những tác động
tiêu cực do khủng hoảng kinh tế gây ra.
Cụ thể, nhiều trung tâm dịch vụ việc
làm chỉ tập trung các nguồn lực hữu
hạn của mình để hỗ trợ những nhóm
đối tượng có lợi thế hoặc dễ dàng hơn
nhằm giúp họ nhanh chóng tìm kiếm
được việc làm mà dường như bỏ quên
và không đủ khả năng để hỗ trợ cho
những nhóm đối tượng yếu thế, và do
đó những đối tượng này sẽ mất đi
những kỹ năng và động lực làm việc do
bị thất nghiệp trong một giai đoạn dài.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với sự
hồi sinh của nền kinh tế địa phương,
trong đó những lao động cao tuổi
không được khuyến khích rời khỏi thị
trường lao động thông qua việc nghỉ
hưu sớm. Thêm vào đó, nhóm lao động
di cư bị thất nghiệp sẽ có xu hướng rời
khỏi địa phương nếu như họ không
nhận được những hỗ trợ thích hợp để
tìm kiếm việc làm, điều này đồng nghĩa
với việc sẽ xuất hiện tình trạng thiếu
hụt lao động có kỹ năng và trình độ
chuyên môn kỹ thuật tốt trong tương
lai, khi nền kinh tế bắt đầu quá trình hồi
phục và phát triển.
2. Cải thiện việc làm trong sau khủng
hoảng: Làm thế nào để duy trì việc
làm?
Dựa trên nghiên cứu trong hơn ba
thập kỷ về tình trạng việc làm của địa
phương và chính sách phát triển kinh
tế, chương trình phát triển kinh tế và
việc làm tại địa phương của OECD, đã
xác định được những nhiệm vụ cơ bản
cần được ưu tiên thực hiện, bao gồm:
(i) Tạo ra một lực lương lao động có kỹ
năng hùng hậu; (ii) Sử dụng tốt hơn
những nguồn lao động có tay nghề
trong nền kinh tế địa phương; (iii) Hỗ
trợ người lao động trong quá trình làm
việc và nâng cao kỹ năng; (iv) Tạo đà
cho giáo dục và đào tạo cho những
ngành kinh tế trọng điểm; (v) Nâng cao
năng lực chính quyền địa phương tốt.
Để thực thi những chính sách này
sẽ gặp khó khăn khi đối mặt với tình
trạng cắt giảm ngân sách khá phổ biến
hiện nay. Do đó những tranh cãi thường
tập trung vào vấn đề làm thế nào để
những vẫn đề này có thể thực thi.
3. Xây dựng lực lương lao động có kỹ
thuật và khả năng thích nghi
Những địa phương/cộng đồng có
tốc độ phục hồi nhanh nhất là những
nơi có lực lượng lao động có khả năng
thích nghi cao với những xu hướng
thay đổi do tác động từ bên ngoài hoặc
là với những cú sốc kinh tế. Điều này
đặc biệt được thể hiện rõ tại các khu
vực đô thị hoặc thành phố lớn, vì
những nơi này rất ít bị tổn thương và
dẫn đến sụp đổ trong bất cứ khu vực
đặc thù nào. Khu vực đô thị và các
thành phố lớn là nơi thu hút lao động
có trình độ tay nghề cao những người
có khả năng thích nghi với những cơ
hội mới trong nền kinh tế. Tuy nhiên,
tất cả các địa phương đều có thể hành
động nhằm hướng tới việc tăng cường
sự năng động và thích nghi của người
lao động địa phương mình. Khả năng
thích nghi cần được xem xét ở nhiều
cấp độ khác nhau (Simmonds, 2009).
Chính phủ trung ương lập hành lang
pháp lý cho người sử dụng lao động và
các tổ chức công đoàn, nhưng khả năng
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 30/Quý I- 2012
59
thích nghi cũng rất cần được đề cập tại
cấp độ địa phương. Người sử dụng lao
động và những đối tác xã hội khác liên
quan cần phải được trao quyền và bắt
đầu đổi mới và bước đầu làm quen với
những thay đổi. Có nhiều cách để chính
phủ có thể làm cho nền kinh tế dễ thích
nghi hơn, nhưng chìa khóa để thành
công là đó là nâng cao trình độ kỹ năng
và việc làm của người lao động tại địa
phương. Lực lượng lao động địa
phương là một trong những tài sản
quan trọng nhất – bởi họ có ý tưởng,
sáng kiến, tài năng, kỹ năng, chuyên
môn, văn hóa và phương pháp tiếp cận
với công việc.
Để thích nghi tốt hơn đòi hỏi sự
giải quyết đồng thời của các cơ quan
chính quyền địa phương. Trước tiên,
những cơ quan này cần phải đảm bảo
rằng nguồn lao động có những kỹ năng
cần thiết ở trình độ cao (khả năng phân
tích, giải quyết vấn đề, khả năng giao
tiếp tốt, và khả năng sáng tạo), tiếp đến
họ cần phải đầu tư cho hệ thống đào tạo
linh hoạt để mọi người có thể học tập
các kỹ năng chuyên môn trong suốt quá
trình làm việc. Yêu cầu về các kỹ năng
chung cần thiết ngày càng cao trong
nền kinh tế tri thức. Folorida (2002) đã
khẳng định sự gia tăng tầm ảnh hưởng
của “những lớp người tiên phong” ,
những người có khả năng giải quyết
vấn đề và đổi mới thông qua hàng loạt
các nguyên tắc cơ bản. Những công
nghệ mới như Internet khiến thông tin
lan truyền mạnh hơn, việc gia tăng cầu
về người lao động có trình độ cao nhằm
phân tích thông tin này và chuyển biến
nó thành những kiến thức có giá trị.
Không phải chỉ những người thuộc
nhóm đầu trong thang bậc nghề nghiệp
mới cần những kỹ năng này mà những
người làm công việc đơn giản hơn và
có tính chất lặp đi lặp lại (ví dụ như
nhân viên bán hàng) cũng có thể mang
lại lợi ích cho doanh nghiệp thông qua
khả năng giải quyết vấn đề và xử lý
thông tin nhận được từ khách hàng.
Trong khu vực dịch vụ kỹ năng
giao tiếp và khả năng đáp ứng những
yêu cầu của khách hàng được coi trọng,
lợi thế so sánh trong kinh doanh là đưa
ra những sản phẩm có thiết kế đẹp,
sáng tạo và có khả năng làm hài lòng
khách hàng. Những kỹ năng chung cho
phép người lao động góp phần thúc đẩy
và sáng tạo trong công việc, trong khi
đó điều này lại ít phụ thuộc vào những
kỹ năng chuyên ngành cho công việc
tương lai. Những kỹ năng này sớm
được đào tạo trong trong cuộc sống,
chính vì thế việc đầu tư cho giáo dục
mầm non và trong độ tuổi đi học là đặc
biệt quan trọng. Tuy nhiên, không phải
tất cả mọi trẻ em đều được hưởng lợi từ
giáo dục. Trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn, hoặc bị rào cản bởi ngôn ngữ cần
thêm sự hỗ trợ. Giáo dục mầm non có
thể là một dấu mốc thúc đẩy những đứa
trẻ không được bố mẹ đầu tư nhiều vào
giáo dục/ hoặc có rào cản về ngôn ngữ
khi chúng nhập học chính thức. Gần
đây, trong khi rất khó để có thể học
những kỹ năng thông thường trong
cuộc sống, thì việc đầu tư vào những kỹ
năng cao cấp lại có thể mang lại những
lợi ích cho cá nhân thông qua giáo dục
sau bậc phổ thông (bao gồm cả đào tạo
nghề) ví dụ như bổ sung các khóa học
về giao tiếp, lãnh đạo, kinh doanh hay
quản lý. Bên cạnh đó, khả năng tiếp cận
hệ thống việc làm và đào tạo cũng làm
gia tăng những kỹ năng chuyên biệt và
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 30/Quý I- 2012
60
đáp ứng những yêu cầu thay đổi kỹ
năng. OECD đã chỉ ra rằng mô hình
giáo dục “ngoại vi” không còn khả thi
trước những thay đổi liên tục của nền
kinh tế ngày nay và sự hình thành
những kỹ năng phải được tích lũy trong
một thời gian dài. Mặc dù thuật ngữ
“học tập suốt đời” rất phổ biến ở các
nước trong Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế, tuy nhiên trên thực tế nó ít
được nhắc đến trong các hệ đào tạo bao
quát toàn diện trong thời gian học, đặc
biệt là những điều này lại phụ thuộc
vào nền kinh tế của địa phương. Trên
thực tế, “học tập suốt đời” có nghĩa là
mở rộng các chương trình giáo dục và
đào tạo cho nhóm mục tiêu mới (ví dụ
trẻ vị thành niên và người cao tuổi) và
đảm bảo phù hợp với những yêu cầu
khác nhau về thời gian của họ (chẳng
hạn như khối lượng công viêc và trách
nhiệm với gia đình). Người lao động có
thể được đào tạo tập trung hoặc ngoài
giờ làm việc. Người lớn tuổi hơn có thể
cần một chương trình đào tạo được
thiết kế đặc biệt để mang lại hiệu quả
trong thực tế, điều đó khiến cho việc
giáo dục trong độ tuổi của họ đáp ứng
được những yêu cầu trong từng thời kỳ
kinh tế và công nghệ khác nhau. Trẻ vị
thành niên có kỹ năng yếu nhìn chung
là do ít được tiếp xúc với đào tạo.
Nhiều quốc gia đang phải đối mặt với
sự trì trệ của nền giáo dục và đào tạo
do năng lực yếu. Một vấn đề xuất hiện
đó là những nhóm người không có điều
kiện thuận lợi trở nên bi quan với hệ
thống giáo dục mà họ cho rằng sẽ
không thành công, có nghĩa là việc đưa
ra giải pháp mới cho giáo dục và đào
tạo là cần thiết. Các cơ quan chính
quyền đang gia tăng việc thử nghiệm
những chương trình học tập mới, những
chương trình này có thể được học ngay
ở nhà và từ các cơ quan tổ chức khác
nhau và thậm chí là ở những môi
trường vượt trội hơn. Âm nhạc, thể
thao và các hoạt động văn hóa có thể là
một phương thức hữu dụng để tạo ra
những cơ hội học tập nhưng chúng
không được xem như là “đào tạo cơ
bản” cụ thể. Ngoài ra, vị trí thực tập tại
công ty và những vị trí có kinh nghiệm
có thể là những cơ hội tuyệt vời để học
những kỹ năng mới mà môi trường giáo
dục truyền thông không tạo ra được.
Một vấn đề ảnh hưởng tới những người
lao động thất nghiệp đó là ở nhiều quốc
gia trong OECD thiếu những khóa đào
tạo dài hạn, thiếu tính chủ động để cải
thiện kết quả làm việc. Dịch vụ việc
làm công cộng thường tài trợ cho
những khóa đào tạo ngắn, cường độ tập
trung thấp do đó, nó không tạo ra được
hiệu quả bền vững và lâu dài. Cần thiết
phải mở rộng sự hợp tác giữa các tổ
chức việc làm và các cơ quan về giáo
dục nhằm đảm bảo nâng cao những kỹ
năng cần thiết cho lao động thất nghiệp,
với những cơ chế mới dự trữ nhiều
nguồn đào tạo chuyên sâu. Vai trò của
thành phần kinh tế tư nhân trong việc
đào tạo chính nhân viên của họ không
thể xem nhẹ, cho dù tất cả những doanh
nghiệp không thể đóng gói cho vào sự
phát phát triển kỹ năng bằng cách
tương tự. Những doanh nghiệp lớn đầu
tư khá lớn cho việc nâng cao kỹ năng
cho những người lao động của họ thông
qua các khóa học chính thức hoặc các
buổi diễn thuyết đào tạo cho tổ chức,
tuy nhiên các doanh nghiệp vừa và nhỏ
có thể yêu cầu sự hỗ trợ từ các thành
phần kinh tế trong việc thiết lập các
hình thức đào tạo theo yêu cầu và
chũng có thể tiến hành ở những nơi làm
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 30/Quý I- 2012
61
việc khác nhau, và cả những hình thức
học tập khác thuận lợi cho việc chia sẻ
kiến thức. Trước khi xảy ra suy thoái
kinh tế, nhiều tổ chức đã tích cực tìm
kiếm nhân tài để lấp đầy sự thiếu hụt về
lao động có kỹ năng, điều này khiến
cho các tổ chức bắt đầu cạnh tranh
nhau để thu hút nhiều lao động hơn.
Với xu hướng hiện nay về nhân khẩu
học, nhiều khả năng di cư sẽ vẫn tiếp
tục được coi như là một phương pháp
hiệu quả để xây dựng một lực lượng lao
động địa phương tốt. Thậm chí ngày
nay, những người nhập cư có thể tác
động lớn tới tăng sự tăng trưởng, bởi họ
mang theo những mối quan hệ quốc tế,
hướng tới sự tăng trưởng và doanh
nghiệp họ phục vụ, và họ sẵn sàng làm
việc trong điều kiện khó khăn khi họ
chính thức gia nhập thị trường lao
động. Tuy nhiên, rất cần thiết phải hỗ
trợ mạnh mẽ để người nhập cư hòa
nhập với các tổ chức. Những kỹ năng
có khả năng thích nghi với thị trường
lao động mới là phương thức tập trung
nguồn lực , do đó chính quyền địa
phương cần phải có những biện pháp
để ghi nhận bằng cấp và những kỹ năng
đạt được tại nước ngoài và cung cấp
những chỉ dẫn về ngôn ngữ chuyên
ngành. Thêm vào đó, một điều quan
trọng là các nhà hoạch định chính sách
không được dành nhiều ưu tiên vào dân
nhập cư làm mà quên đi dân bản địa,
những điều này là bất lợi trong thị
trường lao động bao gồm con cái của
những người nhập cư, và trong một số
trường hợp đó là thế hệ sau nữa của họ,
họ tiếp tục chịu tác động của những yếu
kém của thị trường lao động. Đảm bảo
chương trình phát triển lực lượng lao
động tiếp cận được với tất cả người dân
địa phương sẽ là yếu tố sống còn nhằm
tránh sự phát triển kinh tế theo 2 hướng
đối lập là “ giàu kỹ năng” và “nghèo kỹ
năng”. Với những yếu tố đã được tổng
hợp, các nhà hoạch định chính sách
ngày càng nhận ra vai trò của việc đầu
tư vào những chiến lược mở rộng kỹ
năng của địa phương, mở rộng ra cả
những đối tác khác. Một báo cáo đánh
giá tại địa phương ở các nước OECD
chỉ ra rằng ngoài việc đầu tư cho giáo
dục ở độ tuổi đi học, những chiến lược
như vậy còn tập trung ở 3 mảng chính:
thu hút và giữ chân nhân tài, tập hợp
nhóm có hoàn cảnh khó khăn vào
chương trình phát triển lực lượng lao
động, nâng cao kỹ năng cho người lao
động có trình độ thấp.
4. Sử dụng tốt hơn nguồn lao động lành
nghề và nâng cao chất lượng việc làm
tại địa phương
Để đối phó với tình trạng thất
nghiệp đang gia tăng, hiện nay phải tiến
hành các biện pháp hỗ trợ tạo việc làm
tại các địa phương trong các quốc gia
nằm trong tổ chức OECD. Những biện
pháp này rất quan trọng trong dài hạn,
mặc dù phải tạo việc làm ổn định và
thực sự cho người lao động, chứ không
phải là bất kỳ công việc nào. Người lao
động trong khu vực công cũng cần phải
tập trung vào chất lượng của những
công việc có sẵn trong thị trường lao
động. Khi nền kinh tế thịnh vượng
trong những năm trước khủng hoảng,
thông qua tăng trưởng việc làm bền
vững, đã che đậy một vấn đề cố hữu
liên quan tới những việc làm không
hữu ích trong quy mô tạo việc làm rộng
lớn. Chẳng hạn như những công việc
tạm thời để duy trì việc làm cho người
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 30/Quý I- 2012
62
lao động, nhưng chúng đã bộc lộ những
hậu quả xấu. Những công việc này
được trả lương tương đối thấp, tạo nên
một tầng lớp xã hội được gọi là “giai
cấp người lao động nghèo khổ”. Tiền
lương và thu nhập thực thế không tăng
do sự mất cân bằng trong thu nhập
ngày càng tăng trong dân cư. Fitzgerald
(2006) chỉ ra rằng “ công việc có thể
xác định mức độ chuyên nghiệp hoặc
bán chuyên nghiệp thông qua kỹ năng,
tiền lương, lộ trình nghề nghiệp, việc
làm đang bị thiếu hụt thay vì tiền lương
thấp hay là là tốc độ thay thế người lao
động cao. Đồng thời sự sẵn có những
công việc đơn giản khiến cho người
dân giảm khoản đầu tư của họ vào giáo
dục và đào tạo dài hạn, nguyên nhân là
thanh niên từ bỏ việc học tập sớm để đi
làm. Điều này có thể có lợi về tài chính
trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn lộ
trình nghề nghiệp và tổng thu nhập có
thể sẽ bị ảnh hưởng bởi những sự lựa
chọn như vậy.
Quan điểm về “việc làm đầu tiên”
được hình thành trong cộng đồng, dịch
vụ việc làm nhanh chóng đáp ứng yêu
cầu của các khách hàng về công việc
này, trái ngược với việc giúp người lao
động đầu tư vào vốn nhân lực, kỹ năng
và chuyển hướng tới nghề nghiệp lâu
dài và ổn định hơn. Đồng thời, để xây
dựng nền kinh tế bền vững ở địa
phương, các tổ chức về việc làm cần
phải thỏa thuận với người sử dụng lao
động để đảm bảo rằng họ đã sử dụng
hết những tài năng và năng lực của địa
phương. Bằng việc cải thiện cả hiệu
quả sản xuất và trình độ kỹ năng lao
động, người sử dụng lao động sẽ sử
dụng tối ưu hóa lực lượng lao động địa
phương nhằm tạo nhiều cơ hội việc làm
và cạnh tranh với các đối thủ taị địa
phương. Trong khi, ngành kinh tế tư
nhân phải miễn cưỡng làm việc với cơ
quan công quyền về các vấn đề năng
suất và tổ chức việc làm trước suy
thoái, thì họ sẵn sàng hơn trong việc
hợp tác với các đối tác để củng cố nền
kinh tế địa phương. Thậm chí, nhiều
doanh nghiệp vẫn rất lạc quan trong
việc tối đa hóa năng lực sản xuất: trong
một cuộc thăm do các chuyên gia tại
hội đồng thương mại nước Mỹ, được
thực hiện bởi chương trình phát triển
kinh tế và việc làm địa phương tại các
nước OECD vào năm 2008, 68,3% số
người được hỏi cho răng các cơ quan
phát triển lực lượng lao động nên đóng
vai trò giúp doanh nghiệp giải quyết
các vấn đề phát sinh trong sản xuất,
trong đó 28,6 % ủng hộ mạnh mẽ vai
trò này. Giải quyết những vấn đề này là
đặc biệt quan trọng tại các khu vực dân
cư và tại các vùng thuộc OECD, đặc
biệt là những vùng nông thôn bị cô lập.
Green et al. (2003) đưa ra một sơ
đồ rất hiệu quả để giải thích mối quan
hệ phức tạp giữa kỹ năng và cung lao
động tại các vùng khác nhau. Theo sơ
đồ này, các khu vực đại thể được chia
thành 4 miền ( sơ đồ 1.1.). Trong bối
cảnh thay đổi và biến đổi không ngừng
về nhân khẩu học, nhiều quốc gia đã
nhận ra những khoảng trống và thiếu
hụt về kỹ năng của họ. Ở một số khác,
việc yếu cung cấp lao động kỹ năng lại
đáp ứng được yêu cầu không lớn về kỹ
năng giữa những người chủ doanh
nghiệp tại địa phương được gọi là - sự
cân bằng kỹ năng còn thấp.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 30/Quý I- 2012
63
Sơ đồ1.1: Dịch chuyển từ trạng thái cân bằng kỹ năng thấp tới cao
Cung
Thấp Cao
Cao
Cầu
Thấp
Sự tiến bộ của cộng đồng phải được
ứng dụng những công nghệ mới và thích
nghi với những sự thay đổi nhanh chóng
của thị trường. Colye (2001) chỉ ra thời
gian tụt hậu khoảng 50 năm giữa công
nghệ mới và năng lực kinh tế và xã hội
đã tận dụng đầy đủ những thuận lợi để
có thể thúc đẩy sản xuất của họ. Trong
khi đó, một số doanh nghiệp có thể tạo
ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp
mình thông qua việc giữ vững trình độ
kỹ năng lao động, và tiền lương chỉ
lương chi trả ở mức thấp nhất. Khi mà
người sử dụng lao động tập trung tại
một vùng riêng biệt, một vòng luẩn
quẩn có thể phát sinh: Đó là cá nhân
không trả chi phí cho giáo dục nếu các
công ty không tìm kiếm lao động có kỹ
năng, trong khi đó những nhà quản lý
sẽ rất khó để nâng cao năng lực sản
xuất và sử dụng tốt hơn lực lượng lao
động có kỹ năng trong khi thiếu người
lao động giỏi đã qua đào tạo tại địa
phương. Đây là một thách thức cho các
nhà hoạch định chính sách. Việc nâng
cao nguồn cung lao động kỹ năng đầy
rủi ro, trừ phi các nỗ lực được đồng
thời thực hiện để tăng cầu lao động,
nếu không điều này có thể đẫn tới tình
trạng dư thừa lao động có kỹ năng và
xảy ra hiện tượng chảy máu chất xám.
Trong những tình huống như vậy, các
nhà hoạch định chính sách thường
hướng tới những giải pháp tình thế
nhằm lấp đầy tình trạng thiếu hụt lao
động, đối ngược lại với tình trạng thiếu
hụt lao động có kỹ năng. Tình trạng
thiếu hụt lao động xảy ra khi các vị trí
tuyển dụng không tuyển dụng được,
cũng có thể do sự thiếu định hướng
của dân cư địa phương, hoặc do dân cư
không bị thu hút bởi các yếu tố như tiền
lương, điều khoản hợp đồng hoặc điều
kiện làm việc. Những thiếu hụt về lao
động như vậy thường được giải quyết
bằng nguồn lao động nhập cư, có nghĩa
là các nhà hoạch định chính sách đã
không có được một cái nhìn chiến lược
dài hạn cần thiết để nâng cao chất
lượng và kiến thức chuyên môn mà
Sự thiếu hụt và
những khoảng
trống về kỹ năng
Sự cân bằng kỹ
năng cao
Sự cân bằng kỹ
năng thấp
Dư thừa kỹ năng
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
64
công việc yêu cầu, và tạo sức hấp dẫn
trong thị trường lao động đối với cả dân
cư trú và người mới đến. Thêm vào đó,
trong khi giúp người sử dụng lao động
lấp đầy những vị trí quan trọng còn
thiếu trong bối cảnh suy thoái kinh tế,
có thể đây sẽ không phải là cách hay
nhất để giúp nền kinh tế phát triển bền
vững. Đôi khi, nếu không cung không
theo cầu lao động sẽ là một dấu hiệu để
nhận biết được rằng phương thức sản
xuất hàng hóa hay dịch vụ không bền
vững và do đó mà những vấn đề về việc
làm không thể giải quyết được trong
dài hạn. Các biện pháp khẩn cấp của
các cơ quan lao động địa phương nhằm
bù đắp nhũng khiếm khuyết kể trên vẫn
tiếp tục bảo trợ trong những hoạt động
kinh doanh ít sử dụng nguồn lực cộng
đồng (đặc biệt là những hoạt động kinh
tế sử dụng việc làm đơn giản, và tạo ra
“làn sóng” trong thị trường lao động),
đồng thời nó cũng góp phần giảm năng
suất và cản trở sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cần thiết. Rất khó để khu vực
công có thể cảnh báo các doanh nghiệp
vào các vấn đề phát sinh trong sản xuất,
và tại nhiều nước thì sự thiếu uy tín là
một vấn đề cần phải được giải quyết
trước khi các nhà chính sách có thể can
thiệp thành công vào những vùng này.
Trong khu vực công rất quen thuộc với
một số chủ đề tranh luận - Quản trị
nguồn nhân lực nói riêng – nhiều vấn
đề chuyên môn phát sinh hơn khi việc
với trung gian. Tại miền Đông – Nam
Lincolnshire của Anh, một trường đại
học địa phương đã chủ trì chương trình
phát triển hợp tác đào tạo kỹ thuật cho
ngành thực phẩm, chương trình này đã
nâng cao kỹ năng của người lao động
và năng lực sản xuất tại địa phương
thông qua việc chia sẻ đổi mới và
chuyển giao công nghệ. Trong khi các
hiệp hội, công ty cung cấp việc đạo tạo
một cách chính thức tới cư dân tại địa
phương, cùng với đó còn là sự trao đổi
kinh nghiệm và kiến thức không chính
thức nhưng lại rất hiệu quả trong việc
khuyến khích người lao động nâng cao
khả năng của họ và tăng năng suất lao
động. Cuối cùng, các nhà hoạch định
chính sách sẽ được hưởng lợi từ việc
đảm bảo rằng chiến lược về kỹ năng tại
địa phượng phải được xuất phát từ cả
cung và cầu các kỹ năng . Ở Úc, một kỹ
năng tiếp cận với môi trường phát triển
đã cung cấp một mô hình hữu ích cho
các nhà hoạch định chính sách tìm
kiếm các giải pháp phù hợp hơn. Thông
qua việc đánh giá tới chính sách đào
tạo nghề năm 2001 (Bunchanen el at
2001), những nhà hoạch định chính
sách không chỉ tập trung vào việc làm
thế nào để phát triển các kỹ năng mà
còn tập trung vào việc làm thế nào để
áp dụng những kỹ năng này trong thực
tế. Trong mô hình kỹ năng về hệ sinh
thái, sự thiếu hụt các kỹ năng được cho
là do vấn đề cung cấp lao động có kỹ
năng từ ngành giáo dục và đào tạo cho
tổ chức việc làm và các tổ chức kinh
doanh. Tốt hơn việc phản ứng một cách
tự phát với tình trạng thiếu hụt kỹ năng
lao động bởi các khóa đào tạo mới, các
nhà hoạch định chính sách cần phải tập
trung vào việc tìm ra những nguyên
nhân của vấn đề này. Câu hỏi thường
xuyên được đặt ra là tình trạng thiếu kỹ
năng là do thiếu đào tạo hay là đúng
hơn là việc làm tại địa phương không
đủ hấp dẫn để giữ chân người lao động.
Từ sự giới thiệu của chương trình,
nhiều tiểu bang của Úc đã phát triển
thành các chương trình riêng của họ
như: Queensland đã phát triển hơn 60
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
65
dự án về hệ sinh thái. Ở Pháp, một
chiến lược nhằm tăng tính chủ động về
quản lý việc làm và kỹ năng nghệ tại
các cấp địa phương đã được đưa ra vào
năm 2008. Chiến lược này dự tính mối
liên kết mạnh mẽ giữa: i) cấp độ kế
hoạch kinh doanh của hãng; ii) chiến
lược kinh tế - xã hội tại địa phương; iii)
Dự định việc làm của người lao động
bản địa. Chiến lược đóng vai trò cải
thiện cả trình độ kỹ năng của dân cư địa
phương và tổ chức việc làm trong
doanh nghiệp trong dài hạn.
5. Phát triển chuyên môn và định
hướng nghề nghiệp
Việc người chủ doanh nghiệp sử
dụng kỹ năng của nhân viên là rất quan
trọng, song việc họ khuyến khích tạo
cơ hội nâng cao kỹ năng cho nhân viên
cũng rất cần thiết, như vậy thì nhân
viên có kỹ năng thấp sẽ làm việc lâu
dài và có cơ hội nhận được công việc
tốt hơn. OECD (2006a) phát hiện rằng
người sử dụng lao động rất hiếm khi
đầu tư vào việc đào tạo lao đông kỹ
năng thấp, vì chủ yếu tuyển dụng theo
chế độ tạm thời. Điều này ảnh hưởng
đến động lực cho cả hai trong việc đầu
tư vào kỹ năng của nhân viên. Trong
“những cách tiếp cận truyền thống về
nghề nghiệp” được phát triển tại Mỹ
gần đây đã đem đến một phương thức
để vượt qua những trở ngại đó. Tại các
thành phố như New York, các tổ chức
công đã cùng nhau hợp tác để thiết lập
bậc thang nghề nghiệp truyền thống. Ví
dụ, các lớp huấn luyện đặc biệt được
liên kết với nhau để tạo nên “những
sáng kiến trong nghề” cho công nhân
được trả lương thấp, biện pháp này
thường được hỗ trợ vốn bởi tổ chức cá
nhân và nhà nước (xem Froy, Giguère
và Hofer, 2009). Nội dung chính cách
tiếp cận về bậc nghề bao gồm việc xác
định “đào tạo” với các khu công nghiệp
và các trường dạy nghề, điều chỉnh tấp
huấn cho phù hợp với nhu cầu của
người lao động, liên kết giữa đào tạo
với việc chuyển đổi trong nghề nghiệp,
từ mức độ nhân viên mới vào cho đến
trình độ cao, và truyền thông tin qua
các tư vấn về nghề nghiệp.
Trong khi bậc nghề có thể hỗ trợ
phát triển trong từng ngành nghề và
khu việc riêng biệt, nó cũng rất hữu ích
trong việc thiết lập một đường liên kết
ngang giữa các ngành nghề, tạo nên
“các cụm nghề nghiệp” ở mức độ địa
phương. Biện pháp này cho rằng các kỹ
năng cần thiết giúp ích cho người lao
động ngày nay có điểm đồng nhất giữa
các ngành khu vực khác nhau. Với
khóa đào tạo kỹ thuật hợp lý, con người
sẽ có thể làm việc hay chuyển đổi cả
theo chiều dọc lẫn chiều ngang. Ví dụ,
biện pháp “cụm nghề nghiệp” được
phát minh bởi Bộ Giáo Dục Mỹ đã
được áp dụng tại nhiều bang và khu
vực, đồng thời được điều chỉnh hợp lý
với nhu cầu thị trường lao động từng
địa phương. “Cụm nghề nghiệp” là một
nhóm các ngành nghề và việc làm dựa
trên những điểm tương đồng. Hồ sơ
việc làm được trình bày theo biểu đồ
cho toàn ngành để người học và người
lao động có thể nhìn được thấy các
công việc liên qua và phụ thuộc vào
nhau như thế nào. Trong từng cụm
nghề nghiệp, luôn có từ 2 đến 7 bậc
nghề từ trường trung học, cao đẳng, đại
học đến khi đi làm. Các cụm nghề
nghiệp này giúp người lao động thu
nhập thấp có thể tạo sự liên kết với mục
tiêu tương lai và lựa chọn các khóa học
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
66
liên quan. Hệ thống các cụm nghề
nghiệp được quản lý giám sát bởi Hiệp
hội dạy nghề quốc gia và nhận được sự
hợp tác giữa các bang, trường học, nhà
giáo dục, nhà tuyển dụng, nhóm ngành
nghề và các bên liên qua (Froy và
Giguère, 2010b). Với sáng kiến độc
lập, thành phố Chicago đã phát triển
các tiếp cận về cụm nhu cầu đào tạo
trong ngành công nghệp sản xuất thành
dự án đào tạo những kỹ năng cho sản
xuất (MSP). Dự án này được đi vào
hoạt động từ năm 1991 và kết hợp với
nhu cầu đào tạo tập trung rất lớn của
khu vực sản xuất địa phương (đặc biệt
là ngành công nghiệp kim loại, chế biến
gỗ và điện tử). Thông qua làm việc với
những người sử dụng lao động về hồ sơ
nghề và phát triển những kỹ năng tiêu
chuẩn cho các công việc khác nhau, tập
đoàn Addams Resource đã giúp nhiều
công ty tạo nên những cấp bậc công
việc trong nội bộ tổ chức của mình,
người công nhân được hưởng lợi khi họ
tham gia vào các chương trình đào tạo
này, bởi vì sau đó họ có một định
hướng rõ ràng hướng tới sự phát triển
của công ty. Ngoài ra sự can thiệp về
cách thức tổ chức đã giúp công ty sử
dụng có hiệu quả hơn nguồn nhân lực
của họ (OECD, 2006a, 2008).
Một cách tiếp cận về khu vực/cụm
kinh tế rất hữu ích, nó không chỉ để liên
kết đào tạo trong dân cư mà còn giúp
họ phù hợp với công việc. Tại Landers,
Bỉ, dịch vụ việc làm công đã tiến hành
trực tiếp tại thành phố Antwerp để hỗ
trợ truy cập vào việc làm và quá trình
này được tiến hành trong một chuỗi các
vùng kinh tế trọng điểm thứ 3 và ngành
xây dựng, kho bãi, công nghiệp, khách
sạn, nhà hàng và phục vụ, và ngành
công nghiệp sáng tạo. Cùng với giáo
dục, thị trường lao động và các thành
phần của nó có thể dẫn đến những bế
tắc về vấn đề việc làm, trong khi nó vẫn
hỗ trợ cho người lao động có kỹ năng
yếu đạt được những bước tiến trong
nghề nghiệp.
6. Thúc đẩy và dự kiến các khu vực
tăng trưởng mới
Ở cấp độ quốc gia và quốc tế, rất
nhiều nỗ lực đã được bỏ ra trong việc
dự báo về số lượng và khu vực mà việc
làm mới sẽ được tạo ra trong tương lai.
Những dự báo như vậy cũng được thực
hiện ở cấp địa phương, mặc dù rất khó
khăn để đưa ra dự đoán chính xác với
bất kỳ chắc chắn nào. Đồng thời, ở đây
có những lĩnh vực kinh tế chắc chắn sẽ
phát triển trong những năm tới, vì vậy
cộng đồng dân cư có thể chuẩn bị sẵn
những điều cần thiết cho lực lượng lao
động của họ. Chúng bao gồm các công
việc đòi hỏi kỹ năng mới vào nghề và
cần đến sức khỏe, các yếu tố xã hội.
Việc chuyển đổi sang nền kinh tế
xanh tạo cơ hội cho các chính phủ, các
doanh nghiệp, đoàn thể và hội nhân dân
làm việc cùng nhau để giảm áp lực môi
trường, trong quá trình giải quyết vấn
đề kinh tế và xã hội (OECD, 2009). Dự
án LEED về biến đổi khí hậu, việc làm
và phát triển địa phương xác nhận rằng
quan hệ đối tác có thể đóng một vai trò
quan trọng trong việc tạo điều kiện
thuận lợi và quản lý quá trình chuyển
đổi của thị trường lao động địa phương
với nền kinh tế xanh. Các dự án tạo
điều kiện cho các cơ hội thị trường
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 26/Quý I- 2011
67
mới, trong khi tăng cường hoạt động
với doanh nghiệp, nâng cao nhận thức
của các cơ hội tăng trưởng xanh và cải
thiện chính sách. Các khu vực ở Styria,
Áo là ví dụ minh họa cho một khu vực
có thể làm việc thông qua quan hệ đối
tác công-tư nhằm thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế xanh và đổi mới sinh
thái (OECD, 2010c). Khi nền kinh tế
xanh tiếp tục mở rộng, tình trạng thiếu
kỹ năng có thể xảy ra, từ trình độ thấp
đến trình độ cao hơn. Tuy nhiên, trong
khi một số lĩnh vực sẽ thuận lợi từ việc
chuyển đổi sang công nghệ xanh, thì
những người khác có thể gặp mất việc
làm hoặc phải thay đổi công việc
(OECD, 2009d). Chính sách việc làm
và kỹ năng cần phải thông suốt trong
quá trình chuyển đổi.
Sự già hóa dân số diễn ra cũng
được coi là điểm đáng lưu ý đến việc
nhu cầu việc làm trong nhóm nghề
thuộc lĩnh vực chăm sóc xã hội sẽ gia
tăng mạnh mẽ trong tương lai. Theo
truyền thống, việc làm trong lĩnh vực
này được trả lương thấp và thường tạm
thời do nhu cầu tự nhiên, dẫn đến tình
trạng thiếu lao động có kỹ năng. Ngành
này có một sự thiên vị giới tính mạnh
mẽ, phụ nữ có mức độ quan trọng trong
lĩnh vực này. Lương và địa vị không
phải lúc nào cũng phản ánh đúng những
yêu cầu về kỹ năng cảm xúc và giao
tiếp cần thiết để có thể chăm sóc một
cách chất lượng, và đã có các yêu cầu
nâng cao chất lượng công việc như là
một phương tiện để thu hút những
người mới vào ngành. Ví dụ, một trong
những kỹ năng của các dự án hệ sinh
thái ở Queensland, Australia, đã tập
trung vào lĩnh vực chăm sóc người cao
tuổi: "Chiến lược hình thành kỹ năng
chăm sóc người cao tuổi ở Queensland"
là một sáng kiến của chính quyền nhằm
kết nối giữa chính quyền, ngành công
nghiệp và tổ chức đào tạo đã đăng ký
để giải quyết tình trạng thiếu kỹ năng.
Sự thiếu kỹ năng được cho là bắt nguồn
từ sự thiếu cơ hội phát triển nghề
nghiệp trong lĩnh vực này, thiếu hỗ trợ
thành lập và cơ chế phát triển, không sử
dụng các kỹ năng và kiến thức của
người lao động. Chiến lược tập trung
vào giáo dục và đào tạo, quản lý lực
lượng lao động, thiết kế công việc, hình
ảnh ngành công nghiệp và quan hệ
công nghiệp. Vai trò trợ lý y tế đã được
phác họa lại, hướng đào tạo và chăm
sóc được triển khai, tất cả đều thống
nhất theo tính chất của chăm sóc (QCS
& H ITC, 2006).
Bên ngoài những lĩnh vực then chốt
này sẽ có nhiều hướng khác nhau cho
sự tăng trưởng và phát triển trong
những năm tới. Việc thúc đẩy văn hóa
doanh nghiệp địa phương với sự hỗ trợ
mạnh mẽ cho các công ty mới và đang
nổi lên đã được hiển thị để hỗ trợ quá
trình tăng trưởng và tái sinh. Xây dựng
cơ sở kiến thức và thường xuyên thu
thập thông tin thị trường lao động địa
phương cũng có thể đóng một vai trò
quan trọng trong việc xác định các lĩnh
vực việc làm khẩn cấp và nhu cầu đào
tạo. Điều này rất quan trọng đối với
cộng đồng để tập trung đầu tư vào các
lĩnh vực, trong đó họ sẽ có một lợi thế
so sánh. Các nhà hoạch định chính sách
địa phương tốt nhất nên tìm cách thúc
đẩy "linh hoạt nghề nghiêp" - tập trung
vào một số ngành nghề nhất định
nhưng đáp ứng nhu cầu thị trường./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chien_luoc_phat_trien_vung_nham_doi_pho_voi_khung_hoang_va_t.pdf