KẾT LUẬN
Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Liên bang Nga gắn với những
biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới
và trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, nơi đang diễn ra sự cạnh
tranh quyết liệt giữa các nước lớn. Sự
điều chỉnh này cũng làm phát triển
mạnh mẽ hơn quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam và Liên bang Nga trên tất cả
các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực
kinh tế. Tăng cường quan hệ hợp tác
với Liên bang Nga tạo cho Việt Nam vị
thế vững chắc trong quan hệ với các
nước, tạo môi trường hòa bình, ổn
định cho sự phát triển của đất nước.
Nhờ lực đẩy của hợp tác chính trị -
ngoại giao, quan hệ kinh tế Việt Nam -
Nga ngày càng có những thay đổi tích
cực trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong
thương mại, đầu tư. Song quan hệ
kinh tế Việt - Nga vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng, lợi thế và nhu cầu
của mỗi nước, vẫn còn nhiều tiềm
năng để phát triển tương xứng với
quan hệ chính trị - đối ngoại tốt đẹp và
sự kỳ vọng của hai bên trong thời gian
tới.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 486 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chiến lược “xoay trục” sang châu Á của Liên Bang Nga và quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên Bang Nga đầu thế kỷ XXI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
56
CHUYÊN MỤC
SỬ HỌC - NHÂN HỌC - NGHIÊN CỨU TÔN GIÁO
CHIẾN LƯỢC “XOAY TRỤC” SANG CHÂU Á
CỦA LIÊN BANG NGA VÀ QUAN HỆ KINH TẾ
VIỆT NAM - LIÊN BANG NGA ĐẦU THẾ KỶ XXI
BÙI THỊ HUYỀN*
Đầu thế kỷ XXI, với thực lực và vị thế quốc tế không ngừng tăng lên, Liên bang
Nga trở thành một chủ thể quyền lực có tầm quan trọng trong khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương và trên thế giới. Việc điều chỉnh chính sách đối ngoại và triển
khai nhiều hoạt động thiết thực của Liên bang Nga đã tác động đến quan hệ Việt
Nam - Liên bang Nga nói chung, quan hệ kinh tế nói riêng. Bài viết nghiên cứu
sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Nga đối với khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI; phân tích vị trí của Việt
Nam trong chính sách Châu Á của nước này; từ đó đánh giá tác động của chính
sách đối ngoại mới đến quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga trên lĩnh vực kinh tế.
Từ khóa: chính sách đối ngoại, Liên bang Nga, Việt Nam, quan hệ kinh tế
Nhận bài ngày: 19/6/2019; đưa vào biên tập: 26/6/2019; phản biện: 9/7/2019; duyệt
đăng: 4/12/2019
1. DẪN NHẬP
Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, Liên
bang Nga trở thành thực thể chính trị
độc lập. Trong giai đoạn 1991 - 1993,
Nga thực hiện chính sách đối ngoại
“định hướng Đại Tây Dương” thân với
Mỹ và phương Tây, nhưng không đem
lại hiệu quả. Với tình hình như vậy,
Liên bang Nga phải nỗ lực tìm kiếm
những nguồn lực mới, những hướng
hợp tác chính trị và kinh tế mới để
phát triển đất nước, đáp ứng những
lợi ích chiến lược thật sự nhằm “đi tìm
cái mà Nga có thể đề xuất với phần
còn lại của thế giới, cho dù quy mô
không bằng thời Liên Xô” (A.V. Lukin,
2009: 7). Chính sách đối ngoại cân
bằng Đông - Tây bắt đầu được thực
thi vào năm 1994. “Những nguyên tắc
cơ bản trong chính sách đối ngoại của
Liên bang Nga” được Tổng thống B.
Yeltsin phê chuẩn năm 1994 khẳng
*
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh.
BÙI THỊ HUYỀN – CHIẾN LƯỢC “XOAY TRỤC” SANG CHÂU Á
57
định: “tăng cường chính sách đối
ngoại Châu Á - Thái Bình Dương có
thể cân bằng các mặt đối với phương
Tây. Như thế càng thể hiện vị trí Âu -
Á của Nga” (dẫn theo Hồ Châu, 1997:
69). Định hướng này đánh dấu sự
quay trở lại Châu Á của Nga và được
Tổng thống V. Putin kế thừa, phát
triển, điều chỉnh trong hai thập niên
đầu thế kỷ XXI. Chính sách đối ngoại
mới của Nga đã nhấn mạnh lại địa vị
nước lớn, văn hóa và giá trị đặc biệt
của dân tộc Nga, phát huy tinh thần
dân tộc nhằm tạo dựng lại hình ảnh
Liên bang Nga trên trường quốc tế.
“Cơ sở của chính sách đó là tính thực
dụng, hiệu quả kinh tế, ưu tiên các
mục tiêu quốc gia” (dẫn theo Thông
tấn xã Việt Nam, 2002: 11). Việc tham
gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á -
Thái Bình Dương, Diễn đàn Khu vực
ASEAN và thành lập “nhóm Thượng
Hải +5” được Nga xem là mục tiêu
đặc biệt (Thông Tấn xã Việt Nam,
2002: 10-11).
2. CHIẾN LƯỢC ĐỐI NGOẠI “XOAY
TRỤC” SANG CHÂU Á CỦA LIÊN
BANG NGA
Mặc dù định hướng chính sách đối
ngoại của Nga là cân bằng Âu - Á
nhưng trong hai nhiệm kỳ đầu của
Tổng thống V. Putin (2000 - 2008),
Nga vẫn coi trọng Châu Âu. Báo cáo
chính sách đối ngoại dài hạn của Nga
công bố tháng 6/2000 đã xác định thứ
tự ưu tiên ngoại giao số một là Cộng
đồng các quốc gia độc lập (SNG), thứ
hai là Châu Âu, thứ ba là Mỹ, thứ tư là
Châu Á. Định hướng đối ngoại này
cho thấy Châu Á và các quốc gia
phương Đông được ưu tiên sau Mỹ và
phương Tây trong hoạch định chính
sách đối ngoại của Nga. Bởi vì “mục
tiêu của Nga trong giai đoạn này là nỗ
lực không ngừng để khiến Mỹ và các
quốc gia Châu Âu phải lưu tâm đến
những lợi ích và tầm quan trọng của
Nga” (Gabriel Gorodetsky, 2003: 172).
Trong báo cáo tổng quan về chính
sách đối ngoại quốc gia được Tổng
thống V. Putin thông qua ngày
27/3/2007, các hướng địa lý theo thứ
tự ưu tiên của chính sách đối ngoại
bao gồm: SNG, Châu Âu, Mỹ và
Canada; khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, Trung Đông, Bắc Phi; khu vực
Mỹ Latinh và vùng Caribe. Báo cáo
được xem là minh chứng rõ ràng
trong chính sách đối ngoại của Nga
(Thông tấn xã Việt Nam, 2007). Theo
báo cáo này, Châu Á - Thái Bình
Dương giữ vị trí ưu tiên thấp trong
chính sách đối ngoại của Nga. Trên
thực tế, kể từ sau định hướng “cân
bằng Âu - Á”, dưới tác động của sự
chuyển dịch quyền lực từ Tây sang
Đông và áp lực gia tăng ảnh hưởng
của Mỹ ở khu vực này, Châu Á - Thái
Bình Dương được Nga nhấn mạnh
như một khu vực chứa đựng nhiều lợi
ích tiềm năng. Nhưng Nga chủ yếu
tập trung vào các tiểu khu vực Đông
Bắc Á, trong đó có các đối tác lớn
(Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc);
khu vực Nam Á, Nga tập trung vào Ấn
Độ trong chính sách cân bằng quyền
lực; khu vực Đông Nam Á, thật sự là
một “miếng ghép” còn thiếu trong
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
58
chính sách đối ngoại của Nga ở Châu
Á.
Chính sách Châu Á - Thái Bình Dương
của Nga đã có những điều chỉnh căn
bản trong nhiệm kỳ của Tổng thống D.
Medvedev (2008 - 2012) và V. Putin
(2012 đến nay), trên cơ sở định
hướng đối ngoại mới thông qua năm
2008: “tập trung sự chú ý vào khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương nhiều hơn
bên cạnh chính sách đối với SNG, Mỹ
và Tây Âu (D. Medveded, 2008). Hơn
nữa, trong bối cảnh nền kinh tế thế
giới lâm vào tình trạng khó khăn do
tác động sâu rộng của khủng hoảng
kinh tế, tài chính Châu Á - Thái Bình
Dương vẫn là khu vực có quy mô và
tốc độ phát triển nhanh chóng “năm
2010 tốc độ phát triển trung bình của
khu vực này là 7% (Trung Quốc 9,5%,
Ấn Độ 8%) trong khi đó Liên minh
Châu Âu chỉ đạt 1,6%. Hiện nay, Châu
Á - Thái Bình Dương chiếm 60% GDP,
50% thương mại và 40% đầu tư thế
giới” (Vũ Dương Huân, 2013: 59).
Theo E.V. Kobelev (2016: 73), Liên
bang Nga đẩy mạnh chính sách Châu
Á - Thái Bình Dương trong thập niên
thứ hai của thế kỷ XXI, “xuất phát từ
việc Nga đã nhận thức được sự thật
hiển nhiên: nước Nga về mặt lịch sử,
gắn bó không tách rời với Châu Á -
Thái Bình Dương, nên Nga có lợi
chính trị và kinh tế sống còn trong khu
vực. Nga là một cường quốc nằm trên
hai lục địa Á - Âu và hai phần ba lãnh
thổ của Nga nằm ở Châu Á. Nga có
thể nhận được những khoản tín dụng
cần thiết và cả công nghệ tiên tiến ở
Châu Á chứ không phải chỉ ở Mỹ và
Châu Âu. Nga cũng muốn hiện đại
hóa những vùng phía Đông của đất
nước còn lạc hậu nhưng giàu tài
nguyên thiên nhiên, vì thế không thể
thiếu sự tham gia của các nước Châu
Á láng giềng”. Hơn nữa, sự cạnh
tranh chiến lược giữa các nước lớn
trong khu vực, nhất là Mỹ và Trung
Quốc, buộc Nga phải có chính sách
“xoay trục” mạnh mẽ, hướng về Châu
Á, nơi Nga có nhiều ảnh hưởng trước
đây. Bên cạnh đó, trước những khó
khăn do Mỹ và các nước Tây Âu cấm
vận kinh tế sau cuộc khủng hoảng
Ukraina và khủng hoảng tài chính toàn
cầu giai đoạn này, Nga muốn hạn chế
sự phụ thuộc về kinh tế vào phương
Tây (và đặc biệt là Châu Âu).
Với những diễn biến phức tạp của tình
hình thế giới trong đầu thập niên thứ
hai của thế kỷ XXI, cùng sự gia tăng
tầm quan trọng của khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương và Liên bang Nga
nhìn thấy tiềm lực của phương Đông
về nguồn vốn, công nghệ cao cũng
như sự hấp dẫn từ các thị trường
năng lượng và vũ khí. Kết quả là,
hướng Châu Á - Thái Bình Dương nổi
lên, đóng vai trò là một trong những
hoạt động cơ bản nhất trong chính
sách đối ngoại của Nga trong thập
niên thứ hai của thế kỷ XXI. Tổng
thống V. Putin cũng đã khẳng định
trong Thông điệp Liên bang năm 2014:
“Chúng ta nhìn thấy Châu Á - Thái
Bình Dương đang phát triển nhanh
chóng như thế nào trong vài thập niên
gần đây. Là một cường quốc Thái
BÙI THỊ HUYỀN – CHIẾN LƯỢC “XOAY TRỤC” SANG CHÂU Á
59
Bình Dương, Nga sẽ tận dụng đầy đủ
tiềm năng to lớn này” (Thông tấn xã
Việt Nam, 2014a: 7). “Khả năng thống
trị nền kinh tế và chính trị thế giới của
phương Tây đang tiếp tục co lại. Xuất
hiện sự phân tán tiềm năng toàn cầu
về quyền lực và phát triển, với sự
chuyển dịch về phương Đông, chủ
yếu vào khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương” (V. Putin, 2016). Nga coi
nhiệm vụ hàng đầu của mình là mở
rộng các mối quan hệ kinh tế với các
nước trong khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, tham gia tích cực vào
các cơ chế đa phương như Diễn đàn
Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương, ASEAN, nhằm nhanh chóng
hòa nhập vùng Viễn Đông(1) của Nga
vào hệ thống các mối quan hệ kinh tế
của khu vực này. Năm 2016, V. Putin
thông qua “Khái niệm mới về chính
sách đối ngoại của Liên bang Nga”,
khẳng định: “thúc đẩy hợp tác với các
nước Châu Á - Thái Bình Dương là
ưu tiên đối ngoại mang tầm quan
trọng chiến lược đối với Nga, theo đó,
Nga sẽ tham gia tích cực các tiến trình
ở Châu Á - Thái Bình Dương, phục vụ
cho các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội ở khu vực Siberia và Viễn
Đông; củng cố quan hệ đối tác đối
thoại lâu dài và toàn diện với ASEAN
và nâng tầm lên đối tác chiến lược,
mở rộng hợp tác trong khuôn khổ Hội
nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Diễn
đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị
Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở
rộng (ADMM+); ủng hộ hợp tác kinh tế
cùng có lợi trong khuôn khổ Diễn đàn
Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), hợp tác trong khuôn
khổ Hội nghị Thượng đỉnh Á - Âu
(ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh về
phối hợp hành động và các biện pháp
củng cố lòng tin ở Châu Á; xây dựng
không gian kinh tế chung, rộng mở và
không phân biệt đối xử đối với ASEAN,
SCO và Liên minh kinh tế Á - Âu” (V.
Putin, 2016).
Như vậy, chính sách đối ngoại của
Nga trong đầu thế kỷ XXI đã có sự
thay đổi và điều chỉnh phù hợp với sự
biến động của tình hình thế giới và
khu vực. Trong quá trình điều chỉnh
chính sách đối ngoại, Liên bang Nga
đã từng bước hình thành chính sách
“hướng Đông”, tập trung vào khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương. Theo V.
Putin, chính sách hướng Đông này là
chính sách thực dụng, linh hoạt, lấy
hợp tác kinh tế làm phương hướng
hợp tác chủ yếu, quan tâm cả an ninh
khu vực, quan hệ nhiều với các quốc
gia kinh tế phát triển nhanh chóng và
chú ý những nước có địa chính trị
quan trọng trong khu vực.
3. VIỆT NAM TRONG CHÍNH SÁCH
CHÂU Á CỦA LIÊN BANG NGA
Trong suốt thập niên 90 của thế kỷ XX,
dưới thời cầm quyền của Tổng thống
B. Yeltsin, nước Nga hầu như đánh
mất các liên kết với phương Đông.
Bởi Nga chú trọng phát triển quan hệ
với các nước có mối liên kết kinh tế
quan trọng, các khác biệt hoặc xung
đột lợi ích được giải quyết bằng đối
thoại, hòa bình. Điều này có nghĩa là
những quốc gia nhỏ, đang phát triển
như Việt Nam sẽ không được ưu tiên
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
60
trong chính sách đối ngoại của Nga.
Bước sang đầu thế kỷ XXI, chính sách
đối ngoại của Nga đối với Việt Nam
nằm trong định hướng chung với khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương nói
chung và Đông Nam Á nói riêng đã có
sự điều chỉnh. Năm 2001, “Tuyên bố
chung về quan hệ đối tác chiến lược
giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam và Liên bang Nga” nêu rõ: “Việt
Nam và Liên bang Nga khẳng định
quyết tâm tiếp tục củng cố và phát
triển hơn nữa quan hệ hữu nghị
truyền thống và hợp tác nhiều mặt
trong thế kỷ XXI trên cơ sở quan hệ
đối tác chiến lược” (Báo Nhân dân,
2001). Tuy xác định Việt Nam là đối
tác chiến lược về chính trị - ngoại giao
của Nga ở Châu Á, nhưng thực tế
chính sách Châu Á của Nga trong hai
nhiệm kỳ của Tổng thống V. Putin
(2000 - 2008) là lấy Trung Quốc, Ấn
Độ làm trung tâm; Đông Nam Á nói
chung, Việt Nam nói riêng chưa phải
là ưu tiên hàng đầu của Nga tại Châu
Á. Bước sang nhiệm kỳ của Tổng
thống D. Medvedev (2008 - 2012),
Nga bắt đầu có những điều chỉnh
chiến lược Châu Á, bởi Nga “nhận
thức được những rủi ro liên quan đến
việc trở thành một đối tác nhỏ trước
một Trung Quốc lớn mạnh và sự suy
giảm khả năng đóng góp của mình để
hình thành chương trình nghị sự toàn
cầu” (Pavel K. Baev, 2015). Chính
sách đối ngoại mới của Liên bang Nga
được thông qua năm 2008, lần đầu
tiên kể từ thời B. Yelstin, Việt Nam
được đề cập đích danh trong định
hướng chính sách của Nga tại Đông
Nam Á: “Chính sách của Nga hướng
tới tăng cường tính năng động, tích
cực trong quan hệ với các quốc gia
Đông Nam Á, trước hết là phát triển
quan hệ đối tác chiến lược với Việt
Nam” (D. Medvedev, 2008).
Chính sách Châu Á - Thái Bình
Dương của Nga có sự điều chỉnh lớn
trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI,
đặc biệt khi V. Putin quay lại vị trí
Tổng thống trong nhiệm kỳ thứ ba
(năm 2012), đã có sự chuyển động về
chiến lược và Nga đã hướng sự chú ý
vào khu vực Đông Nam Á, coi khu vực
này là mục tiêu quan trọng hàng đầu
trong nhiệm vụ hội nhập Châu Á và
chính sách đối ngoại cân bằng Á - Âu
của Nga. Mặc dù ASEAN không phải
là ưu tiên trong chính sách đối ngoại
của Nga nhưng vai trò của ASEAN
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an
ninh - quân sự đối với Nga ngày càng
lớn trong cấu trúc khu vực đang định
hình; nên việc tham gia vào môi
trường Đông Nam Á có ý nghĩa quan
trọng để Nga triển khai chính sách
Châu Á toàn diện, giảm thiểu ảnh
hưởng ngày càng lớn của Mỹ, Trung
Quốc, Nhật Bản và thúc đẩy các lợi
ích của Nga tại đây. Tuy nhiên, trong
số các tiểu khu vực của Châu Á, Đông
Nam Á không có nhiều liên hệ với Nga
trừ Việt Nam, với quan hệ kinh tế -
thương mại và chính trị - quân sự với
Nga đang tiếp tục được duy trì và
củng cố từ giữa thế kỷ XX đến nay.
Để thực hiện mục tiêu hội nhập vào
các tiểu khu vực Châu Á, Nga cần một
vai trò dẫn đường và Việt Nam - với
BÙI THỊ HUYỀN – CHIẾN LƯỢC “XOAY TRỤC” SANG CHÂU Á
61
tư cách là một nước có vị trí địa -
chiến lược quan trọng, “cầu nối” cả
đất liền và biển giữa Đông Bắc Á và
Đông Nam Á, có thể kiểm soát các
tuyến đường hàng hải và hàng không
huyết mạch đi qua khu vực Biển Đông,
đồng thời là thành viên tích cực đang
lên của ASEAN. Nga coi việc thúc đẩy
quan hệ hợp tác với Việt Nam là đầu
mối quan trọng cho hợp tác và liên kết
kinh tế của Nga đối với khu vực
ASEAN cũng như các nước khác
trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương. Năm 2012, Tổng thống V.
Putin ký sắc lệnh “Về các biện pháp
thực hiện chính sách đối ngoại của
Liên bang Nga”, trong đó Việt Nam
một lần nữa được nhắc đến trong
hoạt động đối ngoại được ưu tiên của
Nga ở khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương: “Củng cố và làm sâu sắc
thêm sự hợp tác tin cậy, công bằng và
sự hợp tác chiến lược với Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, đối tác chiến
lược với Cộng hòa Ấn Độ, với Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (V.
Putin, 2012: 321-325). Điều này khẳng
định chính sách dài hạn của Liên bang
Nga nhằm tạo dựng sự hợp tác đa
dạng với các nước thuộc khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương, mà trong
số đó Việt Nam vẫn là một đối tác lâu
đời và tin cậy nhất. Điều đó cũng có ý
nghĩa lợi ích trong quan hệ với Việt
Nam là yếu tố tác động trực tiếp đến
chính sách của Nga đối với Việt Nam
trong bối cảnh mới. Trong chuyến
thăm Nga của Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang (7/2012), Nga đã nhất trí
nâng cấp quan hệ hai nước thành
“Đối tác chiến lược toàn diện” khẳng
định cam kết của Nga luôn xem Việt
Nam là đối tác chiến lược quan trọng
của Nga tại Châu Á. Có thể nói đây là
sự kiện thể hiện bước phát triển mới
trong chính sách của Nga và là cơ sở
pháp lý vững chắc để Nga tiếp tục mở
rộng và thúc đẩy mạnh mẽ sự hợp tác
với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực hợp
tác quan trọng như: an ninh, quốc
phòng, kinh tế - thương mại, năng
lượng Với những ưu thế của Việt
Nam trong khu vực, “Mục tiêu của
Nga là xây dựng Việt Nam thành một
cầu nối quan trọng nhất, giúp Nga hội
nhập sâu vào khu vực” (Bùi Thị Thảo,
2016: 326).
Một nguyên nhân khác khiến Nga coi
trọng vai trò của Việt Nam khi “xoay
trục” sang Châu Á, đó là nhân tố Mỹ
và Trung Quốc. Cả Mỹ, Nga và Trung
Quốc đều đang cạnh tranh về vị thế
của mình tại khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, Đông Nam Á nói riêng
trong bàn cờ địa - chiến lược của họ ở
khu vực này cũng như trên thế giới,
đều mong muốn gia tăng sự hợp tác
nhiều mặt giữa họ với khu vực. Chính
vì vậy, “mối quan hệ tích cực với Việt
Nam khiến cho Nga nổi lên như là một
quyền lực nằm giữa Trung Quốc và
Hoa Kỳ” (Anton Tsvetov, 2014). Thêm
vào đó, sự lớn mạnh của Trung Quốc
trong khu vực và thế giới khiến Nga
phải cân nhắc nên “Nga đang theo
đuổi các mối quan hệ mạnh mẽ hơn
với Việt Nam để xây dựng ảnh hưởng
của mình ở Đông Á chống lại sự nổi
lên của Trung Quốc” (Tony Rinna,
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
62
2016). Trên cơ sở đó Nga thúc đẩy
các mối quan hệ hợp tác, liên kết với
Việt Nam không chỉ trên lĩnh vực kinh
tế - thương mại mà cả chính trị - ngoại
giao, quân sự - quốc phòng, văn hóa -
xã hội.
4. QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT - NGA
TRONG BỐI CẢNH NGA “XOAY
TRỤC” SANG CHÂU Á
Nhờ lực đẩy của quan hệ chính trị -
ngoại giao, bước sang đầu thế kỷ XXI,
quan hệ kinh tế Việt - Nga cũng được
phát triển lên một bước mới trên nền
tảng quan hệ Đối tác chiến lược (2001)
và Đối tác chiến lược toàn diện (2012).
Quan hệ thương mại. Dưới hiệu ứng
của quan hệ đối tác chiến lược và
những chính sách vĩ mô về thuế nhập
khẩu ưu đãi cho hàng hóa của Việt
Nam, trao đổi thương mại hai chiều
Việt Nam - Liên bang Nga phát triển
cả về kim ngạch, cơ cấu xuất nhập
khẩu và mặt hàng. Sự tăng trưởng
này thể hiện rất rõ khi kim ngạch xuất
nhập khẩu năm 2000 là 363 triệu USD,
đã tăng lên 571 triệu USD vào năm
2001. Năm 2005 kim ngạch xuất nhập
khẩu hai nước tăng cao kỷ lục đạt
1,02 tỷ USD. Đặc biệt, sau khi Việt
Nam chính thức gia nhập WTO, kim
ngạch thương mại hai chiều cũng tăng,
đạt 1,642 tỷ USD vào năm 2008, năm
2011 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt
Bảng 1. Quan hệ thương mại Việt Nam - Liên bang Nga giai đoạn 2001-2017
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
Việt Nam
xuất khẩu
Việt Nam
nhập khẩu
Tổng kim ngạch
hai chiều
Cán cân
thương mại
2001 194 376 571 -182
2002 187 501 688 -314
2003 160 492 651 -332
2004 216 671 887 -455
2005 252 767 1.020 -515
2006 413 456 869 -43
2007 458 552 1.010 -94
2008 672 970 1.642 -298
2009 415 1.290 1.705 -875
2010 829 999 1.828 -170
2011 1.287 694 1.981 593
2012 1.617 839 2.447 788
2013 1.921 855 2.776 1.066
2014 1.724 827 2.552 898
2015 1.438 742 2.180 696
2016 1.616 1.124 2.740 492
2017 2.167 1.385 3.552 782
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Tổng cục Thống kê, 2017a: 162-177.
BÙI THỊ HUYỀN – CHIẾN LƯỢC “XOAY TRỤC” SANG CHÂU Á
63
1,98 tỷ USD - Nga là đối tác thương
mại lớn thứ 22 của Việt Nam. Lần đầu
tiên trong lịch sử ngoại thương Việt -
Nga, cán cân thương mại đổi chiều,
Việt Nam xuất siêu sang thị trường
Nga (xem Bảng 1).
Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên bang
Nga phát triển mạnh sau năm 2012
khi Liên bang Nga “xoay trục” mạnh
mẽ sang Châu Á và Nga - Việt Nam
đã nâng tầm quan hệ lên thành Đối
tác chiến lược toàn diện. Hơn nữa,
Nga đã nhận thức được những lợi ích
kinh tế mà Việt Nam có thể mang đến
cho nước này như Việt Nam có quan
hệ kinh tế và thương mại lâu đời, là thị
thường quen thuộc và tiềm năng đối
với các sản phẩm kỹ thuật, máy móc
của Nga. Nga đã tăng cường xây
dựng cơ sở pháp lý bằng việc ký kết
nhiều văn kiện hợp tác quan trọng,
thúc đẩy các hiệp định thương mại
song phương và đa phương giữa Nga
với Việt Nam; xác định các lĩnh vực
kinh tế trọng tâm trong chính sách
hợp tác với Việt Nam và nỗ lực thực
hiện hiệu quả các thỏa thuận đã đạt
được. Kim ngạch thương mại hai
chiều năm 2012 là 2,447 tỷ USD, tăng
lên 2,740 tỷ USD vào năm 2016 và
đạt kim ngạch 3,552 tỷ USD vào 2017
(xem Bảng 1). Theo thống kê của
Tổng cục Hải quan, năm 2018 kim
ngạch thương mại Việt - Nga đã đạt
4,57 tỷ USD (Bộ Công Thương Việt
Nam, 2018). Sự tăng trưởng kim
ngạch đột biến này là do hiệu ứng từ
Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt
Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu đã có
hiệu lực năm 2016 và những nỗ lực
để thúc đẩy hợp tác kinh tế Việt - Nga
tương xứng với quan hệ đối tác chiến
lược toàn diện của hai nước. Hiệp
định này có ý nghĩa quan trọng, đối
với Nga đó là hợp tác trong không
gian đại Âu - Á, còn Việt Nam là nước
Châu Á duy nhất ký Hiệp định Thương
mại tự do với Liên minh Kinh tế Á -
Âu. Nga muốn Việt Nam trở thành
hình mẫu, cũng như là nơi thử nghiệm
các ý tưởng chính sách chính trị và
kinh tế Nga đã đưa ra để thực hiện
chiến lược “hướng Đông”, hợp tác
trong không gian đại Âu - Á, cũng như
tham gia vào các tiến trình hội nhập
khác.
Quan hệ đầu tư. Cùng với quan hệ
thương mại, quan hệ đầu tư Việt
Nam - Liên bang Nga cũng có những
bước tiến bộ so với trước, đặc biệt
sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
Lũy kế từ năm 1988 đến năm 2009
Nga có 117 dự án với số vốn đăng ký
là 2,321 tỷ USD (Tổng cục Thống kê,
2009: 117). Đầu tư của Nga vào Việt
Nam có sự gia tăng đáng kể về số dự
án và số vốn, từ năm 2012, Nga đã có
11 dự án được phê duyệt tại Việt Nam
với số vốn 143,1 triệu USD. Tính lũy
kế đến năm 2012 Nga đầu tư vào Việt
Nam với tổng số vốn đăng ký đạt
974,3 triệu USD với 87 dự án, đứng
thứ 24 trong số các nước và vùng
lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Tính
đến tháng 12/2014, Liên bang Nga có
104 dự án đầu tư vào Việt Nam, tổng
vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 1,95 tỷ
USD và xếp thứ 17/101 quốc gia và
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
64
vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt
Nam. Trong đó, quy mô vốn bình quân
một dự án của Liên bang Nga khoảng
18,82 triệu USD; cao hơn so với mức
bình quân chung một dự án đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam là 14,3 triệu
USD/dự án. Tính lũy kế đến năm 2015
Nga có có 113 dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) tại Việt Nam còn
hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký
1,96 tỷ USD. Con số tuy không thể
sánh bằng các nhà đầu tư hàng đầu
như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,
Singapore, Mỹ, song gần 2 tỷ USD
cũng là mức đầu tư khá. Nga xếp thứ
17 trong số 105 quốc gia và vùng lãnh
thổ có đầu tư tại Việt Nam năm 2015.
Lũy kế đến năm 2017 Nga đứng thứ
23 trong số các nước và vùng lãnh thổ
đầu tư vào Việt Nam với 115 dự án và
tổng số vốn đăng ký 982,7 triệu USD
(Tổng cục Thống kê, 2017a: 157).
Đầu tư trực tiếp của Nga đã có mặt
trong những ngành kinh tế quan trọng
của Việt Nam như dầu khí, điện, năng
lượng hạt nhân, cơ khí, công nghiệp
hóa chất, luyện kim, công nghiệp chế
biến nông lâm, hải sản, ngân hàng,
công nghệ thông tin. Đầu tư của Liên
bang Nga đã có mặt ở 23/64 địa
phương của cả nước (tính cả khu vực
dầu khí ngoài khơi), tập trung tại các
địa phương nơi có điều kiện cơ sở hạ
tầng thuận lợi và khu vực phát triển
kinh tế năng động nhất.
Trong quan hệ đầu tư Việt - Nga còn
ghi nhận sự thành công của đầu tư từ
Việt Nam sang Nga với những bước
tiến tích cực. Từ chỗ chỉ có 11 dự án
với số vốn khoảng 100 triệu USD vào
năm 2005 đã tăng lên 18 dự án với
tổng số vốn đầu tư là 1,7 tỷ USD vào
năm 2008. Lũy kế đến ngày
31/12/2017, Việt Nam có 13 dự án
FDI đang thực thi tại Liên bang Nga,
với số vốn là 2,825 tỷ USD (Tổng cục
Thống kê, 2018a). Liên bang Nga
chiếm 13% tổng vốn đăng ký đầu tư
ra nước ngoài, đứng thứ 3/75 quốc
gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư
của Việt Nam.
Tuy có những thành tựu nhất định
trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên
bang Nga đầu thế kỷ XXI nhưng sự
khác biệt về trình độ, quy mô của hai
nền kinh tế về các giá trị, chiến lược
đã chi phối mạnh mẽ chính sách kinh
tế đối ngoại cùng với sự chuyển biến
trong chính sách đó của cả Việt Nam
và Liên bang Nga. Đối với Nga giai
đoạn 2001 - 2011, trọng tâm trong
chính sách kinh tế đối ngoại của nước
này là chính sách cân bằng Âu - Á,
trong đó Châu Âu vẫn là trọng tâm,
bởi Nga “phải học cách bảo vệ lợi ích
kinh tế và trọng tâm đối ngoại là Châu
Âu” (Thông điệp Liên bang, 2001).
Trong chính sách này, Châu Á - Thái
Bình Dương nói chung, Đông Nam Á
nói riêng (trong đó có Việt Nam)
không phải là ưu tiên hàng đầu của
Liên bang Nga, cho nên những vướng
mắc, cản trở trong hợp tác kinh tế
song phương chưa được giải quyết
kịp thời, làm hạn chế sự phát triển của
quan hệ kinh tế Việt - Nga trong thời
gian này. Biểu hiện rõ nhất trong quan
hệ thương mại - đầu tư giữa hai
BÙI THỊ HUYỀN – CHIẾN LƯỢC “XOAY TRỤC” SANG CHÂU Á
65
nước, kim ngạch thương mại nhỏ bé
so với tiềm năng, nhu cầu và lợi thế
của hai nước. Năm 2001 kim ngạch
thương mại Việt - Nga đạt 571 triệu
USD, sau 10 năm chỉ đạt 1,981 tỷ
USD vào năm 2011 (Tổng cục Thống
kê, 2017: 438-443). Mặc dù đã có sự
cải thiện và có bước phát triển mới sau
năm 2012, nhưng kim ngạch thương
mại song phương đến năm 2017 đạt
3,55 tỷ USD (Tổng cục Thống kê,
2017a: 154), thấp hơn nhiều lần so
với giao dịch thương mại giữa Việt
Nam với Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Singapore và một số nước
khác trong cùng thời điểm. Kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam với
Trung Quốc năm 2017 đạt 96,69 tỷ
USD, Nhật Bản là 33,4 tỷ USD, Hàn
Quốc là 61,56 tỷ USD (Bộ Công
Thương, 2017: 76-79). Đồng thời, tỷ
trọng thương mại Việt - Nga đến năm
2017 chiếm chưa đến 1% trong cơ
cấu xuất nhập khẩu của Nga, trong khi
đó với các đối tác khác như Đức 9%,
Mỹ là 4%, Hàn Quốc là 3% (Hải quan
Liên bang Nga, 2018). Đầu tư của hai
bên còn thấp, mặc dù hai nước là đối
tác truyền thống của nhau. Đầu tư
Việt - Nga chỉ có hiệu quả trong hợp
tác năng lượng dầu khí của Liên
doanh Vietsovpetro tại Việt Nam và
Rusvietpetro tại Liên bang Nga, còn
lại các dự án đầu tư khác của Nga
vào Việt Nam cũng khá nhỏ bé.
Ngoài ra còn có những nguyên nhân
khác dẫn đến các hạn chế trên. Đó là
Việt Nam và Liên bang Nga đã hội
nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO,
nên chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng
kinh tế toàn cầu. Thêm vào đó, Việt
Nam đã hội nhập nhanh chóng, có rất
nhiều đối tác kinh tế trong quan hệ
thương mại và đầu tư với những điều
kiện thuận lợi về giá cả và những ưu
đãi lớn ở các FTA mà Việt Nam đang
tham gia. Chính vì vậy, Nga không hấp
dẫn những nhà đầu tư và các doanh
nghiệp Việt Nam. Ở chiều ngược lại,
mặc dù trong chính sách đối ngoại
của mình, Nga rất coi trọng quan hệ
với Việt Nam, tuy nhiên trong bối cảnh
bị chi phối bởi các nhân tố quốc tế và
nước Nga bị Mỹ và Châu Âu trừng
phạt kinh tế, Liên bang Nga phải lựa
chọn những đối tác lớn giúp nước này
cân bằng quan hệ kinh tế. Do đó,
Trung Quốc, Ấn Độ và các nước SNG
là lựa chọn hàng đầu của Nga.
Như vậy, có thể thấy rằng tuy vẫn còn
nhiều hạn chế nhưng chính sách
Châu Á - Thái Bình Dương của Nga
đã có những tác động tích cực đến
quan hệ kinh tế Việt - Nga. Mặc dù
còn nhiều khó khăn thách thức, song
quan hệ kinh tế Việt - Nga có nhiều
tiềm năng phát triển trong thời gian tới,
đặc biệt là khi Hiệp định Thương mại
tự do giữa Việt Nam và Liên minh
Kinh tế Á - Âu đã có hiệu lực, tạo
khuôn khổ pháp lý cho hợp tác kinh tế,
góp phần tăng cường hơn nữa cơ hội
xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị
trường hàng hóa và tăng thêm cơ hội
đầu tư.
5. KẾT LUẬN
Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Liên bang Nga gắn với những
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (256) 2019
66
biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới
và trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, nơi đang diễn ra sự cạnh
tranh quyết liệt giữa các nước lớn. Sự
điều chỉnh này cũng làm phát triển
mạnh mẽ hơn quan hệ hợp tác giữa
Việt Nam và Liên bang Nga trên tất cả
các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực
kinh tế. Tăng cường quan hệ hợp tác
với Liên bang Nga tạo cho Việt Nam vị
thế vững chắc trong quan hệ với các
nước, tạo môi trường hòa bình, ổn
định cho sự phát triển của đất nước.
Nhờ lực đẩy của hợp tác chính trị -
ngoại giao, quan hệ kinh tế Việt Nam -
Nga ngày càng có những thay đổi tích
cực trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong
thương mại, đầu tư. Song quan hệ
kinh tế Việt - Nga vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng, lợi thế và nhu cầu
của mỗi nước, vẫn còn nhiều tiềm
năng để phát triển tương xứng với
quan hệ chính trị - đối ngoại tốt đẹp và
sự kỳ vọng của hai bên trong thời gian
tới.
CHÚ THÍCH
(1)
Viễn Đông Nga là một thuật ngữ chỉ những vùng của Nga ở Viễn Đông, ví dụ, những vùng
cực đông của Nga, giữa hồ Baikal ở Trung Siberia và Thái Bình Dương. Viễn Đông thường
được gọi trong tiếng Nga là “Vùng Châu Á -Thái Bình Dương” (Азиатско-тихоокеанский
регион, viết tắt theo АТР), hay “Đông Á” (Восточная Азия). Vùng Viễn Đông Nga có diện
tích 6,2 triệu km
2
- chiếm 36,4% diện tích của đất nước, nhưng nơi đây dân cư thưa thớt, chỉ
có 6,4 triệu dân, chiếm dưới 5% dân số Nga.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Baev, Pavel K. 2015. “Can Russia Keep Its Special Ties with Vietnam While Moving
Closer and Closer to China”. International Area Studies Review, vol 18 (3).
2. Báo Nhân dân. 2001. “Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược giữa Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga”, ngày 2/3/2001.
3. Bộ Công Thương. 2017. Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2017. Hà Nội: Nxb. Bộ
Công Thương.
4. Bộ Công Thương Việt Nam. 2018. https://www.moit.gov.vn/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/viet-
nam-nga-ban-giai-phap-thuc-%C4%91ay-hop-tac-cong-nghiep-16915-22.html
5. Bùi Thị Thảo. 2016. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ và Nga đối với Việt
Nam thời kỳ sau Chiến tranh lạnh. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật.
6. Gorodetsky, Gabriel. 2003. Russia between East and West- Russian Foreign Policy
on the Threshold of the Twenty - First Century. London: Frank Cass Pullishers.
7. Hải quan Liên bang Nga. 2018. “Thống kê ngoại thương của Liên bang Nga”,
ngày truy cập 26/5/2019.
8. Hồ Châu. 1997. Sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn đối với Châu Á - Thái
Bình Dương từ sau Chiến tranh lạnh và vấn đề đặt ra với Việt Nam. Luận án Phó tiến sĩ
Khoa học Lịch sử. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Hà Nội.
BÙI THỊ HUYỀN – CHIẾN LƯỢC “XOAY TRỤC” SANG CHÂU Á
67
9. Kobelev, E.V. 2016. “20 năm quan hệ đối tác „Nga - ASEAN‟”. Tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu, số 6/2016.
10. Lukin, A.V. 2009. “Chính sách đối ngoại từ thời hậu xô viết tới nước Nga ngày nay.
Những bài học rút ra từ cuộc xung đột với Grudia”. Thông tấn xã Việt Nam, số 4/2009
(Các vấn đề quốc tế).
11. Medveded, D.2008. “Chiến lược kinh tế đối ngoại của Liên bang Nga đến năm
2020”.
ngày truy cập 20/6/2018
12. Putin, V. 2012. Nước Nga và thế giới đang thay đổi. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.
13. Putin, V. 2016. “Khái niệm về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga”,
/vietnam.mid.ru/web/vietnam-vn/main/-/asset_publisher/IzH2BiDu7xh3/content/khai-
niem-ve-chinh-sach-oi-ngoai-cua-lien-bang-nga?inheritRedirect=false, ngày truy cập
15/5/2018.
14. Thông Tấn xã Việt Nam. 2002. “Quan hệ chiến lược giữa các nước lớn trong thế kỷ
XXI”. Thông tấn xã Việt Nam, số 6/2002.
15. Thông Tấn xã Việt Nam. 2007. Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 3/2007.
16. Thông tấn xã Việt Nam. 2014a. “Thông điệp Liên bang Nga”. Thông tấn xã Việt Nam
số 339/TTX.
17. Thông tấn xã Việt Nam. 2014b. Tài liệu tham khảo đặc biệt. Thông tấn xã Việt Nam,
số 339/TTX.
18. Tổng cục Thống kê. 2009. Niên giám thống kê 2009. Hà Nội: Nxb. Thống kê.
19. Tổng cục Thống kê. 2017a. Niên giám thống kê tóm tắt. Hà Nội: Nxb. Thống kê.
20. Tổng cục Thống kê. 2017b. Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam hội nhập và phát
triển 2005 - 2015. Hà Nội: Nxb. Thống kê.
21. Tổng cục Thống kê. 2018a. “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được cấp giấy phép
phân theo đối tác đầu tư chủ yếu (lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2018)”,
https://www.gso.gov.vn/SLTK/Table.aspx, ngày truy cập 18/9/2019.
22. Tổng cục Thống kê. 2018b. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài giai đoạn 2011-2016. Hà Nội: Nxb. Thống kê.
23. Tony, Rima. 2016. “The China Factor in Russia - Vietnam Sercurity Ties”. Foreign
Policy Journal. https://www.foreignpolicyjournal.com/2016/01/05/the-china-factor-in-
russia-vietnam-security-ties/, ngày truy cập 29/10/2018.
24. Tsvetov, Anton. 2014. “Russian-Vietnamese Strategic Partnership: Between the
United States and China,” inner/?id_4=4818#top, ngày truy
cập 24/10/2018.
25. Vũ Dương Huân. 2013. “Tiềm năng kinh tế Viễn Đông, Liên bang Nga và khả năng
hợp tác Nga - Việt Nam (Phần 2)”. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 3/2013.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chien_luoc_xoay_truc_sang_chau_a_cua_lien_bang_nga_va_quan_h.pdf