Từ kết quả đạt được, rõ ràng chiến
thuật mô phỏng VN-Index bằng tổ hợp cổ
phiếu đồng tích hợp với nó hoàn toàn có
thể áp dụng vào thị trường chứng khoán
Việt Nam. Với chiến thuật này, nhà đầu tư
có thể yên tâm thu được tỷ suất sinh lợi xấp
xỉ tỷ suất sinh lợi của thị trường với rủi ro
thấp mà không phải tìm hiểu quá nhiều
thông tin hay mất nhiều chi phí. Đặc biệt,
chiến thuật này rất đáng xem xét khi mức
sinh lợi của thị trường đang được kỳ vọng
sẽ tăng trưởng tốt trong bối cảnh thị trường
năm 2017 với nhiều cơ hội từ việc IPO hay
chuyển sàn của một loạt doanh nghiệp vốn
hóa lớn, lộ trình triển khai thị trường chứng
khoán phái sinh hứa hẹn đem lại nhiều sản
phẩm mới, kỳ vọng thanh khoản thị trường
tăng khi áp dụng thanh toán T+0 và bán
chứng khoán chờ về, Dù vậy, đầu tư theo
chỉ số không phải không có rủi ro; rủi ro
của nó xảy ra khi thị trường giảm. Do đó,
cũng như các chiến thuật đầu tư khác,
chúng ta nên xác định mức cắt lỗ hợp lý.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 438 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chiến thuật giao dịch mô phỏng chỉ số vn-Index, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Ngọc Kim Khánh
25
CHIẾN THUẬT GIAO DỊCH MÔ PHỎNG CHỈ SỐ VN-INDEX
TRACKING VN-INDEX STRATEGY
NGUYỄN NGỌC KIM KHÁNH
ThS. Trường Đại học Văn Lang, Email:nguyenngockimkhanh@vanlanguni.edu.vn
TÓM TẮT: Kỹ thuật phân tích tổ hợp đồng tích hợp được xem như một công cụ hữu hiệu
để xây dựng danh mục có tỷ suất sinh lợi xấp xỉ tỷ suất sinh lợi của chỉ số thị trường. Hơn
nữa, phương pháp này dễ dàng được thực hiện nhờ vào các công cụ thống kê cơ bản như
hồi quy tuyến tính và kiểm định tính dừng. Trái ngược với sự đơn giản của nó, chúng ta
nhận được các kết quả thiết thực khi mô phỏng VN-Index dù thị trường chứng khoán Việt
Nam không thật sự có hoạt động bán khống.
Từ khóa: đồng tích hợp, mô phỏng VN-Index, kiểm định tính dừng.
ABSTRACT: Cointegration technique is an effective tool to construct a portfolio that
return approximates the market index’s return. Moreover, the method is easily
implemented thanks to basic statistical techniques such as linear regression and stationary
test. Contrary to its simplicity, its empirical result in tracking VN-Index is robust in spite of
short-selling not allowed in Vietnam stock market.
Key words: cointegration, tracking VN-Index, stationary test.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tất cả các nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán đều mong muốn tiếp cận
thông tin đầy đủ của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, ngay cả khi đã xác định được cổ
phiếu tốt, họ vẫn chưa chắc chắn có được
lợi nhuận nếu giao dịch với mức giá không
hợp lý. Rõ ràng, thời điểm ra/vào của nhà
đầu tư tùy thuộc vào tình hình thị trường và
đây là điều khó kiểm soát, đặc biệt là với
nhà đầu tư cá nhân. Vì vậy, thay vì dành
nhiều thời gian và công sức hoặc phải trả
phí cho các chuyên gia để tìm hiểu, định
giá các doanh nghiệp niêm yết và thường
xuyên theo dõi biến động của thị trường,
chúng ta có thể chọn giải pháp xây dựng
một danh mục chứng khoán có tỷ suất sinh
lợi xấp xỉ tỷ suất sinh lợi của thị trường -
đo bằng tỷ suất sinh lợi của chỉ số đại diện.
Ở bài viết này, chỉ số được mô phỏng là
VN-Index. Do được tính bằng phương pháp
vốn hóa thị trường của tất cả các cổ phiếu
niêm yết trên HOSE nên tỷ suất sinh lợi
của VN-Index có độ biến động thấp hơn
của các cổ phiếu thành phần. Điều này
đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ sở hữu một
danh mục có rủi ro thấp nếu mô phỏng tốt.
Đối với nhà đầu tư cá nhân, việc mô
phỏng VN-Index tuy có vẻ đơn giản bằng
cách mua chứng chỉ của các ETF đầu tư
vào chỉ số đó, nhưng thật ra, do đây đều là
các quỹ ngoại với tổng giá trị tài sản lớn
nên các ETF này buộc phải đưa ra nhiều
yêu cầu với rổ cổ phiếu của mình như vốn
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018
26
hóa, tỷ lệ cổ phiếu tự do lưu hành, room
khối ngoại, thanh khoản, Điều này phần
nào hạn chế khả năng mô phỏng VN-Index.
Trong nghiên cứu sau, để mô phỏng
VN-Index, chúng ta sẽ xác định nhóm các
cổ phiếu đồng tích hợp với nó. Dù mô hình
đồng tích hợp đã được áp dụng rộng rãi
trong nhiều bài toán kinh tế nhưng khả
năng áp dụng vào thị trường chứng khoán
Việt Nam vẫn cần được xem xét cụ thể vì
thị trường chứng khoán nội địa không có
hoạt động bán khống. Sự khác biệt đó có
khả năng gia tăng sai số mô phỏng và làm
cho chiến thuật này thất bại.
2. CHIẾN THUẬT MÔ PHỎNG CHỈ
SỐ VN-INDEX DỰA TRÊN HỒI QUY
ĐỒNG TÍCH HỢP
2.1. Tổ hợp đồng tích hợp của các cổ
phiếu và chỉ số
Trong tài chính, chúng ta thường dùng
dữ liệu lịch sử là các chuỗi thời gian về giá
của tài sản, tỷ giá hối đoái, GDP, lạm
phát, trong các phân tích và dự đoán.
Thật không may, hầu như các dữ liệu này
đều không có tính dừng vì có các đặc trưng
như trung bình, phương sai và hiệp phương
sai thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên,
Stock và Watson [5] đã cho thấy một hệ
các biến không dừng vẫn có thể có điểm
cân bằng trong một tổ hợp tuyến tính nào
đó của chúng. Theo Lucas [4], tổ hợp tuyến
tính của các chuỗi thời gian thỏa tính chất
đồng tích hợp có mức biến động trong dài
hạn thấp hơn các tổ hợp khác. Trong khi
đó, Hersom, Sutti và Szego [2] cho rằng,
hồi quy đồng tích hợp có thể dùng xác định
bậc của biến động cùng hướng của các cổ
phiếu và chỉ số. Cụ thể, với tD và
, 1,i tP i n là giá trị của chỉ số mô phỏng
và giá cổ phiếu thứ i của danh mục tại thời
điểm t và n là số mã chứng khoán trong
danh mục, nếu danh mục là đồng tích hợp
với chỉ số đang xét, logarithm tự nhiên của
chuỗi giá các cổ phiếu thành phần đều tích
hợp bậc một, ký hiệu là I(1), và tồn tại biểu
diễn tuyến tính:
0 ,
1
ln ln
n
t i i t t
i
D c c P
(1)
Trong đó, t tích hợp bậc 0, ký hiệu là
I(0).
Đặt 1 , , , 1ln , lnt t t i t i t i tR D D r P P
lần lượt là log lợi nhuận của chỉ số và cổ
phiếu thứ i 1,i n tại thời điểm t. Để ý
rằng, log lợi nhuận theo ngày xấp xỉ tỷ suất
sinh lợi theo ngày và dù bản thân chuỗi giá
trị của chỉ số không dừng như các chuỗi
thời gian khác trong tài chính nhưng tỷ suất
sinh lợi theo ngày của nó thì có. Hơn nữa,
do tính I (1) của các chuỗi log giá nên các
cổ phiếu có chuỗi log lợi nhuận là I (0).
Khi đó, nếu tỷ trọng của cổ phiếu thứ i
trong danh mục xác định bởi:
, 1,ii
c
w i n
c
(2)
thì: , 1
1
n
t i i t t t
i
R c w r
(3)
với
1
.
n
i
i
c c
Như vậy, c cần xấp xỉ 1 để mô phỏng
tốt chỉ số. Khi đó, sự chênh lệch giữa tỷ
suất sinh lợi của danh mục và của chỉ số sẽ
không phân kỳ mà luôn quay lại 0 trong dài
hạn. Alexander và Dimitriu [1] đã khảo sát
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Ngọc Kim Khánh
27
mô hình xác định bởi công thức (1) trên chỉ
số DJIA (Dow Jones Industrial Average) và
các cổ phiếu thành phần của nó để tìm ra số
cổ phiếu và lượng dữ liệu lịch sử cần có khi
xây dựng danh mục đồng tích hợp với chỉ
số. Dĩ nhiên, kết quả của họ có thể không
sử dụng được ở thị trường chứng khoán
Việt Nam với những đặc trưng và cơ chế
hoạt động khác biệt như tính thanh khoản,
cơ chế giao dịch, quy định về biên độ giá,
về sản phẩm phái sinh,
2.2. Tạo danh mục mô phỏng VN-Index
Trước tiên, chúng ta xác định các tham
số trong mô hình xác định bởi công thức
(1) bằng giá đóng cửa mỗi ngày của tất cả
các cổ phiếu niêm yết trên HOSE cũng như
điểm đóng cửa mỗi ngày của VN-Index.
Lưu ý, thị trường Việt Nam không có hoạt
động bán khống đúng nghĩa, do đó phải
thêm ràng buộc 0 1, .ic i n Để kiểm
định các tính chất I (0) và I(1) cần có trong
mô hình, chúng ta dùng kiểm định ADF
(Augmented Dickey – Fuller Test). Ngoài
ra, do kết quả của kiểm định ADF thường
rất nhạy cảm với sự lựa chọn chiều dài độ
trễ nên tiêu chuẩn AIC (Akaike
Information Criterion) [6] được sử dụng để
chọn lựa độ trễ tối ưu cho mô hình ADF.
Khi có nhiều danh mục đồng tích hợp với
VN-Index, việc lựa chọn sẽ dựa trên vốn
hóa thị trường của cổ phiếu tại ngày cuối
của giai đoạn xác định tham số và khối
lượng giao dịch của nó trong 3 tháng cuối
giai đoạn này.
Sau khi chọn được bộ n cổ phiếu đồng
tích hợp với VN-Index, các hệ số hồi quy
trong mô hình xác định bởi công thức (1) sẽ
giúp chúng ta xác định tỷ trọng mỗi cổ
phiếu trong danh mục theo công thức (2).
Tuy nhiên, trong thực tế, việc cố gắng duy
trì tỷ trọng ban đầu của các cổ phiếu đồng
nghĩa với việc chúng ta phải thường xuyên
thay đổi vị thế của chúng vì giá cổ phiếu
liên tục thay đổi làm thay đổi giá trị danh
mục. Chi phí thực hiện các giao dịch liên
tục như vậy đương nhiên không nhỏ. Do
đó, chúng ta sẽ giữ nguyên vị thế các cổ
phiếu thay cho tỷ trọng của chúng và chấp
nhận sai số mô phỏng có thể sẽ tăng theo
thời gian vì các hệ số trong vế phải của
công thức (3) đã khác so với lúc danh mục
được xây dựng. Vì vậy, quá trình tái cơ cấu
danh mục sau một khoảng thời gian nào đó
là cần thiết để giảm thiểu sai số này. Để tái
cơ cấu, chúng ta lựa chọn cổ phiếu và xác
định lại tỷ trọng dựa trên hồi quy đồng tích
hợp như đã làm trước đó. Tuy nhiên, phí
giao dịch sẽ gây một chút khó khăn cho
việc xác định vị thế các cổ phiếu. Cụ thể,
tại ngày tái cơ cấu t, gọi S là tập tất cả các
cổ phiếu trong danh mục trước và sau khi
tái cơ cấu, các số không âm oldsn và
new
sn
là
số lượng cổ phiếu s trong danh mục trước
và sau khi tái cơ cấu và f là phí giao dịch,
chúng ta có:
new old new
, , ,
old
s s t s t s s s s t
s S s S s S
n P f P n n n P
(4)
Với tỷ trọng mới newsw đã biết của cổ
phiếu s, chúng ta có:
new new new
, , , .s s t s r t r
r S
n P w P n s S
(5)
Số lượng mỗi cổ phiếu trong danh mục
mới dễ dàng được xác định từ hệ phương
trình tạo bởi các công thức (4) và (5). Thật
vậy, dễ nhận thấy mỗi nghiệm của hệ
phương trình tuyến tính (5) có dạng
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018
28
, ,news s t s Sk w P 0.k Thế vào (4) và rút
gọn, chúng ta được:
old new
, ,
old
s s t s s s t
s S s S
k f n P kw n P
(6)
Rõ ràng, các giá trị newsn là hoàn toàn
xác định sau khi k được tìm ra từ công thức
(6). Ngoài ra, lưu ý là với phí giao dịch cao
thì tái cơ cấu danh mục thường xuyên sẽ
làm giảm lợi nhuận thật sự, điều này có thể
không cần thiết vì tính chất đồng tích hợp
cho phép chúng ta yên tâm về sai số mô
phỏng trong ngắn hạn. Vì vậy, trong nghiên
cứu này chỉ tập trung vào chiến thuật tái cơ
cấu danh mục với chu kỳ là một năm.
3. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Áp dụng chiến thuật mô phỏng ở mục
2.2, ở mỗi năm từ 2014 đến 2016, dữ liệu
lịch sử của hai năm trước đó được sử dụng
để xây dựng danh mục mô phỏng VN-
Index trong năm. Do vốn hóa của 20 cổ
phiếu có vốn hóa lớn nhất trên HOSE
chiếm trên 70% vốn hóa toàn thị trường
nên có thể dùng phân tích đơn giản hơn để
xây dựng danh mục mô phỏng VN-Index từ
dữ liệu trên. Với mục đích kiểm tra hiệu
quả của chiến thuật mô phỏng bằng tổ hợp
đồng tích hợp, ta chỉ xét n = 8. Danh mục
mô phỏng VN-Index trong từng năm được
thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1. Danh mục mô phỏng VN-Index mỗi năm
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Mã Tỷ trọng (%) Mã Tỷ trọng (%) Mã Tỷ trọng (%)
FPT 18.79 GAS 17.65 VNM 24.61
MSN 15.86 VIC 15.73 GAS 17.37
VNM 15.70 HAG 13.29 MBB 15.88
BVH 13.81 VNM 12.98 VCB 13.84
REE 11.56 VCB 11.94 VIC 8.75
VCB 8.91 FPT 11.69 HAG 8.62
HAG 8.73 MSN 10.10 BVH 5.96
PVD 6.64 BVH 6.62 PVD 4.97
Quan sát Hình 1, 2 và 3 ta thấy danh
mục được xây dựng đã đeo bám tốt tỷ suất
sinh lợi của VN-Index khi áp dụng mức phí
giao dịch f = 0.15%.
Cụ thể, tính từ thời điểm bắt đầu áp
dụng chiến thuật là đầu năm 2014, tỷ suất
sinh lợi tích lũy của danh mục vào cuối các
năm 2014, 2015 và 2016 (Hình 1) lần lượt
là 11%, 20.2% và 39.9% trong khi VN-
Index đạt 9.4%, 16.7% và 31.5%. Như vậy,
trung bình mỗi năm, chênh lệch giữa mức
sinh lời của danh mục và VN-Index là chưa
đến 3%. Sai số mô phỏng, đo bằng độ lệch
chuẩn giữa tỷ suất sinh lợi hàng ngày của
danh mục và VN-Index, là 0.48%. Thêm
vào đó, độ biến động theo mô hình EWMA
(Exponentially Weighted Moving Average)
của tỷ suất sinh lợi hàng ngày của danh
mục mô phỏng và VN-Index (Hình 2) cũng
tương tự nhau. Hệ số tương quan giữa tỷ
suất sinh lợi hàng ngày của danh mục và
VN-Index tính theo mô hình EWMA (Hình
3) chỉ dao động trong khoảng từ 0.7184 đến
0.9838. Ở đây, hệ số làm trơn được sử dụng
để tính trong mô hình EWMA là 0.94 [3].
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Ngọc Kim Khánh
29
Hình 1. Tỷ suất sinh lợi tích lũy của VN-Index và
danh mục mô phỏng từ 02/01/2014 đến 30/12/2016
Hình 2. Độ biến động theo mô hình EWMA
của tỷ suất sinh lợi hằng ngày của danh mục mô
phỏng và VN-Index
Hình 3. Hệ số tương quan theo mô hình EWMA
của tỷ suất sinh lợi hằng ngày của danh mục mô
phỏng và VN-Index.
Như vậy, danh mục đã xây dựng thỏa
yêu cầu đặt ra là mô phỏng chỉ số VN-
Index. Tuy nhiên, Hình 1 cũng cho thấy
việc duy trì danh mục trong dài hạn đem
đến nhiều rủi ro khi tỷ suất sinh lợi tích lũy
của danh mục và chỉ số có khác biệt đáng
kể theo thời gian. Vì vậy, chúng ta có thể
chọn chu kỳ tái cơ cấu ngắn hơn và tính lại
lợi nhuận tích lũy sau mỗi hai năm (giả
định tất toán và đầu tư lại từ đầu).
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Từ kết quả đạt được, rõ ràng chiến
thuật mô phỏng VN-Index bằng tổ hợp cổ
phiếu đồng tích hợp với nó hoàn toàn có
thể áp dụng vào thị trường chứng khoán
Việt Nam. Với chiến thuật này, nhà đầu tư
có thể yên tâm thu được tỷ suất sinh lợi xấp
xỉ tỷ suất sinh lợi của thị trường với rủi ro
thấp mà không phải tìm hiểu quá nhiều
thông tin hay mất nhiều chi phí. Đặc biệt,
chiến thuật này rất đáng xem xét khi mức
sinh lợi của thị trường đang được kỳ vọng
sẽ tăng trưởng tốt trong bối cảnh thị trường
năm 2017 với nhiều cơ hội từ việc IPO hay
chuyển sàn của một loạt doanh nghiệp vốn
hóa lớn, lộ trình triển khai thị trường chứng
khoán phái sinh hứa hẹn đem lại nhiều sản
phẩm mới, kỳ vọng thanh khoản thị trường
tăng khi áp dụng thanh toán T+0 và bán
chứng khoán chờ về, Dù vậy, đầu tư theo
chỉ số không phải không có rủi ro; rủi ro
của nó xảy ra khi thị trường giảm. Do đó,
cũng như các chiến thuật đầu tư khác,
chúng ta nên xác định mức cắt lỗ hợp lý.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 08/2018
30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexander, C. and Dimitriu, A. (2002), The Cointegration Alpha: Enhanced Index
Tracking and Long-Short Equity Market Neutral Strategies, ISMA Center Discussion
Papers in Finance.
2. Hersom, S, Sutti, C. and Szego, G. (1973), On Best Linear Fit Index, Technical Report
46, Hatfield Polytechnic Centre for Numerical Optimization.
3. Hull, J. (2008), Options, Futures and Others Derivatives (Seventh edition), Pearson
Prentice Hall.
4. Lucas, A. (1997), Strategic and Tactical Asset Allocation and the Effect of Long-run
Equilibrium Relations, Research Memorandum 1997-42, Vrije Universiteit Amsterdam.
5. Stock, J. and Watson, M. (1991), Variable Trends in Economic Time Series, in R.F.
Engle and C.W.J. Granger (eds) Long-run Economic Relationship, Oxford University
Press, p. 17 – 50.
6. Wasserman, L. (2004), All of Statistics: A Concise Course in Statistical Inference,
Springer, New York.
Ngày nhận bài: 08/01/2017. Ngày biên tập xong: 03/11/2017. Duyệt đăng: 17/3/2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chien_thuat_giao_dich_mo_phong_chi_so_vn_index.pdf