Hợp chất 3 (oleandrin): là chất bột màu
trắng, nhiệt độ nóng chảy 250 oC, độ quay cực
[]18D -52,1 (C 0,2, CHCl3), phổ khối lượng
ESI-MS với sự có mặt của pic m/z 577 [M+H]+
tương ứng với khối lượng phân tử M=576 và
CTPT: C32H48O9. Phổ 1H-NMR xuất hiện tín
hiệu của một proton olefin duy nhất dưới dạng
singlet tại 5,97 chứng tỏ sự có mặt của một
nối đôi thế 3 vị trí (-CH=C<), ngoài các tín hiệu
điển hình của một phân tử đường tại 4,97 (1H,
br,s, H-1), 2,22 (1H, dd, J = 5,0, 12,0 Hz,
H-2), 1,52 (1H, H-2), 3,17 (1H, t, J = 10,5
Hz, H-3), 3,15 (1H, H-4), 3,72 (1H, dd,
J = 6,0, 14,0 Hz, H-5), 1,26 (3H, d, J = 6,0 Hz,
H-6), 3,38 (3H, s, 3-OCH3) còn xuất hiện tín
hiệu của 3 nhóm methyl singlet tại 0,93, 0,94
và 1,79, một nhóm methylen nối với oxy ở
4,97 (1H, d, J = 18,0 Hz, H-21) và 4,89
(1H, d, J = 18,0 Hz, H-21). Phổ 13C-NMR
xuất hiện tín hiệu của 32 nguyên tử carbon,
trong đó có 7 nguyên tử carbon thuộc phần
đường còn lại 25 carbon là phần aglycon. Phổ
DEPT cho thấy phần aglycon này bao gồm một
nhóm acetyl đặc trưng bởi các tín hiệu C167,9
(CO) và 20,9 (CH3), một hệ carboxyl ,
không no tại 174,1 (CO), 170,3 (C) và 121,2
(CH), bốn carbon có đính với oxy tại 71,2,
84,1, 73,9, 75,6 và các tín hiệu đặc trưng của
một phân tử đường tại 95,3 (C-1), 34,5
(C-2), 78,3 (C-3), 76,2 (C-4), 67,1 (C-5),
17,7 (C-6), 56,0 (3-OCH3). Các tín hiệu này là
hoàn toàn phù hợp với số liệu của đường
α-L-oleandrose, một loại đường rất phổ biến
trong các loài thuộc chi Nerium. Như vậy, có
thể nhận định hợp chất 3 là hợp chất có dạng
khung cardenolid - một dạng chất rất phổ biến
trong cây trúc đào- bao gồm một khung steroid
và một vòng -lacton không no đính ở vị trí
C-17. So sánh các dữ liệu phổ của hợp chất 3
với dữ liệu phổ của chất oleandrin [2] mà nhóm
nghiên cứu đã phân lập từ lá cây trúc đào, kết
hợp với dữ liệu công bố trong tài liệu [5, 9, 11],
đã khẳng định hợp chất 3 là oleandrigenin-3-O-
-L-oleandrosid hay còn gọi là oleandrin. Như
vậy kết quả cho thấy, một số hợp chất phân lập
được từ lá, ta cũng có thể còn thấy ở các bộ
phận khác trong cây trúc đào như phần vỏ thân
cây. Điều này gợi ý cho việc sử dụng cây trúc
đào một cách tốt hơn trong việc làm nguyên
liệu chiết xuất phân lập các glycosid tim.
Hợp chất 4 (β-sitosterol): thu được dưới
dạng tinh thể màu trắng, nhiệt độ nóng chảy ở
135-136oC. Phổ 1H-NMR của hợp chất (1) xuất
hiện tín hiệu của 6 nhóm metyl tại δH 0,68 (3H,
s) và 1,01 (3H, s); 0,85 (3H, t, J = 7,5 Hz); 0,82
(3H, d, J = 7,0 Hz); 0,93 (3H; d, J = 6,5 Hz);
0,82 (3H, d, J = 7,0 Hz) và 0,84 (3H, d, J = 6,5
Hz)], xuất hiện tín hiệu của một proton lefin tại
δH 5,35 (1H, dd; 3,0 Hz, 3,0 Hz), tín hiệu của
một metin mang oxy tại δH 3,52 (1H, m). Trên
phổ 13C-NMR cho thấy sự xuất hiện của 29
cacbon, xuất hiện tín hiệu của liên kết olefin tại
δC 140,8 (C-5) và 121,7 (C-6); tín hiệu của 6
nhóm metyl tại δC 12,0 (C-18); 19,8 (C-19);
18,8 (C-21); 19,1 (C-26); 19,4 (C-27) và 12,0
(C-29) cùng với tín hiệu của một nhóm metin
mang oxy tại δC 71,8 (C-3). So sánh số liệu phổ
NMR của hợp chất 4 với hợp chất β-sitosterol
[12], thấy hoàn toàn phù hợp. Do đó hợp chất 4
được xác định là β-sitosterol.
6 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 785 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chiết xuất, phân lập một số hợp chất từ vỏ thân cây trúc đào (Nerium Oleander L.), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 52-57
52
Chiết xuất, phân lập một số hợp chất từ
vỏ thân cây trúc đào (Nerium Oleander L.)
Nguyễn Tiến Vững1, Lê Anh Hào1,
Vũ Đức Lợi2,*, Bùi Thị Xuân2, Nguyễn Thị Thu Lan3
1Viện Pháp y Quốc gia, số 41 Nguyễn Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam
2Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
3Học viện Quân y, số 160 đường Phùng Hưng, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt
Từ cắn chiết ethanol 96% bộ phận vỏ thân của cây trúc đào thu hái ở Hà Nội, bằng các phương pháp sắc ký,
nhóm nghiên cứu đã phân lập được 04 hợp chất. Phân tích các dữ kiện phổ và so sánh với những tài liệu đã công
bố, các hợp chất này được xác định là acid 3β, 27-dihydroxyurs-12-en-28-oic (1), neriasid (2), oleandrin (3),
β-sitosterol (4).
Nhận ngày 26 tháng 7 năm 2015, Chỉnh sửa ngày 08 tháng 9 năm 2015, Chấp nhận đăng ngày 05 tháng 12 năm 2016
Từ khóa: Acid 3β,27-dihydroxyurs-12-en-28-oic, neriasid, oleandrin, β-sitosterol.
1. Đặt vấn đề*
Ngày nay các loại thảo dược vẫn đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong việc sản xuất dược
phẩm như là nguồn nguyên liệu trực tiếp, gián
tiếp hoặc cung cấp chất dẫn đường cho việc tìm
kiếm các loại thuốc mới, có hoạt tính cao, chữa
được nhiều bệnh, kể cả các bệnh hiểm nghèo
[1], trong đó nhiều cây có độc tính hiện đã và
đang được ứng dụng vào làm thuốc (như cà độc
dược, mã tiền, ô đầu, trúc đào, lá ngón...). Cây
trúc đào được sử dụng theo kinh nghiệm dân
gian với tác dụng điều trị các bệnh như nhiễm
trùng, sốt rét, áp xe, suyễn, dị ứng, eczema,
Theo các nghiên cứu gần đây, trúc đào còn có
tác dụng gây độc một số dòng tế bào ung thư
trên thử nghiệm in vitro [8, 11]. Thành phần
hóa học trong cây trúc đào chủ yếu là các
alcaloid. Bộ phận hoa và lá của cây trúc đào đã
có các nghiên cứu, tuy nhiên với phần vỏ thân
_______
* Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-989313325
Email: ducloi82@gmail.com
cây thì có rất ít nghiên cứu. Vì vậy, nhóm
nghiên cứu chiết xuất, phân lập một số thành
phần hóa học từ vỏ thân cây trúc đào nhằm tăng
hiệu quả sử dụng cây trúc đào trong chiết xuất
các hợp chất làm thuốc.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Nguyên liệu
Nguyên liệu dùng trong nghiên cứu là vỏ thân
cây trúc đào được thu hái tại Hà Nội vào tháng 6
năm 2015. Mẫu được xác định tên khoa học là
Nerium oleander L. bởi GS.TS. Phan Kế Lộc,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN). Tiêu bản thực vật
mã số: 06/TB-KYD. Mẫu nghiên cứu hiện được
lưu giữ tại Khoa Y Dược, ĐHQGHN.
2.2. Hóa chất, dung môi
Hóa chất: bản mỏng tráng sẵn pha thường
silica gel F254 (Merck), pha đảo RP18 F254s
N.T. Vững và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 52-57 53
(YMC), chất hấp phụ silica gel pha thường (cỡ
hạt 63-200 μm, Merck), pha đảo RP-18 (30-50
μm, Merck), acid sulfuric 10%/ethanol. Dung
môi công nghiệp n-hexan, ethyl acetat (EtOAc),
n-butanol, cloroform (CHCl3), methanol
(MeOH), ethanol (EtOH) nước cất (H2O).
2.3. Thiết bị, dụng cụ
- Các loại cột sắc ký, đèn tử ngoại tại Khoa
Y Dược, ĐHQGHN
- Máy đo phổ hồng ngoại (IR) FT-IR
Spectrophotometer (Perkin Elmer, Mỹ) tại
Khoa Y Dược, ĐHQGHN
- Máy đo phổ khối Agilent 1100 LC/MSD
tại Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam
- Máy đo phổ cộng hưởng từ hạt nhân
(1H-NMR, 13C-NMR, DEPT, HSQC, HMBC)
Bruker AM500 FT-NMR tại Viện Hóa học, Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
- Cột sắc ký và các dụng cụ thủy tinh khác.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Chiết xuất, phân lập các hợp chất
Chiết xuất các hợp chất từ dược liệu bằng
ethanol 96% theo phương pháp ngâm ở nhiệt độ
phòng. Phân đoạn dịch chiết bằng dung môi có
độ phân cực tăng dần n-hexan, ethyl acetat và
n-butanol. Phân lập các chất bằng sắc ký cột với
các chất hấp phụ silica gel pha thường, pha đảo
RP-18, Sephadex LH-20. Sắc ký lớp mỏng dùng
để theo dõi vết các chất từ dịch chiết phân đoạn và
kiểm tra độ tinh khiết các chất phân lập.
Xác định cấu trúc các chất phân lập
Xác định cấu trúc của các chất phân lập
được dựa trên phân tích kết quả phổ hồng ngoại
(IR), phổ khối (MS), phổ cộng hưởng từ hạt
nhân (1H-NMR, 13C-NMR, DEPT, HMBC,
HSQC) sử dụng chất nội chuẩn là TMS
(tetramethyl silan) và so sánh các dữ liệu thu được
từ thực nghiệm với các dữ liệu đã công bố.
2.5. Chiết xuất, phân lập
Mẫu vỏ thân cây trúc đào: Phần vỏ thân của
cây trúc đào sau khi thu hái về được phơi khô
trong bóng râm (1,5kg) rồi được ngâm trong
ethanol 96% (3 lần mỗi lần 3L). Dịch chiết
được lọc qua giấy lọc và gộp lại, cô dịch chiết
bằng cất quay dưới áp suất giảm thu được 85g
cặn ethanol. Hòa cặn với khoảng 50ml nước cất
rồi chiết phân đoạn lần lượt với n-hexan,
chloroform và ethyl acetat (mỗi dung môi 3 lần
mỗi lần 600ml). Cặn từ dịch chiết ethyl acetat
(12,6g), chloroform (8,6g), n-hexan (6,4g).
Phần cặn CHCl3 tiến hành sắc ký cột với
chất hấp phụ silicagel pha thường, giải hấp
bằng hệ dung môi n-hexan: ethyl acetat (tỷ lệ
ethyl acetat tăng dần từ 0-100%) thu được 6
phân đoạn ký hiệu là C1 C6. Tiến hành sắc
ký cột sephadex HL-20 phân đoạn C5, hệ dung
môi methanol:nước - 1:1 (v/v) và sắc ký cột
silicagel pha thường với hệ dung môi n-hexan:
EtOAc - 2 : 1 (v/v) thu được hợp chất 1 (6 mg).
Phần cặn từ dịch chiết EtOAc: Tiến hành
phân lập phần cặn từ dịch chiết EtOAc sử dụng
sắc ký cột pha đảo YMC-RP 18, dung môi
MeOH:nước 1:3 (v/v) thu được 3 phân đoạn ký
hiệu là E1, E2, E3. Phân đoạn E1 được tiếp tục
phân tách trên cột sắc ký silica gel, sử dụng
dung môi rửa giải CHCl3:MeOH: H2O- 5:1:0,1
(v/v) thu được hợp chất 2 (8 mg). Phân đoạn E2
được tiến hành sắc ký cột silicagel dung môi
rửa giải EtOAc:MeOH: H2O- 10:1:0,2 (v/v) thu
được hai phân đoạn nhỏ E2.1 và E2.2, tiến hành
sắc ký cột YMC-RP 18 hai phân đoạn này với
hệ dung môi rửa giải là MeOH: H2O - 1:1 (v/v)
thu được hợp chất 3 (7 mg).
Cặn chiết n-hexan (20g) được phân tách
bằng phương pháp sắc ký cột với chất hấp phụ
silicagel, rửa giải bằng phương pháp gradient
với hệ dung môi n-hexan và etyl acetat thu
được 5 phân đoạn, ký hiệu F1-F5. Sau khi rửa
phân đoạn F2 (1,5 g) có dạng chất rắn màu
vàng bằng methanol thu được chất 4 (50 mg).
3. Kết quả và bàn luận
Dữ liệu phổ của các hợp chất:
Hợp chất 1:
Chất bột màu trắng, M= 472, ESI-MS m/z
473 [M+H]+.
N.T. Vững và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 52-57
54
1H-NMR (500 MHz, CDCl3), (ppm): 5,28
(1H, br s, H-12), 2,99 (1H, m, H-3), 3,53 (1H,
dd, J=4,5, 12,5, H-27), 3,42 (1H, dd, J=5,0,
12,0, H-27), 2,11 (1H, d, J=11,0, H-18), 0,89
(3H, d, J=6,5, H-30), 0,82 (3H, d, J=6,5, H-29),
0,89, 0,85, 0,68, 0,66 (12H, s, H-23, 25, 26, 24).
13C-NMR (125 MHz, CDCl3), (ppm): 36,4
(C-1), 26,9 (C-2), 76,9 (C-3), 38,3 (C-4), 54,6
(C-5), 17,9 (C-6), 33,5 (C-7), 40,0 (C-8), 46,9
(C-9), 36,6 (C-10), 22,9 (C-11), 127,8 (C-12),
135,1 (C-13), 47,3 (C-14), 24,2 (C-15), 21,3 (C-
16), 46,7 (C-17), 52,5 (C-18), 38,2 (C-19), 38,0
(C-20), 30,1 (C-21), 38,5 (C-22), 28,3
(C-23), 16,1 (C-24), 15,5 (C-25), 17,9 (C-26),
62,8 (C-27), 174,3 (C-28), 17,3 (C-29), 21,1
(C-30).
Hợp chất 2:
Dạng bột rắn màu trắng, M=534, CTPT
C30H46O8, ESI-MS m/z 557 [M+Na],
1H-NMR (500 MHz, CDCl3), (ppm): 5,82
(1H, d, J=1,5, H-22), 4,68 (1H, dd, J=1.5, 17,5,
H-21), 4,79 (1H, dd, 2,0, 17,5, H-21), 4,49
(1H, dd, J=2,0, 10,0, H-1'), 4,14 (1H, br s, H-3),
3,69 (1H, br s, H-4), 3,43 (1H, q, J=6.5, H-5)
3,40 (3H, s, 3'-OCH3), 3,32 (1H, ddd, J=2,0,
5,0, 12,0, H-3), 2,86 (1H, t, J=9,0, H-17), 1,34
(3H, d, J=6,5, H-6'), 1,00 (3H, s, H-19), 0,84
(3H, s, H-18). 13C-NMR (125 MHz, CDCl3),
(ppm): 30,8 (C-1), 27,2 (C-2), 72,6 (C-3), 30,3
(C-4), 36,2 (C-5), 29,5 (C-6), 32,1 (C-7), 216,3
(C-8), 51,5 (C-9), 42,5 (C-10), 17,5 (C-11),
34,6 (C-12), 50,9 (C-13), 77,9 (C-14), 37,8
(C-15), 28,3 (C-16), 45,6 (C-17), 16,7 (C-18),
23,9 (C-19), 171,4 (C-20), 73,5 (C-21), 116,7
(C-22), 173,8 (C-23), 98,49 (C-1'), 320 (C-2'),
78,1 (C-3'), 67,1 (C-4'), 70,6 (C-5'), 16,8 (C-6'),
55,8 (C-3'-OMe).
Hợp chất 3:
Dạng tinh thể màu trắng, M= 576, CTPT
C32H48O9, tnc=250
oC, ESI-MS m/z 599 [M+Na],
1H-NMR (500 MHz, CD3OD), (ppm):
3,89 (1H, br s, H-3), 5,47 (1H, t, J=8,5, H-16),
3,19 ( 1H, d, J=9,0, H-17), 0,94 (3H, s, H-18),
0,93 (3H, s, H-19), 4,97 (1H, d, J = 18,0 Hz,
H-21), 4,89 (1H, d, J = 18,0 Hz, H-21), 1,97
(3H, s, H-23), 4,97 (1H, br s, H-1), 2,22 (1H,
dd, J = 5,0, 12,0 Hz, H-2), 1,52 (1H, H-2),
3,17 (1H, t, J = 10,5 Hz, H-3), 3,15 (1H, H-4),
3,72 (1H, dd, J = 6,0, 14,0 Hz, H-5), 1,26 (3H,
d, J = 6,0 Hz, H-6), 3,38 (3H, s, 3-OCH3).
13C-NMR (125 MHz, CD3OD), (ppm): 29,6
(C-1), 26,5 (C-2), 71,2 (C-3), 30,3 (C-4), 36,3
(C-5), 26,5 (C-6), 20,7 (C-7), 41,6 (C-8), 35,5
(C-9), 35,0 (C-10), 20,8 (C-11), 41,0 (C-12),
49,9 (C-13), 84,1 (C-14), 39,1 (C-15), 73,9
(C-16), 56,3 (C-17), 15,9 (C-18), 23,7 (C-19),
170,4 (C-20), 75,6 (C-21), 121,4 (C-22), 174,2
(C-23), 95,3 (C-1'), 34.6 (C-2'), 78.4 (C-3'),
76,2 (C-4'), 67,1 (C-5'), 17,9 (C-6').
Hợp chất 4:
Dạng bột màu trắng, tnc= 135-136
oC, Rf
0,43 (CHCl3), M= 414, CTPT: C29H50O,
1H-NMR (500 MHz, CDCl3), d (ppm): 3,52
(1H, m, H-3); 5,35 (1H, dd; 3,0 Hz, 3,0 Hz,
H-6); 0,68 (3H, s, H- 18); 1,01 (3H, s, H-19);
0,9 (3H, d, J = 7,0 Hz, H-21); 0,82 (3H, d, J =
7,0 Hz, H-26); 0,84 (3H, d, J = 7,0 Hz, H-27);
13C-NMR (125 MHz, CDCl3), d (ppm): 37,3
(C-1); 31,7 (C-2); 71,8 (C- 3); 42,3 (C-4); 140,8
(C-5); 121,7 (C-6); 31,9 (C-7); 31,9 (C-8); 50,2
(C-9); 36,5 (C-10); 21,1 (C-11); 39,8 (C-12);
42,3 (C-13); 56,8 (C-14); 24,3 (C-15); 28,3
(C-16); 56,1 (C-17); 12,0 (C-18); 19,8 (C-19);
36,2 (C-20); 18,8 (C-21); 34,0 (C-22); 26,1
(C-23); 45,9 (C-24); 29,2 (C-25); 19,1 (C-26);
19,4 (C-27); 23,1 (C-28); 12,0 (C-29).
Xác định cấu trúc của các hợp chất:
Hợp chất 1 (acid 3β,27-dihydroxyurs-12-
en-28-oic): Hợp chất 1 là chất bột màu trắng,
nhiệt độ nóng chảy 196-198 oC. Phổ khối lượng
với sự xuất hiện của pic ion phân tử tại m/z 471
[M-H]- tương ứng với hợp chất có KLPT là
472, CTPT C30H48O4. Các phổ
1H-NMR,
13C-NMR và phổ DEPT của hợp chất này cho
thấy sự xuất hiện tín hiệu của 7 nhóm metyl
trong đó có 4 nhóm metyl bậc 3 tại δC 15,5;
16,0; 17,9; 28,2/δH 0,66; 0,68; 0,84; 0,89 (12H,
s, H-24, H-26, H25, H-23), hai nhóm methyl
bậc 2 tại δC 17,2/δH 0,81 (3H, d, J = 6,5 Hz,
H-29), δC 21,0/δH 0,89 (3H, d, J = 6,5 Hz,
H-30), 11 nhóm metylen trong đó có hai nhóm
được nối với oxy ở 62,6 và 76,8. Phổ 1H và
13C xuất hiện tín hiệu của 2 nguyên tử carbon
olefin bị thế 3 lần (-CH=C<) ở C 135,1 và
127,8/ H 5,28 (1H, br s, H-12), tín hiệu của
một nhóm cacbonyl ở 178,4. Như vậy có thể
N.T. Vững và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 52-57 55
dự kiến hợp chất 1 là một triterpen khung ursan
với nối đôi ở vị trí C-12, C-13, nhóm hydroxyl
được đính ở C-3 và nhóm cacbonyl ở vị trí
C-28. So sánh số liệu phổ của chất 1 với số liệu
trong tài liệu đã công bố [10], đặc biệt số liệu
phổ của hợp chất acid 3β,27-dihydroxyurs-12-
en-28-oic đã được nhóm nghiên cứu công bố
phân lập từ phần lá cây trúc đào [4], [6] có thể
xác định hợp chất 1 là acid 3β,27-dihydroxyurs-
12-en-28-oic.
f
HO
COOH
OH
1
3 5 7
9
10
11
12
14
15
17
18
19 21
22
2324
27
28
29
30
Cấu trúc hợp chất 1 Cấu trúc hợp chất 2
O
O
OH
O
O
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14 15
16
17
18
19
20 21
22
1'
2'
3'
4'
5'
6'
23
O
O
MeO
HO
Cấu trúc hợp chất 3 Cấu trúc hợp chất 4
Hình 1. Cấu trúc hóa học của các hợp chất (1-4).
Hợp chất 2 (Neriasid): Chất bột màu trắng,
phổ khối lượng ESI-MS với sự có mặt của pic
m/z 557 [M+Na] tương ứng với khối lượng
phân tử M=534 và CTPT C30H46O8. Trên phổ
1H-NMR của hợp chất 2 cũng xuất hiện tín hiệu
của một proton olefin duy nhất tại 5,82 (1H,
d, J = 1,5 Hz, H-22) chứng tỏ sự có mặt của
một nối đôi thế 3 vị trí, các tín hiệu điển hình
của một phân tử đường D-diginose tại tại
4,48 (1H, dd, J = 2,0, 10,0 Hz, H-1), 1,94 (1H,
m, H-2), 1,69 (1H, m, H-2), 3,34 (1H, ddd,
J=3,0, 5,0, 12,0 Hz, H-3), 3,69 (1H, br s, H-4),
3,42 (1H, q, J = 6,5 Hz, H-5), 1,34 (3H, d,
J = 6,5 Hz, H-6), 3,40 (3H, s, 3-OCH3). Do tín
hiệu của H-3 xuất hiện ở dạng đơn bội (br s)
chứng tỏ cấu hình tại vị trí này là H-3 [11].
Các tín hiệu phổ gợi ý hợp chất 2 là một chất có
dạng khung cardenolid rất phổ biến trong chi
Nerium [10, 11]. Phổ 13C-NMR của 2 xuất hiện
tín hiệu của 30 nguyên tử carbon. Các tín hiệu
N.T. Vững và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 52-57
56
gồm một nhóm carbonyl ở 216,6, một hệ
carboxyl , không no tại 173,9 (CO), 171,4
(C) và 116,7 (CH), hai nhóm carbinol tại 72,6
(C-3) và 77,9 (C-14). Với các tín hiệu nêu trên
có thể khẳng định hợp chất 2 có dạng khung
cardenolid với việc liên kết giữa C8 và C14 bị đứt
[12]. So sánh các dữ liệu phổ của chất 2 với dữ
liệu đã công bố của chất neriasid [3] mà nhóm
nghiên cứu đã phân lập được từ lá cây trúc đào,
đồng thời so sánh với dữ liệu phổ trong tài liệu [7,
12], khẳng định hợp chất 2 là 3β-O-(β-D-
diginosyl)-8,14-seco-14α-hydroxy-8-oxo-5β-card-
20(22)-enolide hay còn gọi là neriasid.
Hợp chất 3 (oleandrin): là chất bột màu
trắng, nhiệt độ nóng chảy 250 oC, độ quay cực
[]18D -52,1 (C 0,2, CHCl3), phổ khối lượng
ESI-MS với sự có mặt của pic m/z 577 [M+H]+
tương ứng với khối lượng phân tử M=576 và
CTPT: C32H48O9. Phổ
1H-NMR xuất hiện tín
hiệu của một proton olefin duy nhất dưới dạng
singlet tại 5,97 chứng tỏ sự có mặt của một
nối đôi thế 3 vị trí (-CH=C<), ngoài các tín hiệu
điển hình của một phân tử đường tại 4,97 (1H,
br,s, H-1), 2,22 (1H, dd, J = 5,0, 12,0 Hz,
H-2), 1,52 (1H, H-2), 3,17 (1H, t, J = 10,5
Hz, H-3), 3,15 (1H, H-4), 3,72 (1H, dd,
J = 6,0, 14,0 Hz, H-5), 1,26 (3H, d, J = 6,0 Hz,
H-6), 3,38 (3H, s, 3-OCH3) còn xuất hiện tín
hiệu của 3 nhóm methyl singlet tại 0,93, 0,94
và 1,79, một nhóm methylen nối với oxy ở
4,97 (1H, d, J = 18,0 Hz, H-21) và 4,89
(1H, d, J = 18,0 Hz, H-21). Phổ 13C-NMR
xuất hiện tín hiệu của 32 nguyên tử carbon,
trong đó có 7 nguyên tử carbon thuộc phần
đường còn lại 25 carbon là phần aglycon. Phổ
DEPT cho thấy phần aglycon này bao gồm một
nhóm acetyl đặc trưng bởi các tín hiệu C167,9
(CO) và 20,9 (CH3), một hệ carboxyl ,
không no tại 174,1 (CO), 170,3 (C) và 121,2
(CH), bốn carbon có đính với oxy tại 71,2,
84,1, 73,9, 75,6 và các tín hiệu đặc trưng của
một phân tử đường tại 95,3 (C-1), 34,5
(C-2), 78,3 (C-3), 76,2 (C-4), 67,1 (C-5),
17,7 (C-6), 56,0 (3-OCH3). Các tín hiệu này là
hoàn toàn phù hợp với số liệu của đường
α-L-oleandrose, một loại đường rất phổ biến
trong các loài thuộc chi Nerium. Như vậy, có
thể nhận định hợp chất 3 là hợp chất có dạng
khung cardenolid - một dạng chất rất phổ biến
trong cây trúc đào- bao gồm một khung steroid
và một vòng -lacton không no đính ở vị trí
C-17. So sánh các dữ liệu phổ của hợp chất 3
với dữ liệu phổ của chất oleandrin [2] mà nhóm
nghiên cứu đã phân lập từ lá cây trúc đào, kết
hợp với dữ liệu công bố trong tài liệu [5, 9, 11],
đã khẳng định hợp chất 3 là oleandrigenin-3-O-
-L-oleandrosid hay còn gọi là oleandrin. Như
vậy kết quả cho thấy, một số hợp chất phân lập
được từ lá, ta cũng có thể còn thấy ở các bộ
phận khác trong cây trúc đào như phần vỏ thân
cây. Điều này gợi ý cho việc sử dụng cây trúc
đào một cách tốt hơn trong việc làm nguyên
liệu chiết xuất phân lập các glycosid tim.
Hợp chất 4 (β-sitosterol): thu được dưới
dạng tinh thể màu trắng, nhiệt độ nóng chảy ở
135-136oC. Phổ 1H-NMR của hợp chất (1) xuất
hiện tín hiệu của 6 nhóm metyl tại δH 0,68 (3H,
s) và 1,01 (3H, s); 0,85 (3H, t, J = 7,5 Hz); 0,82
(3H, d, J = 7,0 Hz); 0,93 (3H; d, J = 6,5 Hz);
0,82 (3H, d, J = 7,0 Hz) và 0,84 (3H, d, J = 6,5
Hz)], xuất hiện tín hiệu của một proton lefin tại
δH 5,35 (1H, dd; 3,0 Hz, 3,0 Hz), tín hiệu của
một metin mang oxy tại δH 3,52 (1H, m). Trên
phổ 13C-NMR cho thấy sự xuất hiện của 29
cacbon, xuất hiện tín hiệu của liên kết olefin tại
δC 140,8 (C-5) và 121,7 (C-6); tín hiệu của 6
nhóm metyl tại δC 12,0 (C-18); 19,8 (C-19);
18,8 (C-21); 19,1 (C-26); 19,4 (C-27) và 12,0
(C-29) cùng với tín hiệu của một nhóm metin
mang oxy tại δC 71,8 (C-3). So sánh số liệu phổ
NMR của hợp chất 4 với hợp chất β-sitosterol
[12], thấy hoàn toàn phù hợp. Do đó hợp chất 4
được xác định là β-sitosterol.
4. Kết luận
Bằng phương pháp sắc ký, bốn hợp chất đã
được phân lập từ vỏ thân của cây trúc đào
(Nerium oleander L.) thu hái ở Hà Nội. Phân
tích các dữ kiện phổ và so sánh với những tài
liệu đã công bố, các hợp chất này được xác định
là acid 27-hydroxy-3β-hydroxyurs-12-en-28-oic
(1), neriasid (2), oleandrin (3), β-sitosterol (4).
N.T. Vững và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 2 (2016) 52-57 57
Tài liệu tham khảo
[1] Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt
Nam, Nhà xuất bản Y học, 2004.
[2] Nguyễn Tiến Vững, Lê Anh Hào, Phân lập và
xác định cấu trúc hóa học của oleandrin từ lá
trúc đào, Tạp chí Dược học, số 421, Vol 51
(2011) 33.
[3] Lê Anh Hào, Nguyễn Tiến Vững, Phân lập và
xác định cấu trúc của neriasid và acid
oleanolic từ lá trúc đào, Tạp chí Dược học, số
421, Vol 51 (2011) 39.
[4] Nguyễn Tiến Vững, Lê Anh Hào, Phân lập và
xác định cấu trúc của gitoxigenin-3-O-alpha-L
oleandroside và acid 3,27-dihydroxyurs-12-
en-28-oic từ lá trúc đào, Tạp chí Dược học, số
433, Vol 52 (2012) 23.
[5] Abe F., and Yamauchi T., Digitoxigenin
Oleandroside and 5α- Adynerin in the leaves
of Nerium odorum (Nerium 9), Chem, Phar.
Bull, 26(10) (1978) 3023.
[6] Abe F. and Yamauchi T., Two pregnanes from
oleander leaves Phytochemistry, 31 (1992) 2819.
[7] Abe F., Yamauchi T., Cardenolide Triosides
of Oleander Leaves, Phytochemistry 31
(1992) 2459.
[8] De La Torre R., Bioavailability of tyrosol, an
antioxidant phenolic compound present in
wine and olive oil, in humans, Drugs under
experimental and clinical research, 29(5-6)
(2003) 203.
[9] Gholamreza Amin, Chemical Constituents of
Dichloromethane Extract of Cultivated
Satureja khuzistanica, Evid Based
Complement Alternat Med.; 4(1) (2007) 95.
[10] Maillard M., Adewunmi C.O. and
Hostettmann K., Atriterpene glycoside from
the fruits of tetrapleura tetraptera,
Phytochemistry, vol.31, No.4 (1992) 1321.
[11] Manjunath B.L., The Wealth of India, Council
of Scientific and Industrial Research, New
Delhi, Vol. VII (1966) 15.
[12] Siddiqui S., Siddiqui B. S., Hafeez F. and
Begum S., Oleanderoic acid and oleanderen
from the leaves of Nerium oleander, Planta
Medica, 54 (1988) 232.
Extract and Isolated Compounds
from the Bark of Nerium Oleander L.
Nguyen Tien Vung1, Le Anh Hao1,
Vu Duc Loi2, Bui Thi Xuan2, Nguyen Thi Thu Lan3
1National Institute of Forensic Medicine, 41 Nguyen Dinh Chieu, Hai Ba Trung, Hanoi, Vietnam
2VNU School of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
3Vietnam Militery Medical University, 160 Phung Hung, Ha Dong, Hanoi, Vietnam
Abstract: From the ethanol 96% extract of the bark of Nerium oleander L. collected in Ha Noi,
(Vietnam), four compounds (1-4) were isolated by chromatographic methods. These isolates were
identified 3β,27-dihydroxyurs-12-en-28-oic acid (1), neriaside (2), oleandrine (3), β-sitosterol (4) by
spectroscopic analyses and comparison with literature data.
Keywords: 3β,27-dihydroxyurs-12-en-28-oic acid, neriaside, oleandrine, β-sitosterol.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3582_1_6434_1_10_20170103_0018.pdf