Chiều cao cắt thích hợp cho cây moringa oleifera sử dụng làm thức ăn chăn nuôi

Số liệu Bảng 4 cho thấy sản lượng sinh khối tăng lên khi tăng chiều cao cắt ở cả năm thứ nhất, thứ hai và trung bình hai năm. Nếu quy ước sản lượng sinh khối ở năm thứ nhất của NT1 là 100% thì của NT2 và NT3 tương ứng là 104,9 và 106,4%; ở năm thứ hai tương ứng với ba NT là 100, 112,5 và 115,2%. Như vậy, khoảng chênh lệch về sản lượng ở năm thứ nhất của NT2 và NT3 so với NT1 là 4,9- 6,4% và sản lượng sinh khối của ba NT sai khác nhau không rõ rệt (P>0,05), nhưng khoảng chênh lệch này ở năm thứ hai đã tăng lên 12,5-15,2% và có sự sai khác rõ rệt giữa NT3 so với NT1. Sở dĩ sản lượng sinh khối của ba NT ở năm thứ nhất không sai khác nhau rõ rệt vì NT1 có năng suất lứa một cao vượt trội (cắt thấp nên đã có một lượng lớn thân tham gia vào năng suất này). Ở năm thứ hai, NT1 không còn lợi thế trên, mặt khác do bị cắt thấp nên tái sinh chậm hơn nên sản lượng sinh khối đã thấp hơn NT3 với sự sai khác rõ rệt. Tuy nhiên, sản lượng trung bình/năm của hai năm không có sự sai khác rõ rệt giữa ba NT (P>0,05). Sản lượng lá tươi có diễn biến khác biệt đôi chút so với sản lượng sinh khối. Cụ thể: Ở năm thứ nhất, nếu như sản lượng sinh khối của NT2 và NT3 lớn hơn NT1 4,9-6,4% thì sản lượng lá tươi chênh lệch nhiều hơn, tương ứng 6,6-9,8% bởi vì tỷ lệ lá/sinh khối của NT2 và NT3 lớn hơn NT1. Tuy nhiên, vẫn không có sự sai khác rõ rệt về sản lượng lá tươi giữa ba NT (P>0,05). Ở năm thứ hai, mức chênh lệch về sản lượng lá tươi của NT2 và NT3 so với NT1 tăng lên, đạt 14,3-18,8% và cả NT2 và NT3 đều sai khác rõ rệt với NT1 (P<0,01). Sản lượng lá tươi trung bình/năm của cả hai năm có sự sai khác rõ rệt giữa NT3 so với NT1 (P<0,05), nhưng của NT2 sai khác không rõ rệt so với NT1 và NT3 (P>0,05). Trong sản xuất bột lá, sản lượng VCK và CP được quan tâm nhất vì đây là sản phẩm chính của quá trình sản xuất cây thức ăn xanh phục vụ cho sản xuất bột lá. Sản lượng VCK trung bình/năm trong 2 năm của NT1 là 8,172 tấn, của NT2 là 8,975 tấn và của NT3 là 9,282 tấn/ha/năm, sản lượng của NT3 sai khác rõ rệt so với NT1 (P<0,05), nhưng không có sự sai khác rõ rệt giữa NT2 so với NT1 và NT3. Sản lượng CP trung bình/năm của NT1, NT2 và NT3 lần lượt là 2,798; 3,073 và 3,178 tấn/ ha/năm. Phân tích thống kê cho kết quả giống như đối với sản lượng VCK. Sản lượng VCK và CP trung bình/năm trong hai năm đầu của một số cây thức ăn xanh thường được dùng cho sản xuất bột lá như: sắn trồng thu lá là 6.989 tấn và 1.693 tấn/ ha/năm (Từ Quang Hiển và Từ Quang Trung, 2017); Leuceana là 6.021 tấn và 1.672 tấn/ha/ năm (Trần Thị Hoan và ctv, 2017); Stylosanthes là 7.767 tấn và 1.448 tấn/ha/năm (Từ Quang Hiển và ctv, 2017); T. gigantea là 10.329-12.154 tấn và 2.412-3.239 tấn/ha/năm (Từ Quang Hiển và ctv, 2019). Sản lượng VCK và CP trung bình/năm của M.oleifera trong 2 năm đầu đạt 8,172-9.282 tấn/ha/năm; sản lượng CP đạt 2.798-3.178 tấn/ha/năm, chứng tỏ M. oleifera là cây thức ăn xanh rất có triển vọng cho việc sản xuất bột lá.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chiều cao cắt thích hợp cho cây moringa oleifera sử dụng làm thức ăn chăn nuôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 67 28: 7-55. 12. Pathoummalangsy K. and Preston T.R. (2008). Effects of supplementation with rumen fermentable carbohydrate and sources of ‘bypass’ protein on feed intake, digestibility and N retention in growing goats fed a basal diet of foliage of Tithonia diversifolia. Liv. Res. Rur. Dev., 20, supplement/kham20076.htm. 13. Tavendale M.H., Meagher L.P., Pacheco D., Walker N., Attwood G.T. and Sivakumaran S. (2005). Methane production from in vitro rumen incubations with Lotus pedunculatus and Medicago sativa, and effects of extractable condensed tannin fractions on methanogenesis. Ani. Feed Sci. Tec., 124: 403-19. 14. Nguyễn Văn Thu (2016). Giáo trình chăn nuôi gia súc nhai lại. NXB Đại học Cần Thơ, 132 trang. 15. Van D.T.T., Mui N.T. and Ledin I. (2005). Tropical foliages: effect of presentation method and species on intake by goats. Ani. Feed Sci. Tec., 118: 1-17. 16. Van Soest P. and Robertson J.B. (1985). A Laboratory Manual for Animal Science. Cornell University Press. Ithaca, NY. 17. Van Soest P.J., Robertson J.B. and Lewis B.A. (1991). Symposium: Carbohydrate methodology, metabolism and nutritional implications in dairy cattle: methods for dietary fibre, and nonstarch polysaccharides in relation to animal nutrition. J. Dai. Sci., 74: 3585-97. CHIỀU CAO CẮT THÍCH HỢP CHO CÂY MORINGA OLEIFERA SỬ DỤNG LÀM THỨC ĂN CHĂN NUÔI Từ Quang Hiển1 *, Trần Thị Hoan1, Từ Quang Trung2 và Phạm Tuấn Hiệp3 Ngày nhận bài báo: 29/07/2020 - Ngày nhận bài phản biện: 19/08/2020 Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 03/09/2020 TÓM TẮT Thí nghiệm xác định chiều cao cắt thích hợp cho cây Moringa oleifera trồng làm thức ăn chăn nuôi được thực hiện tại trường Đại học Nông lâm, Thái Nguyên trong hai năm 2018-2019. Thí nghiệm có ba nghiệm thức (NT) tương ứng với ba chiều cao cắt khác nhau ở lứa cắt đầu tiên, đó là NT1: 30cm, NT2: 45cm, NT3: 60cm tính từ mặt đất đến điểm cắt. Mỗi NT có diện tích 24m2, nhắc lại 5 lần, TN được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên. Các yếu tố khác như mật độ trồng, phân bón, khoảng cách cắt ... bảo đảm đồng đều giữa các NT. Kết quả cho thấy sản lượng vật chất khô (VCK) và protein thô (CP) cao hơn ở NT có chiều cao cắt cao hơn; sản lượng VCK của NT1, NT2 và NT3 tương ứng là 8,172; 8,975 và 9,282 tấn/ha/năm, sản lượng CP tương ứng là 2,798; 3,073 và 3,178 tấn/ha/năm. Căn cứ vào sản lượng VCK, CP và kết quả phân tích thống kê các chỉ tiêu trên thì ở lứa đầu tiên nên cắt Moringa oleifera với chiều cao từ 40 - 60 cm, thích hợp nhất là 60 cm. Từ khóa: Chiều cao cắt, Moringa oleifera, thức ăn chăn nuôi. ABSTRACT Determination of suitable cutting height for Moringa oleifera used as animal feed An experiment in order to determine the suitable cutting height of Moringa oleifera was carried out at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry, during 2018-2019. The experiment consisted of 3 different treatments (NT) respectively to 3 different cutting heights at the first harvesting, that were NT1: 30cm; NT2: 45cm; NT3: 60cm measured from ground level. Each treatment was carried out in an area of 24m2 with 5 replicates, the design was in randomize block. The other factors such as density, fertilizer, cutting intervals ... were similar among treatments. Results showed that, dry matter and crude protein yields were higher in treatments with higher cutting levels; dry matter yield of NT1, NT2 and NT3 were 8.172, 8.975 and 9.282 tons/ha/year. That of crude protein was 2.798, 3.073 and 3.178 tons/ha/year. Based on dry matter and crude protein yields and statistical analysis data, it was concluded that for the first harvesting, the cutting height should be 40-60cm, the most suitable cutting height was 60cm. Keywords: Cutting height, Moringa oleifera, animal feed. 1 Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên 2 Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên 3 Công ty Cổ phần thực phẩm sữa TH, Nghệ An * Tác giả liên hệ: GSTS. Từ Quang Hiển, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên; Emai: tqhien.dhtn@moet.edu.vn; Điện thoại: 0913286190 DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202068 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Đối với cây thức ăn xanh thu cắt nhiều lần trong một năm hoặc vài năm thì các kết quả nghiên cứu đã cho thấy chiều cao cắt có ảnh hưởng lớn đến sản lượng, chất lượng và nhiệm kỳ sử dụng của cây thức ăn (Da Silveira và ctv, 2010; Padila và ctv, 2014; Bashar và ctv, 2017). Nếu cắt quá thấp ở lứa thứ nhất thì cây thức ăn chỉ còn trơ lại phần gốc, hầu như không còn cành nhánh nào. Điều này dẫn tới các chất dinh dưỡng phục vụ cho tái sinh lứa sau hoàn toàn lấy từ gốc, rễ mà không có sự hỗ trợ từ sự tổng hợp dinh dưỡng của cành lá trên mặt đất. Hiện tượng này xảy ra lâu dài thì cây sẽ tàn lụi và chết. Ngược lại, nếu cắt quá cao cây sẽ tái sinh nhiều nhánh nhưng các nhánh này thường nhỏ và số lượng lá ít dẫn tới sản lượng thấp. Chiều cao cắt thích hợp phụ thuộc vào loại cây thức ăn và mục đích sử dụng. Ví dụ: Cây Moringa oleifera trồng làm rau xanh thì được trồng rất dày như trồng rau (rau ngót, rau đay) và chỉ thu hoạch phần có lá non (phần ngọn non), phần có lá già không thu hoạch, do đó chiều cao cắt thích hợp chỉ khoảng 30cm (Padila và ctv, 2014), mặc dù chiều cao cắt thấp như vậy nhưng cây vẫn còn phần lớn lá phục vụ cho tái sinh. Trồng Moringa oleifera làm thức ăn gia súc thì sản phẩm cần thu hoạch lại là lá bánh tẻ nằm ở các cành kể từ phần gốc trở lên. Do đó, Moringa oleifera được trồng thưa để cây to, có nhiều cành, nhánh, nhiều lá. Khi thu hoạch người ta sẽ cắt cả cây, sau đó loại bỏ phần thân và những phần cành hóa gỗ, phần còn lại được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi; nếu sản xuất bột lá thì người ta chỉ lấy lá, các phần còn lại bị loại bỏ hoặc sử dụng cho gia súc nhai lại. Đối với trồng các cây thức ăn xanh thu hoạch nhiều lần thì việc xác định chiều cao cắt thích hợp để vừa thu được sản lượng cao nhất, vừa bảo đảm cho cây tái sinh tốt ở các lứa thu hoạch sau là hết sức cần thiết. Thí nghiệm này nhằm xác định chiều cao cắt thích hợp cho cây thức ăn xanh Moringa oleifera trồng để sản xuất bột lá bổ sung vào thức ăn hỗn hợp của gia cầm. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng: Cây thức ăn xanh M. oleifera trồng với mục đích thu lá dùng cho sản xuất bột lá bổ sung vào thức ăn hỗn hợp của gia cầm nhằm nâng cao chất lượng thịt, trứng. Cây M. oleifera được ươm từ hạt trong bầu nilon; trồng sau khi tra hạt vào bầu 1 tháng, chiều cao cây khoảng 15cm. Địa điểm: Thí nghiệm (TN) được thực hiện tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, thuộc khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam trong 2 năm 2018-2019. Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm có 3 nghiệm thức (NT) tương ứng với 3 chiều cao cắt ở lứa cắt đầu tiên, đó là NT1: 30cm, NT2: 45cm, NT3: 60cm tính từ mặt đất đến điểm cắt, các lứa sau cắt ở trên vết cắt của lứa trước 5-10cm. Mỗi NT có diện tích 24m2, nhắc lại 5 lần, bố trí TN theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên. Mật độ trồng của cả 3 NT đều là 83.500 cây/ha; các yếu tố khác như phân bón, khoảng cách thu hoạch giữa 2 lứa (khoảng cách cắt) ... áp dụng giống nhau cho cả 3 NT. Các chỉ tiêu theo dõi: Năng suất, sản lượng sinh khối, lá tươi, vật chất khô (VCK) của lá. Xác định các chỉ tiêu năng suất và sản lượng theo phương pháp của Từ Quang Hiển và ctv (2002). Năng suất sinh khối, lá tươi, VCK là khối lượng sinh khối, lá tươi, VCK thu được/ha/ lứa cắt, đơn vị tính là kg/ha/lứa cắt. Năng suất sinh khối được tính bằng cách cắt toàn bộ 5 ô của một NT, năng suất sinh khối trung bình của NT được tính từ năng suất sinh khối của 5 ô. Năng suất lá tươi được tính bằng cách lấy ngẫu nhiên từ mỗi ô 10kg sinh khối (10kg/ô x 5ô = 50kg) tách lá ra khỏi cành, cuống lá, cân lá và tính tỷ lệ lá/sinh khối. Năng suất lá tươi = Năng suất sinh khối x tỷ lệ lá tươi/sinh khối. Năng suất VCK được tính bằng cách lấy 5 mẫu lá tươi từ 5 NT, sấy khô và tính tỷ lệ VCK/lá tươi. Năng suất VCK = NS lá tươi x tỷ lệ VCK/lá tươi. Sản lượng sinh khối, lá tươi, VCK được tính bằng cách cộng năng suất của các lứa cắt trong năm hoặc nhân năng suất trung bình/ DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 69 lứa với số lứa cắt trong năm, đơn vị tính là tấn/ha/năm. Hai cách tính này sai lệch nhau 0-5 phần nghìn do làm tròn số năng suất trung bình lứa. Sản lượng protein thô được tính bằng cách nhân sản lượng VCK với tỷ lệ protein thô trong VCK. Xác định tỷ lệ nước trong lá cây thức ăn theo TCVN 4326:2001 và hàm lượng CP trong VCK của lá cây thức ăn theo TCVN 4328- 1:2007. Xử lý số liệu: Số liệu được xử lý thống kê theo phương pháp của Đỗ Thị Ngọc Oanh và Hoàng Văn Phụ (2012). 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Ảnh hưởng của chiều cao cắt đến năng suất sinh khối Lứa đầu tiên được thu hoạch sau khi tra hạt vào bầu ươm 4 tháng hay sau 3 tháng kể từ khi trồng cây con. Năm thứ nhất thu hoạch được 5 lứa, năm thứ hai thu hoạch được 6 lứa. Năng suất sinh khối bao gồm thân, cành, lá của từng lứa (kg/ha/lứa) được trình bày tại bảng 1. Bảng 1. Năng suất sinh khối của M. oleifera theo chiều cao cắt (kg/ha/lứa) Năm Lứa NT1 NT2 NT3 SEM P I 1 2 3 4 5 40.865 31.760 25.270 9.954 6.957 37.629 35.266 27.612 11.526 8.414 36.200 36.959 28.578 11.883 8.557 Mean 22.961a 24.089a 24.435a 1.353 0,238 II 6 7 8 9 10 11 11.913 22.745 23.019 12.924 7.638 4.034 13.358 24.837 25.040 14.715 9.139 5.430 13.895 25.731 25.491 14.950 9.230 5.463 Mean 13.712b 15.420ab 15.793a 1.027 0,017 Mean 17.916a 19.361a 19.722a 1.174 0,072 Số liệu Bảng 1 cho thấy ở lứa cắt đầu tiên, năng suất sinh khối cao nhất là NT1, tiếp theo là NT2, thấp nhất là NT3 là vì NT1 có chiều cao cắt thấp nhất nên đã có một khối lượng lớn thân của phần gốc cây góp phần vào năng suất sinh khối. Nghiệm thức 3 có năng suất sinh khối thấp nhất, bởi vì được cắt cao hơn nên khối lượng phần thân tham gia vào năng suất sinh khối ít hơn so với NT1 và NT2. Tuy nhiên, từ lứa thứ 2 đến lứa 11, năng suất sinh khối có thứ tự đảo ngược lại, cao nhất ở NT3, sau đó là NT2 và thấp nhất ở NT1. Điều này được giải thích như sau: Dinh dưỡng phục vụ cho việc tái sinh nằm ở phần gốc, rễ và thân cây, nếu cắt quá thấp (NT1) thì đã lấy đi một phần lớn nguồn dinh dưỡng được dự trữ ở thân dành cho việc tái sinh lứa sau, còn nếu cắt cao hơn thì nguồn dinh dưỡng dự trữ cho tái sinh bị lấy đi ít hơn. Ngoài nguyên nhân trên, còn có nguyên nhân khác, đó là chiều cao cắt cao hơn thì cây tái sinh nhanh hơn so với chiều cao cắt thấp hơn. Khi cây tái sinh đầy đủ cành lá thì có quá trình vận chuyển dinh dưỡng từ cành, lá về gốc rễ dự trữ cho lần tái sinh sau. Như vậy, chiều cao cắt cao đã đẩy nhanh hơn quá trình trên so với chiều cao cắt thấp. Phân tích thống kê cho thấy năng suất sinh khối của ba NT ở năm thứ nhất sai khác nhau không rõ rệt (P>0,05), ở năm thứ hai thì NT3 sai khác rõ rệt với NT1 (P<0,05), nhưng NT2 không sai khác rõ rệt với NT1 và NT3, năng suất sinh khối trung bình/lứa của cả hai năm giống như năm thứ nhất. 3.2. Ảnh hưởng của chiều cao cắt đến năng suất lá tươi Như phần phương pháp nghiên cứu đã nêu: năng suất lá tươi được tính bằng cách nhân năng suất sinh khối với tỷ lệ lá tươi/sinh khối. Tỷ lệ này có sự khác nhau giữa các NT, bởi vì NT có chiều cao cắt thấp hơn sẽ có khối lượng phần thân cây lớn hơn, do đó tỷ lệ lá/ sinh khối sẽ thấp hơn, còn NT có chiều cao cắt cao hơn sẽ có khối lượng phần thân cây ít hơn, do đó tỷ lệ lá/sinh khối lớn hơn. Tỷ lệ lá/sinh khối trung bình của các NT được tính theo bình quân gia quyền giữa năng suất và tỷ lệ lá/sinh khối của các lứa cắt, kết quả như sau: của NT1 là 38,06%, của NT2 là 38,68% và của NT3 là 39,27%. Căn cứ vào năng suất sinh khối của các lứa cắt và tỷ lệ lá/sinh khối ở trên, DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202070 năng suất lá tươi của các NT đã tính được như ở Bảng 2. Bảng 2. Năng suất lá tươi theo chiều cao cắt (kg/ha) Năm Lứa NT1 NT2 NT3 SEM P I 1 2 3 4 5 15.553 12.088 9.618 3.788 2.648 14.555 13.641 10.680 4.458 3.255 14.216 14.514 11.223 4.666 3.360 Mean 8.739a 9.318a 9.596a 526,1 0,064 II 6 7 8 9 10 11 4.534 8.657 8.761 4.919 2.907 1.535 5.167 9.607 9.685 5.692 3.535 2.100 5.457 10.105 10.010 5.871 3.625 2.145 Mean 5.219b 5.964a 6.202a 397,6 0,005 Mean 6.819b 7.489ab 7.745a 454,2 0,020 Số liệu Bảng 2 cho thấy năng suất lá tươi có diễn biến tương tự như năng suất sinh khối. Tuy nhiên, khoảng cách chênh lệch về năng suất lá tươi giữa các nghiệm thức lớn hơn so với năng suất sinh khối. Ví dụ: Nếu năng suất sinh khối trung bình/lứa ở năm thứ nhất của NT1 là 100% thì của NT2 và NT3 tương ứng là 104,9 và 106,4%, trong khi đó năng suất lá tươi tương ứng là 100, 106,6 và 109,8%. Đó là do tỷ lệ lá/sinh khối của NT3 > NT2 >NT1. Một điểm khác biệt nữa là năng suất lá tươi trung bình/lứa ở năm thứ hai của NT2 và NT3 đều sai khác rõ rệt với NT1 (P<0,01), trong khi đó năng suất sinh khối chỉ có sự sai khác rõ rệt giữa NT3 với NT1. Tương tự như vậy, năng suất sinh khối trung bình/lứa trong hai năm của ba NT sai khác nhau không rõ rệt, nhưng năng suất lá tươi lại có sự sai khác rõ rệt giữa NT3 và NT1 (P<0,05). 3.3. Ảnh hưởng của chiều cao cắt đến năng suất vật chất khô Trồng cây thức ăn xanh để sản xuất bột lá bổ sung vào thức ăn cho gia cầm khác với trồng cây thức ăn xanh cho các loại gia súc khác, đó là chỉ lấy lá để sản xuất bột lá, còn thân, cành, ngọn non đều bị loại bỏ hoặc sử dụng cho gia súc nhai lại. Chính vì vậy, năng suất vật chất khô (VCK) được thông báo ở Bảng 3 là năng suất VCK của lá, nó thường thấp hơn năng suất vật chất khô bao gồm cả thân, cành, ngọn non được thông báo bởi các nghiên cứu khác. Bảng 3. Năng suất VCK theo chiều cao cắt (kg/ha) Năm Lứa NT1 NT2 NT3 SEM P I 1 2 3 4 5 3.389 2.634 2.096 826 577 3.172 2.972 2.327 971 709 3.098 3.163 2.445 1.017 732 Mean 1.904a 2.030a 2.091a 113,9 0,064 II 6 7 8 9 10 11 988 1.886 1.909 1.072 633 335 1.126 2.093 2.110 1.240 770 458 1.189 2.202 2.181 1.279 790 467 Mean 1.137b 1.300a 1.351a 86,6 0,005 Mean 1.486b 1.632ab 1.688a 98,9 0,020 Ghi chú: tỷ lệ VCK/lá tươi lá 21,79% Diễn biến về năng suất VCK tương tự như diễn biến của năng suất lá tươi. Đó là năng suất VCK trung bình/lứa của năm thứ nhất sai khác nhau không rõ rệt giữa các NT (P>0,05), của năm thứ hai có sự sai khác rõ rệt giữa NT2, NT3 với NT1 (P<0,01), nhưng giá trị trung bình hai năm thì chỉ có NT3 sai khác rõ rệt với NT1 (P<0,05); NT2 sai khác không rõ rệt so với NT1 và NT3 (P>0,05). Một số nghiên cứu về chiều cao cắt đối với một số cây thức ăn xanh khác nhau như cỏ Voi thuần, cỏ Voi lai, cỏ Guinea, cây Moringa ... cũng cho thấy năng suất VCK tăng lên khi tăng chiều cao cắt thích hợp (Wijitphan và ctv, 2009; Da Silveira và ctv, 2010; Padila và ctv, 2014; Lounglawan và ctv, 2014; Bashar và ctv, 2017). 3.4. Ảnh hưởng của chiều cao cắt đến sản lượng Moringa oleifera Các chỉ tiêu về sản lượng Moringa oleifera bao gồm: sinh khối, lá tươi và VCK đã được theo dõi và cách tính như phần phương pháp nghiên cứu đã nêu. Sản lượng trung bình/năm của hai năm được tính bằng cách cộng sản DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 71 lượng của năm 1 với năm 2 sau đó chia cho hai. Sản lượng CP được tính bằng cách nhân sản lượng VCK với tỷ lệ CP trong VCK, tỷ lệ này đã xác định được là 34,24%, kết qủa tính sản lượng xem tại Bảng 4. Bảng 4. Sản lượng theo chiều cao cắt (tấn/ha/năm) Chỉ tiêu Năm NT1 NT2 NT3 SEM P Sinh khối 1 2 Mean 114,806a 82,273b 98,540a 120,447a 92,519ab 106,483a 122,177a 94,760a 108,469a 6,766 6,163 6,459 0,238 0,017 0,072 Lá tươi 1 2 Mean 43,695a 31,313b 37,504b 46,589a 35,786a 41,188ab 47,979a 37,212a 42,596a 2,615 2,385 2,498 0,064 0,005 0,020 VCK 1 2 Mean 9,521a 6,823b 8,172b 10,152a 7,798a 8,975ab 10,455a 8,109a 9,282a 0,569 0,519 0,544 0,064 0,005 0,020 CP 1 2 Mean 3,260a 2,336b 2,798b 3,476a 2,670a 3,073ab 3,580a 2,776a 3,178a 0,195 0,177 0,186 0,064 0,005 0,020 Số liệu Bảng 4 cho thấy sản lượng sinh khối tăng lên khi tăng chiều cao cắt ở cả năm thứ nhất, thứ hai và trung bình hai năm. Nếu quy ước sản lượng sinh khối ở năm thứ nhất của NT1 là 100% thì của NT2 và NT3 tương ứng là 104,9 và 106,4%; ở năm thứ hai tương ứng với ba NT là 100, 112,5 và 115,2%. Như vậy, khoảng chênh lệch về sản lượng ở năm thứ nhất của NT2 và NT3 so với NT1 là 4,9- 6,4% và sản lượng sinh khối của ba NT sai khác nhau không rõ rệt (P>0,05), nhưng khoảng chênh lệch này ở năm thứ hai đã tăng lên 12,5-15,2% và có sự sai khác rõ rệt giữa NT3 so với NT1. Sở dĩ sản lượng sinh khối của ba NT ở năm thứ nhất không sai khác nhau rõ rệt vì NT1 có năng suất lứa một cao vượt trội (cắt thấp nên đã có một lượng lớn thân tham gia vào năng suất này). Ở năm thứ hai, NT1 không còn lợi thế trên, mặt khác do bị cắt thấp nên tái sinh chậm hơn nên sản lượng sinh khối đã thấp hơn NT3 với sự sai khác rõ rệt. Tuy nhiên, sản lượng trung bình/năm của hai năm không có sự sai khác rõ rệt giữa ba NT (P>0,05). Sản lượng lá tươi có diễn biến khác biệt đôi chút so với sản lượng sinh khối. Cụ thể: Ở năm thứ nhất, nếu như sản lượng sinh khối của NT2 và NT3 lớn hơn NT1 4,9-6,4% thì sản lượng lá tươi chênh lệch nhiều hơn, tương ứng 6,6-9,8% bởi vì tỷ lệ lá/sinh khối của NT2 và NT3 lớn hơn NT1. Tuy nhiên, vẫn không có sự sai khác rõ rệt về sản lượng lá tươi giữa ba NT (P>0,05). Ở năm thứ hai, mức chênh lệch về sản lượng lá tươi của NT2 và NT3 so với NT1 tăng lên, đạt 14,3-18,8% và cả NT2 và NT3 đều sai khác rõ rệt với NT1 (P<0,01). Sản lượng lá tươi trung bình/năm của cả hai năm có sự sai khác rõ rệt giữa NT3 so với NT1 (P<0,05), nhưng của NT2 sai khác không rõ rệt so với NT1 và NT3 (P>0,05). Trong sản xuất bột lá, sản lượng VCK và CP được quan tâm nhất vì đây là sản phẩm chính của quá trình sản xuất cây thức ăn xanh phục vụ cho sản xuất bột lá. Sản lượng VCK trung bình/năm trong 2 năm của NT1 là 8,172 tấn, của NT2 là 8,975 tấn và của NT3 là 9,282 tấn/ha/năm, sản lượng của NT3 sai khác rõ rệt so với NT1 (P<0,05), nhưng không có sự sai khác rõ rệt giữa NT2 so với NT1 và NT3. Sản lượng CP trung bình/năm của NT1, NT2 và NT3 lần lượt là 2,798; 3,073 và 3,178 tấn/ ha/năm. Phân tích thống kê cho kết quả giống như đối với sản lượng VCK. Sản lượng VCK và CP trung bình/năm trong hai năm đầu của một số cây thức ăn xanh thường được dùng cho sản xuất bột lá như: sắn trồng thu lá là 6.989 tấn và 1.693 tấn/ ha/năm (Từ Quang Hiển và Từ Quang Trung, 2017); Leuceana là 6.021 tấn và 1.672 tấn/ha/ năm (Trần Thị Hoan và ctv, 2017); Stylosanthes là 7.767 tấn và 1.448 tấn/ha/năm (Từ Quang Hiển và ctv, 2017); T. gigantea là 10.329-12.154 tấn và 2.412-3.239 tấn/ha/năm (Từ Quang Hiển và ctv, 2019). Sản lượng VCK và CP trung bình/năm của M.oleifera trong 2 năm đầu đạt 8,172-9.282 tấn/ha/năm; sản lượng CP đạt 2.798-3.178 tấn/ha/năm, chứng tỏ M. oleifera là cây thức ăn xanh rất có triển vọng cho việc sản xuất bột lá. 4. KẾT LUẬN Với 3 chiều cao cắt là 30cm, 45cm và 60cm tính từ mặt đất đến điểm cắt ở lứa thu hoạch thứ nhất đối với cây thức ăn xanh M.oleifera DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202072 trồng để sản xuất bột lá bổ sung vào thức ăn hỗn hợp của gia cầm cho kết quả: Sản lượng VCK và CP trung bình/năm của NT1 là 8,172 và 2,798 tấn, NT2 là 8,975 và 3,073 tấn, NT3 là 9,282 và 3,178 tấn/ha/năm. Căn cứ vào sản lượng trên và kết quả phân tích thống kê thì nên thu hoạch M.oleifera ở lứa cắt đầu tiên thích hợp nhất là 60cm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bashar M.K., Huque K.S., Sarker N.R., Sultana N. and Makkar H.P.S. (2017). Study of different havesting height on annual biomass yield, chemical composition and in sacco dry matter degradability of Moringa fodder. Int. J. Agr. Ino. Rea., 6(1): 50-56. 2. Da Silveira M.C.T., Junior D.N., Da Cumha B.A.L., Pena G.S.D., K.S., Da Silva S.C. and Sbrissia A.F. (2010). Efect of cutting interval and cutting height on morphogenesis and forage accumulation of guinea grass (Panicum maximum). Tro. grassland, 44: 103-08. 3. Từ Quang Hiển, Nguyễn Khánh Quắc và Trần Trang Nhung (2002). Giáo trình đồng cỏ và cây thức ăn gia súc. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 112 trang. 4. Từ Quang Hiển và Từ Quang Trung (2017). Nghiên cứu khả năng sản xuất chất xanh và bột lá của sắn KM 94 trồng tại tỉnh Thái nguyên. Tạp chí KHKT Chăn nuôi, 214: 52-56. 5. Từ Quang Hiển, Trần Thị Hoan và Từ Quang Trung (2017). Nghiên cứu khả năng sản xuất chất xanh và bột cỏ của cỏ Stylosanthes guianensis CIAT 184 trồng tại tỉnh Thái Nguyên. Tạp chí KHCN Việt Nam, 19(8): 23-27. 6. Trần Thị Hoan, Từ Quang Hiển và Từ Quang Trung (2017). Nghiên cứu khả năng sản xuất chất xanh và bột lá của Leuceana leucocephala trồng tại Thái Nguyên. Kỷ yếu Hội nghị Chăn nuôi và Thú y toàn quốc. Cần Thơ, 11-13/3, trang 290-96. 7. Hien T.Q., T.T. Kien M.A. Khoa T.T. Hoan T.Q. Trung (2019). Effect of different Nitrogen fertilizer application levels on yield and quality of the green fodder Trichanthera gigantea. In Pro. X Int. Sym. Agr. For. Jahorina 3-6, Oct, Pp 1482-87. 8. Lounglawan P., Lounglawan W. and Suksombat W. (2014). Efect of cutting interval and cutting height on yield and chemical composition of King Napier grass (Pennisetum purpureum x Pennisetum americanum). APCBEE Procedia, Pp. 27-31. 9. Đỗ Thị Ngọc Oanh và Hoàng Văn Phụ (2012). Giáo trình Phương pháp thí nghiệm đồng ruộng. NXB Nông nghiệp, 210 trang. 10. Padila C., Nidia F., Idania S., Tuero R. and Lucia S. (2014). Effect of cut height on indicator of forage production of Moringa oleifera CV. Plain. Cub. J. Agr. Sci., 48(4): 405-09. 11. Tiêu chuẩn Việt Nam 4326:2001 (ISO 6496:1999). Thức ăn chăn nuôi, Phương pháp xác định độ ẩm, trang 23- 26. 12. Tiêu chuẩn Việt Nam: 4328-1:2007 (ISO 5983-1:2005). Thức ăn chăn nuôi, Phương pháp xác định hàm lượng nitơ và protein, trang 32-35. 13. Wijitphan S., Lorwilai P. and Arkaseang C. (2009). Effect of cutting heights on productivity and quailty of King Napier grass (Pennisetum purpureum CV. King grass) under irrigation. Pak. J. Nut., 8(8): 1244-50.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchieu_cao_cat_thich_hop_cho_cay_moringa_oleifera_su_dung_lam.pdf
Tài liệu liên quan