- Sự nhất quán và tính minh bạch
của chính sách khoan hồng
Sự nhất quán và minh bạch của việc
thực thi chính sách khoan hồng là một trong
những yếu tố quan trọng cho sự thành công
của chính sách này. Sự nhất quán được hiểu
là việc áp dụng chính sách này phải mang
tính chắc chắn và có thể dự đoán được. Bản
chất của việc tố cáo là nhằm bảo đảm rằng:
(i) Doanh nghiệp sẽ được hưởng
khoan hồng, nếu đáp ứng các điều kiện pháp
luật quy định;
(ii) Các doanh nghiệp còn lại sẽ bị
phạt theo đúng mức độ nghiêm khắc mà
pháp luật quy định.
Kết hợp với yêu cầu thứ nhất về mức
phạt thật nghiêm khắc, tính nhất quán làm
cho nguy cơ mà doanh nghiệp không tham
gia chính sách khoan hồng ngày càng cao.
- Vai trò thực sự độc lập của cơ quan
cạnh tranh
So với Luật cạnh tranh 2004, cơ quan
thực thi pháp luật kiểm soát hành vi HCCT đã
thay đổi quan trọng. Theo đó, Ủy ban Cạnh
tranh Quốc gia là cơ quan nhà nước thuộc
Chính phủ và do Chính phủ thành lập, thực
hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh; giám
sát các hoạt động cạnh tranh trên thị trường;
tiến hành điều tra, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về cạnh tranh20. Việc nâng cấp Cục
Quản lý cạnh tranh từ một Cục thuộc Bộ
Công thương21 và gộp chung Hội đồng cạnh
tranh thành Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là
một thay đổi hợp lý, nhằm bảo đảm tính độc
lập và tính nhất quán trong hoạt động điều
tra và xử lý vi phạm về HCCT. Tuy nhiên,
trong quá trình xử lý các hành vi HCCT, nếu
Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia không bảo đảm
được tính độc lập của mình, các quyết định
đưa ra không nghiêm khắc và nhất quán, thì
khía cạnh răn đe của chính sách khoan hồng
sẽ khó phát huy trên thực tế
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách khoan hồng trong dự thảo luật cạnh tranh nhìn từ lý thuyết trò chơi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÍNH SAÙCH KHOAN HOÀNG TRONG DÖÏ THAÛO LUAÄT CAÏNH TRANH
NHÌN TÖØ LYÙ THUYEÁT TROØ CHÔI
Phạm Hoài Huấn*
Tóm tắt:
Bài viết phân tích quy định về chính sách khoan hồng của Dự thảo Luật
Cạnh tranh (sửa đổi), đồng thời đưa ra các khuyến nghị có liên quan
cho việc xây dựng và áp dụng chính sách khoan hồng tại Việt Nam
trong thời gian tới.
Abstract:
This article provides analysis the provisions on the leniency policy of
the Bill on Competition (amended) and relevant recommendations for
the development and application of the leniency policy in Vietnam in
the coming time.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Chính sách khoan hồng,
phá vỡ thỏa thuận, lý thuyết trò chơi.
Lịch sử bài viết
Nhận bài: 04/05/2017
Biên tập: 16/05/2017
Duyệt bài: 23/05/2017
Article Infomation:
Keywords: leniency policy, beach
of agreement, games theory.
Article History:
Received: 04 May 2007
Edited: 16 May 2007
Appproved: 23 May 2007
So với Luật Cạnh tranh năm 2004, Dự
thảo thứ hai Luật Cạnh tranh (sửa đổi) đã
có nhiều thay đổi liên quan đến việc kiểm
soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh1.
Ngoài việc thay đổi cách tiếp cận từ đối với
các hành vi, từ chỗ chỉ giới hạn các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh (HCCT) trong
phạm vi các thỏa thuận theo chiều ngang2,
Dự thảo này (Dự thảo) đã mở rộng phạm vi
các thỏa thuận thành thỏa thuận theo chiều
dọc và theo chiều ngang3. Đây là một thay
đổi quan trọng. Có thể nhận thấy Dự thảo
đã thay đổi một cách cơ bản phương pháp
tiếp cận đối với hành vi4 thỏa thuận HCCT
theo hướng tiếp cận từ góc độ kinh tế của
hành vi nhằm tiệm cận với thông lệ quốc tế.
Thay đổi quan trọng nhất của Dự thảo là lần
đầu tiên, chính sách khoan hồng nhằm phá
vỡ các thỏa thuận HCCT được khởi xướng5.
Tuy vậy, để có thể đưa chính sách khoan
1 Có thể tải về từ truy cập ngày 08/04/2017.
2 Điều 9 Luật Cạnh tranh.
3 Điều 12, Điều 13 Dự thảo.
4 WB, OECD (1998), A Framework for the Design and Implementation of Competition Law and Policy, chapter 3:
Agreements. Ngoài ra, pháp luật cạnh tranh của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đều tiếp cận các hành vi thỏa thuận
HCCT theo cả chiều ngang và chiều dọc, dựa trên sự tác động của các thỏa thuận đối với cạnh tranh trên thị trường.
Xem thêm European Commission (2010), Guidelines on Vertical Restraints, O.J. C130, para. 21.
5 Điều 17 Dự thảo.
* ThS, Khoa Luật Thương mại, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 11(339) T6/2017
hồng đi vào thực tiễn một cách hiệu quả,
trong bối cảnh của Việt Nam, cần phải nhìn
nhận vai trò này dưới góc độ kinh tế học và
kinh nghiệm áp dụng.
1. Khái niệm
Ngay từ những phiên thảo luận diễn
ra từ tháng 02 năm 2000 được tổ chức bởi
OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh
tế), các bên tham gia đã xác định việc chống
lại các thỏa thuận HCCT là rất khó khăn.
Thách thức trong việc chống lại các thỏa
thuận HCCT nghiêm trọng là vạch trần các
thỏa thuận bí mật của họ. Để khuyến khích
một thành viên của thỏa thuận thú nhận và
cung cấp các bằng chứng trực tiếp mang tính
“bên trong” về cuộc họp bí mật và cách thức
trao đổi thông tin liên lạc của họ, cơ quan
cạnh tranh có thể hứa hẹn giảm tiền phạt,
miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
thậm chí là ân xá6.
Theo pháp luật của Liên minh châu
Âu, khoan hồng được hiểu là việc giảm tiền
phạt. Ở những nơi khác, thì khoan hồng có
thể được xem xét ở khía cạnh miễn truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc miễn trách nhiệm
bồi thường của các cá nhân”7.
Theo pháp luật của Hoa Kỳ, “khoan
hồng được hiểu là việc doanh nghiệp báo
cáo các hoạt động vi phạm pháp luật của
họ ngay từ giai đoạn đầu, nếu họ đáp ứng
những điều kiện nhất định. “Khoan hồng”
được hiểu là không truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với hành vi được khai báo”8.
Cho nên, có thể hiểu chính sách khoan
hồng là chính sách miễn, giảm hình phạt mà
nhà nước dành cho các doanh nghiệp tham
gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo
những điều kiện nghiêm ngặt nhằm đổi lấy
sự hợp tác và/ hoặc cung cấp thông tin có giá
trị để giúp cơ qua nhà nước có thẩm quyền
phá vỡ các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
2. Cơ sở kinh tế của chính sách khoan
hồng
Chính sách khoan hồng được xây dựng
nhằm tạo động lực để các doanh nghiệp hợp
tác với cơ quan cạnh tranh trong quá trình
xử lý các thỏa thuận HCCT. Chính sách này
đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh các
thỏa thuận HCCT được tiến hành một cách
bí mật và cơ quan cạnh tranh hầu như không
có hoặc có rất ít chứng cứ về thỏa thuận.
Cơ sở nền tảng của chính sách khoan
hồng được xây dựng trên nguyên lý của lý
thuyết trò chơi.
2.1. Lý thuyết trò chơi
Lý thuyết trò chơi là nghiên cứu về
cách hành xử của con người trong những
hoàn cảnh chiến lược9. Ví dụ điển hình của
lý thuyết trò chơi là tình thế lưỡng nan của
hai tù nhân. Theo đó, tình thế lưỡng nan của
hai tù nhân được hiểu là một “trò chơi” đặc
biệt giữa hai tù nhân bị bắt giữ để minh họa
cho khía cạnh tại sao rất khó khăn để duy trì
sự hợp tác ngay cả khi sự hợp tác này là có
lợi cho cả hai bên10.
Có thể diễn giải tình thế lưỡng nan này
như sau:
Hai tù nhân đang bị điều tra về một
hành vi phạm tội mà họ là các bị can. Họ bị
giam ở hai nhà giam riêng biệt và không thể
giao tiếp với nhau. Mỗi người đều được cơ
quan điều tra yêu cầu khai ra hành vi phạm
tội.
6 OECD (2002), Fighting Hard Core Cartels: Harm, Effective Sanctions and Leniency Programmes, p. 7, trên https://
www.oecd.org/competition/cartels/1841891.pdf, truy cập ngày 15/03/2017.
7 OECD, tlđd, trang 8.
8 U.S. Department of Justice (1993), Corporate leniency policy, trên https://www.justice.gov/atr/corporate-leniency-
policy, truy cập ngày 15/03/2017.
9 N. Gregory Mankiw (2009), Principles of Economics, 6th Edition, South-Western, Cengage Learning, p. 349
10 N. Gregory Mankiw, tlđd, trang 355.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 11(339) T6/2017
- Nếu cả hai tù nhân tố cáo lẫn nhau,
mỗi người sẽ bị phạt tù 5 năm.
- Nếu cả hai cùng im lặng, việc truy tố
sẽ rất khó khăn, vì vậy các tù nhân có quyền
được bào chữa và mong đợi mức phạt tù tối
đa là 2 năm.
- Mặt khác, nếu một tù nhân tố cáo và
người còn lại thì không, người tố cáo sẽ chỉ
bị 1 năm tù giam, trong khi người kia thì sẽ
bị phạt tù 10 năm.
Ma trận của tình thế lưỡng nan này có
thể được biểu diễn thông qua bảng sau đây:
B
A
TỐ CÁO KHÔNG
TỐ CÁO
5
5
10
1
KHÔNG
1
10
2
2
Trong mỗi ô trên bảng, góc trên bên
phải là hình phạt tù dành cho tù nhân B, còn
góc dưới bên trái là hình phạt tù dành cho tù
nhân A.
Nhìn vào ma trận, ta thấy lựa chọn tối
ưu cho cả hai tù nhân A và B đó là cùng im
lặng, không tố cáo lẫn nhau. Kết quả của lựa
chọn này đó là, tối đa cả hai chỉ bị 2 năm tù.
Đi vào cụ thể hơn, có thể bắt đầu bằng lựa
chọn của tù nhân A. Rõ ràng, A biết kết quả
ở góc dưới cùng bên phải (cả hai tù nhân
cùng im lặng) là lựa chọn tối ưu. Nhưng vấn
đề là, hai tù nhân đang bị giam ở hai phòng
khác nhau, không có cách gì liên lạc với
nhau được. Cho nên, sẽ là rất rủi ro nếu A
lựa chọn phương án không tố cáo, trong khi
B lại tố cáo A. Kết quả trong trường hợp này,
A sẽ phải chịu 10 năm tù giam.
Chiến lược không tố cáo, về mặt kinh
tế học được xác định là chiến lược bị áp đảo
(dominated strategy) . Đây là một chiến lược
mang tính thụ động. Vì với lựa chọn không
tố cáo, tù nhân A không thể kiểm soát được
kết quả của lựa chọn, mà kết quả này phụ
thuộc vào lựa chọn của tù nhân B.
Nếu tù nhân A lựa chọn chiến lược tố
cáo, chiến lược này được coi là chiến lược
áp đảo (dominate strategy) . Hãy hình dung
khi A tiến hành tố cáo, kết quả của lựa chọn
này là nếu tù nhân B không tố cáo, thì A chỉ
bị một năm tù giam. Trong trường hợp xấu
nhất B cũng tố cáo, thì A cũng chỉ bị giam tối
đa là 5 năm. So sánh giữa chiến lược áp đảo
và chiến lược bị áp đảo, thì chiến lược áp
đảo là chiến lược tối ưu cho A. Vì nếu chiến
lược áp đảo thành công, A sẽ chỉ bị giam 1
năm. Trong khi đó, nếu lựa chọn chiến lược
thụ động thì ngay cả khi đạt được kết quả
tối ưu (ô dưới cùng bên phải), A vẫn bị giam
giữ 2 năm. Trong khi đó, rủi ro trong chiến
lược áp đảo được giới hạn ở 5 năm tù, so với
chiến lược bị áp đảo là 10 năm tù.
Từ đó, có thể thấy, chiến lược áp đảo
là lựa chọn tối ưu cho các tù nhân trong tình
thế lưỡng nan.
2.2. Ứng dụng của lý thuyết trò chơi vào
việc xây dựng chính sách khoan hồng
trong pháp luật cạnh tranh
Khi giam giữ các tù nhân ở hai phòng
giam riêng biệt, cơ quan điều tra mong muốn
tù nhân hợp tác với họ trong quá trình điều
tra thông qua việc để cho tù nhân tự nhận
thức rằng chiến lược áp đảo là chiến lược tối
ưu cho lợi ích của họ. Để các doanh nghiệp
trong một thỏa thuận hợp tác với cơ quan
cạnh tranh trong quá trình điều tra một thỏa
thuận HCCT cũng tương tự như việc khiến
các tù nhân trong tình thế lưỡng nan lựa chọn
11 Robert Gibbons (1992), Game Theory for Applied Economists, Princeton University Press, p. 4.
12 Robert Gibbons, tlđd, tr. 4.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 11(339) T6/2017
chiến lược áp đảo. Muốn vậy, nguyên lý căn
bản mà pháp luật cạnh tranh phải ưu tiên đó
là tạo ra một nguy cơ để doanh nghiệp phải
lo lắng nếu doanh nghiệp không tự nguyện
hợp tác với cơ quan cạnh tranh.
Mặt khác, như trên đã phân tích, chiến
lược áp đảo là lựa chọn tối ưu của các doanh
nghiệp. Nhưng nếu trong trường hợp lợi ích
của việc tuân thủ các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh là quá lớn so với nguy cơ bị xử
lý và nếu các doanh nghiệp có thời gian để
trao đổi thông tin và đưa ra phương án ứng
phó, tình hình có thể khác đi. Bởi giả định
của tình thế lưỡng nan là các tù nhân bị giam
ở các phòng giam khác nhau và không thể
liên lạc với nhau được. Nhưng đối với các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên thực tế,
các doanh nghiệp vẫn dễ dàng trao đổi thông
tin với nhau. Cho nên, để chính sách khoan
hồng phát huy tác dụng, nhất thiết phải tạo ra
một “cuộc đua” giữa các doanh nghiệp nhằm
tranh giành sự khoan hồng của pháp luật.
Việc một doanh nghiệp phản bội các
doanh nghiệp khác thông qua việc hợp tác
và cung cấp thông tin cho cơ quan cạnh
tranh xử lý các doanh nghiệp còn lại, doanh
nghiệp hoặc các cá nhân có liên quan này có
thể đứng trước nguy cơ bị trả thù/ trả đũa.
Chính điều này sẽ tạo nên những trở ngại đối
với chương trình khoan hồng. Do đó, vấn đề
bảo đảm tính bí mật về thông tin của những
doanh nghiệp hoặc cá nhân cung cấp thông
tin phải là một phần nội dung trong chương
trình khoan hồng.
Khía cạnh cuối cùng khi ứng dụng
lý thuyết trò chơi vào trong việc xây dựng
chính sách khoan hồng chính là tính khó
dự đoán trong lựa chọn hành động của đối
phương. Chẳng hạn, trong tình thế lưỡng
nan, chỉ có hai người chơi nên một tù nhân
chỉ có hai lựa chọn là tố cáo hoặc không tố
cáo. Bằng thói quen, mối quan hệ giữa hai
bên trong quá khứ và những yếu tố bổ trợ
khác, xác suất để tù nhân có thể dự đoán lựa
chọn của tù nhân còn lại ngay cả khi không
thể liên lạc với nhau được vẫn là rất cao.
Nhưng khi cuộc chơi có nhiều người hơn,
chẳng hạn 3, 4 hoặc nhiều hơn, khả năng dự
đoán giảm đi. Đồng thời, nó làm tăng nguy
cơ bị tố cáo. Vì vậy, lựa chọn an toàn là chọn
chiến lược tố cáo.
Như đã phân tích ở phần trên, trong
những thị trường tồn tại nhiều doanh nghiệp,
khả năng xảy ra các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh rất thấp. Cho nên, pháp luật cạnh tranh
cần phải có cách thức để mặc dù số lượng
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận không
cao, nhưng làm cho lựa chọn của họ khó dự
đoán hành động của các bên còn lại. Việc
dành quyền khai báo cho người lãnh đạo và
người lao động trong doanh nghiệp được coi
như là một trong những cách để làm cho lựa
chọn nên cân nhắc13.
3. Trở ngại của chính sách khoan hồng
trong thực tiễn
Như trên đã đề cập, lựa chọn chiến
lược của tù nhân trong tình thế lưỡng nan
là chiến lược áp đảo, tức là khuynh hướng
phá vỡ thỏa thuận, bất kể hành xử của người
chơi còn lại là gì. Tuy vậy, nhìn từ góc độ
của lý thuyết trò chơi, cách hành xử của các
bên sẽ thay đổi dựa vào “cuộc chơi” là cuộc
chơi một lần hay cuộc chơi lặp lại. Như vậy,
trong lần chơi thứ nhất, giả định A phản bội
bằng cách khai báo với cơ quan điều tra. Kết
quả là A sẽ bị 1 năm tù và B bị 10 năm tù.
Nếu cuộc chơi được lặp lại, B sẽ có hành vi
trả đũa bằng việc sẽ tố cáo A. Trong trường
hợp này, lựa chọn chiến lược của cả hai sẽ là
chiến lược áp đảo, tức là cả hai sẽ tố cáo lẫn
nhau. Kết quả của lựa chọn này sẽ là ô trên
cùng bên trái (mỗi người đều 5 năm tù).
13 U.S. Department of Justice (1994), Leniency policy for individuals, trên https://www.justice.gov/atr/corporate-lenien-
cy-policy, truy cập ngày 15/03/2017.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
36 Số 11(339) T6/2017
14 Scott D. Hammond, The Evolution of Criminal Antitrust Enforcement Over the Last Two Decades, p. 3, phát biểu tại
Hội nghị thường niên lần thứ 24 về Tội phạm có chức vụ, nguồn: https://www.justice.gov/atr/file/518241/download,
truy cập ngày 15/03/2017.
15 Theo quy định tại khoản 1 điều 118 Luật cạnh tranh 2004 đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, cơ quan có thẩm quyền xử
phạt có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực
hiện hành vi vi phạm.
Như vậy, so với việc hợp tác với kết
quả tối ưu là cả hai sẽ chỉ bị 2 năm tù, thì kết
quả của việc tố cáo và trả đũa sẽ dẫn đến kết
cục tệ cho cả hai khi tù nhân A và B đều cùng
bị 5 năm tù giam. Cho nên, khi đứng trước
việc bị phát hiện việc gian lận thỏa thuận và
đứng trước nguy cơ trả đũa, hay hơn hết là
ngay từ đầu nên tuân thủ thỏa thuận, tức là
không tố cáo với cơ quan điều tra.
Ứng dụng vào trong việc ban hành
chính sách khoan hồng, cần phải thấy hoạt
động của các doanh nghiệp trong một ngành
luôn mang tính ổn định và lâu dài. Cho nên,
việc tố cáo doanh nghiệp khác vi phạm
pháp luật cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ phải
đối diện việc trả đũa bởi các doanh nghiệp
khác hoặc những hình thức tẩy chay trong
ngành. Kết cục này làm cho chiến lược áp
đảo không còn là chiến lược tối ưu trong trò
chơi lặp lại.
4. Điều kiện cho việc áp dụng thành công
chính sách khoan hồng tại Việt Nam
Có thể nói, nguyên lý cơ bản nhất của
chính sách khoan hồng là sự mâu thuẫn giữa
lợi ích cục bộ của doanh nghiệp với lợi ích
chung của toàn bộ các doanh nghiệp khi giữ
vững cam kết, không phá vỡ thỏa thuận.
Lợi ích của khoan hồng, chính là được miễn
hoặc giảm chế tài khi tự nguyện hợp tác
so với nguy cơ bị cơ quan nhà nước phát
hiện. Bản chất của chính sách khoan hồng
chính là áp dụng chiến lược “cây gậy và củ
cà rốt”. Cho nên một khi chế tài không đủ
mạnh, doanh nghiệp không có động cơ để
khai báo để xin khoan hồng và ân xá. Ba
nền tảng quan trọng cần phải thực hiện để
nhằm bảo đảm sự thành công của chính sách
khoan hồng được xác định là:
- Thứ nhất, pháp luật chống độc quyền
phải đưa ra những chế tài nghiêm khắc đối
với các doanh nghiệp tham gia vào các hành
vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm
trọng và không tự khai báo;
- Thứ hai, các doanh nghiệp phải nhận
thức được nguy cơ cao về việc phát hiện bởi
cơ quan chống độc quyền nếu họ không tự
khai báo;
- Thứ ba, phải có tính minh bạch và
khả năng dự đoán được trong phạm vi rộng
nhất có thể trong suốt chương trình thực thi
pháp luật chống các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, để các công ty có thể tiên đoán với
mức độ chắc chắn cao về cách họ sẽ được
đối xử như thế nào nếu họ tìm kiếm sự
khoan hồng, và hậu quả sẽ ra sao nếu không
hợp tác14.
Bên cạnh đó, để chính sách khoan
hồng trong Dự thảo có tính khả thi, cần thiết
phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Việc áp dụng quy định về chế tài
phải nghiêm khắc tương ứng với hành vi
vi phạm và hậu quả mà hành vi mang lại.
Theo quy định tại khoản 1 điều 94 Dự
thảo, “mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi
phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
vị trí độc quyền là 10% tổng doanh thu của
doanh nghiệp vi phạm trong năm tài chính
trước năm thực hiện hành vi vi phạm”.
Mức phạt trên là rất nghiêm khắc. Tuy
vậy, nếu nhìn từ góc độ lịch sử áp dụng chế
tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam, có thể thấy mức phạt còn chưa
thống nhất và quá nhẹ so với quy định về
mức phạt và hậu quả mà hành vi mang lại15.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
37Số 11(339) T6/2017
Cụ thể, trong giai đoạn từ 2006 - 2016, cơ
quan chức năng chỉ mới xử lý được 5 vụ
việc hạn chế cạnh tranh16. Trong đó:
- Quyết định số 07⁄QĐ-HĐCT ngày 02
tháng 3 năm 2009 xử lý hành vi lạm dụng vị
trí độc quyền liên quan đến Vinapco: 3,378
tỷ đồng về các hành vi vi phạm và 100 triệu
đồng phí xử lý vụ việc17.
- Ngày 29 tháng 7 năm 2010, Hội đồng
Cạnh tranh đã tuyên bố quyết định phạt tiền
vụ 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa
thuận ấn định giá với tổng số tiền phạt và
tiền phí là 1.807.000.000 đồng18.
- Trong vụ việc 12 doanh nghiệp bảo
hiểm thỏa thuận ấn định giá, các doanh
nghiệp bảo hiểm vi phạm pháp luật cạnh
tranh nêu trên phải chịu phí xử lý vụ việc
cạnh tranh 100.000.000 đồng, đã nộp vào
Kho bạc nhà nước19.
- Sự nhất quán và tính minh bạch
của chính sách khoan hồng
Sự nhất quán và minh bạch của việc
thực thi chính sách khoan hồng là một trong
những yếu tố quan trọng cho sự thành công
của chính sách này. Sự nhất quán được hiểu
là việc áp dụng chính sách này phải mang
tính chắc chắn và có thể dự đoán được. Bản
chất của việc tố cáo là nhằm bảo đảm rằng:
(i) Doanh nghiệp sẽ được hưởng
khoan hồng, nếu đáp ứng các điều kiện pháp
luật quy định;
(ii) Các doanh nghiệp còn lại sẽ bị
phạt theo đúng mức độ nghiêm khắc mà
pháp luật quy định.
Kết hợp với yêu cầu thứ nhất về mức
phạt thật nghiêm khắc, tính nhất quán làm
cho nguy cơ mà doanh nghiệp không tham
gia chính sách khoan hồng ngày càng cao.
- Vai trò thực sự độc lập của cơ quan
cạnh tranh
So với Luật cạnh tranh 2004, cơ quan
thực thi pháp luật kiểm soát hành vi HCCT đã
thay đổi quan trọng. Theo đó, Ủy ban Cạnh
tranh Quốc gia là cơ quan nhà nước thuộc
Chính phủ và do Chính phủ thành lập, thực
hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh; giám
sát các hoạt động cạnh tranh trên thị trường;
tiến hành điều tra, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về cạnh tranh20. Việc nâng cấp Cục
Quản lý cạnh tranh từ một Cục thuộc Bộ
Công thương21 và gộp chung Hội đồng cạnh
tranh thành Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là
một thay đổi hợp lý, nhằm bảo đảm tính độc
lập và tính nhất quán trong hoạt động điều
tra và xử lý vi phạm về HCCT. Tuy nhiên,
trong quá trình xử lý các hành vi HCCT, nếu
Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia không bảo đảm
được tính độc lập của mình, các quyết định
đưa ra không nghiêm khắc và nhất quán, thì
khía cạnh răn đe của chính sách khoan hồng
sẽ khó phát huy trên thực tế
16 Số liệu được lấy từ Báo cáo hoạt động thường niên 2014, tr. 12, Báo cáo hoạt động thường niên 2015, tr. 9 và Báo
cáo hoạt động thường niên 2016, tr. 8 – 9. Các Báo cáo này có thể tải về từ website của Cục Quản lý cạnh tranh http://
www.vca.gov.vn/Bublications.aspx?CateID=18 , truy cập ngày 08/04/2017.
17 Nguồn: truy cập ngày 12/04/2017.
18 Nguồn: truy cập ngày 12/04/2017.
19 Nguồn: truy cập ngày
12/04/2017.
20 Khoản 1 Điều 41 Dự thảo.
21 Điều 1 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP và Điều 1 Quyết định số 848/QĐ-BCT của Bộ Công thương quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
38 Số 11(339) T6/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_khoan_hong_trong_du_thao_luat_canh_tranh_nhin_tu.pdf