Các chính sách của một dự án luật, sau khi
được thẩm tra, và thông qua tại Quốc hội và
đưa vào chương trình làm luật sẽ trở thành
khung chính sách của dự thảo văn bản luật. Nhà
soạn thảo có trách nhiệm quy phạm hóa khung
chính sách, tạo nên hệ thống, bao gồm các quy
định phản ánh đúng những chính sách đã được
phê duyệt và những quy định pháp lý đảm bảo
thực thi những chính sách này. Đây chính là
giai đoạn soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
dựa trên chính sách PLTHAHS được phê duyệt
tại giai đoạn đề nghị xây dựng luật.
Sau khi chính sách/giải pháp chính sách
PLTHAHS được chuyển tải thành các điều luật,
dự thảo luật được hoàn tất. Bước tiếp, cần phải
thực hiện là tham vấn/lấy ý kiến về những điều
luật phản ánh chính sách/giải pháp chính sách
của dự thảo luật THAHS.
Thẩm định dự thảo luật, nhằm đánh giá về
tính tương thích giữa chính sách/giải pháp
chính sách PLTHAHS đã được phê duyệt với
các điều luật của dự thảo luật THAHS.
Thẩm tra dự thảo luật THAHS, nhằm đảm
bảo rằng chính sách/giải pháp chính sách
PLTHAHS được phán ánh đúng với mong đợi
của các cơ quan Quốc hội như tại thời điểm phê
duyệt chính sách/giải pháp chính sách, phù hợp
với lợi ích chung của của quốc gia, ngành/lĩnh
vực, cũng như các điều kiện đảm bảo thực thi
luật.
Thứ ba, thông qua dự thảo luật
Thảo luận và thông qua dự thảo luật
THAHS, nhằm tập trung vào những quan điểm
và ý kiến khác biệt của các đại biểu về các vấn
đề liên quan tới chính sách PLTHAHS/giải
pháp chính sách PLTHAHS được thể hiện tại
dự thảo luật THAHS từ góc độ lợi ích của cử
tri.
19 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách pháp luật thi hành án hình sự - Một số vấn đề lí luận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình sự hóa, phi hình
sự và tội phạm hóa, phi tội hóa mà kết quả là
danh mục về tội phạm và hình phạt được quy
định trong BLHS; Chính sách pháp luật TTHS
là định hướng về tổ chức đấu tranh, xử lý tội
phạm thì chính sách PLTHAHS là định hướng
cho việc hiện thực hóa trách nhiệm hình sự,
hiện thực hóa bản án có hiệu lực pháp luật của
tòa án trong thực tế. “cơ sở của thi hành án
chính là bản án có hiệu lực do Tòa án tuyên và
mục đích của thi hành án là hiện thực hóa bản
án”. Do vậy, mối quan hệ giữa chính sách
PLTHAHS với các bộ phận khác của chính
sách hình sự mang tính tất yếu, tương hỗ, bổ
sung cho nhau nhằm nâng cao hiệu quả đấu
tranh chống, phòng ngừa tội phạm.
Những trình bày trên đây cho thấy, chính
sách PLTHAHS không những là một bộ phận
của chính sách pháp luật mà còn là một bộ phận
của chính sách hình sự nhằm hướng tới mục
đích đấu tranh, phòng ngừa tội phạm một cách
có hiệu quả, cũng như bảo đảm để bản án của
tòa án trở thành hiện thực trong thực tế, bảo
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
37
đảm quyền con người, bảo đảm sự nghiêm
minh của pháp luật.
3.2. Phạm vi và cách thức thể hiện của chính
sách pháp luật thi hành án hình sự
a. Đặc điểm (1) nêu trên, khẳng định tính tất
yếu của chính sách PLTHAHS đối với quá trình
THAHS, là công cụ trực tiếp, chủ yếu, có hiệu
quả cao của nhà nước tác động đến quá trình
THAHS thì đặc điểm này sẽ làm rõ phạm vi,
lĩnh vực của chính sách PLTHAHS. Là một bộ
phận của chính sách hình sự, chính sách
PLTHAHS là sự nối tiếp của chính sách pháp
luật hình sự và chính sách pháp luật TTHS, làm
cho kết quả phán quyết về trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội được hiện thực hóa
trong đời sống, hướng tới mục đích đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. Tuy là một
bộ phận trong tổng thể của chính sách hình sự
nhưng xuất phát từ đặc điểm của THAHS nên
chính sách PLTHAHS có phạm vi, mức độ
cũng như ảnh hưởng đến các lĩnh vực không
giống với chính sách pháp luật hình sự và chính
sách pháp luật TTHS. Hoạt động thi hành án có
đặc điểm là hoạt động chấp hành trên cơ sở bản
án và quyết định của tòa án theo những thủ tục,
trình tự qui định của pháp luật. Mặt khác, hoạt
động thi hành án còn là một dạng quản lý nhà
nước trong lĩnh vực này mà đối tượng của nó
không phải chỉ là người phải chấp hành hình
phạt mà còn là các cơ quan thực thi và quản lý
trong lĩnh vực thi hành án hướng tới việc giáo
dục, cải tạo người phạm tội theo quan điểm
nhân đạo, nhân văn để họ trở thành người có
ích khi tái hòa nhập cộng đồng. Như vậy, hai
mặt của hoạt động THAHS nêu trên là những
lĩnh vực mà chính sách PLTHAHS điều chỉnh,
cụ thể, đó là những định hướng trong lĩnh vực
THAHS và định hướng trong lĩnh vực quản lý
THAHS. Hai lĩnh vực này có quan hệ hữu cơ
với nhau, có tác động qua lại với nhau và do đó
đỏi hỏi cần phải có mục tiêu thống nhất cũng
như cách thức tổ chức thực hiện khoa học thống
nhất. Về mối quan hệ này GS.TSKH Đào Trí
Úc nhận định “Hiệu quả và hiệu lực của thi
hành án cũng phụ thuộc vào sự liên hệ không
thể thiếu được của hoạt động đó với tòa án và
vai trò kiểm tra, theo dõi của tòa án đã tuyên
bản án có hiệu lực pháp luật đối với việc thi
hành bản án đó. Đây chính là mối quan hệ cần
thiết cần được xác lập đúng đắn trong quá trình
cải cách hoạt động thi hành án và quản lý thi
hành án ở nước ta.” [9, tr.381]. Vì vậy, những
định hướng về mục đích, mục tiêu; về cơ quan;
về cách thức tổ chức thực hiện quá trình
THAHS cần được xác định là một trong lĩnh
vực của chính sách PLTHAHS.
b. Cũng như các chính sách sử dụng pháp
luật khác, chính sách PLTHAHS được thể hiện
trong việc xây dựng, ban hành pháp luật; thông
qua quá trình tổ chức, thực thi pháp luật và phổ
biến, giáo dục PLTHAHS nhằm nâng cao ý
thức PLTHAHS trong nhân dân. Quan điểm
này được GS.TSKH Đào Trí Úc nêu ra khi bàn
luận về chính sách hình sự: “Pháp luật hình sự,
thực tiễn đấu tranh tội phạm hình sự, ý thức
pháp luật của nhân dân – đó là ba lĩnh vực quan
trọng của chính sách hình sự và căn cứ vào đó
để đánh giá hiệu quả và tác dụng của chính sách
đó” [10, tr.123]. Như vậy, chính sách
PLTHAHS, trước hết được quán triệt thông
quan hoạt động xây dựng pháp luật mà kết quả
việc ban hành các văn bản và quy phạm
PLTHAHS. Đây là sự thể hiện quan trọng nhất
của chính sách PLTHAHS, do nó truyền tải, thể
chế hóa được nội dung của chính sách
PLTHAHS thành các quy phạm pháp luật làm
cơ sở cho việc thực thi, áp dụng trong quá trình
THAHS. Đến lượt mình, việc THAHS đòi tư
tưởng, định hướng của chính sách PLTHAHS
cần được quán triệt để trong quá trình THAHS
đối với người chấp hành án; cơ quan, người có
thẩm quyền thi hành án và cơ quan, người quản
lý thi hành án cũng như đối với các chủ thể
khác có liên quan. “Suy cho cùng, pháp luật chỉ
phát huy được hiệu lực, chính sách và pháp luật
của Đảng và nhà nước chỉ có thể được thực
hiện khi pháp luật, đường lối, chính sách đó
được thể hiện trong hoạt động thực tế của bộ
máy nhà nước, trong đời sống hàng ngày, hàng
giờ của mọi công dân.”[10, tr.123]. Cũng chính
với lý do, bảo đảm cho chính sách PLTHAHS
được quán triệt đầy đủ trong quá trình THAHS
nên hoạt động phổ biến, giáo dục PLTHAHS
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
38
cần phải được tăng cường nhằm nâng cao ý
thức pháp luật cho nhân dân. Có như vậy, chính
sách PLTHAHS mới được quan triệt đầy đủ
trong đời sống xã hội, góp phần đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
3.3. Nội dung chủ yếu của chính sách pháp luật
thi hành án hình sự
Chính sách PLTHAHS là tư tưởng, quan
điểm, sách lược, chiến lược, đường hướng của
nhà nước trong sử dụng pháp luật đối với việc
THAHS nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy,
những định hướng trong việc sử dụng pháp luật
đối với THAHS là nội dung của chính sách
PLTHAHS, bao gồm những vấn đề sau:
a. Những định hướng về mục tiêu của thi
hành án hình sự
Mục tiêu của THAHS thì được coi yếu tố
nền tảng, quan trọng nhất chi phối các yếu tố
khác của quá trình THAHS. Mục tiêu nào sẽ đặt
ra những yêu cầu, đòi hỏi tương ứng cho các
hoạt động THAHS. Mục tiêu của THAHS là
điểm xuất phát để xác định chức năng, vị trí
và các mối quan hệ giữa các chủ thể của
THAHS, phương thức THAHS cũng như
trình tự, thủ tục THAHS “Mục tiêu của
chính sách PLTHAHS là một bộ phận cấu
thành của chính sách PLTHAHS và là một bộ
phận cấu thành của cây mục tiêu của chính
sách hình sự.” [6, tr.7] Vì vậy, nội dung quan
trọng đầu tiên của chính sách PLTHAHS là
xác định mục tiêu của THAHS.
Xuất phát từ đặc điểm THAHS là hoạt động
chấp hành, thực thi và quản lý THAHS cho nên
mục tiêu đầu tiên của chính sách PLTHAHS
hướng đến việc bảo đảm tính hiệu lực của bản
án được tòa án tuyên, làm cho bản án được thực
thi đầy đủ, toàn diện trên thực tế. Mục tiêu này
phản ánh bản chất của hoạt động THAHS, đồng
thời cũng là căn cứ quan trọng nhất để phân biệt
với chính sách pháp luật hình sự và chính sách
pháp luật TTHS.
Mục tiêu thứ hai của chính sách PLTHAHS
gắn liền với việc thực hiện mục đích của hình
phạt được xác định trong luật hình sự: “Hình
phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân
thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục
người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng
pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm” (Điều 31 năm BLHS 2015). Là hoạt
động thi hành hình phạt và các biện pháp cưỡng
chế hình sự khác do tòa án tuyên, THAHS có
mục tiêu bảo đảm để việc trừng trị, giáo dục
người phạm tội đúng với mục đích của hình
phạt đã đề ra của luật hình sự.
Hoạt động THAHS ảnh hưởng tới quyền
con người của người chấp hành án, do đó, bên
cạnh các mục tiêu nêu trên, thì việc bảo đảm
quyền con người của người chấp hành hành
được xác định là mục tiêu của chính sách
THAHS. Mục tiêu này phù hợp với cách tiếp
cận quyền trong lĩnh vực pháp luật, đồng thời
tương thích với các chuẩn mực quốc tế về
quyền con người trong các điều ước quốc tế mà
Việt Nam tham gia cũng như tinh thần của Hiến
pháp năm 2013.
b. Những định hướng trong việc thi hành án
hình sự
Tổ chức THAHS theo nghĩa rộng, bao gồm
việc thực thi, áp dụng PLTHAHS; quản lý
THAHS; kiểm soát THAHS, do đó, chính sách
PLTHAHS cần phải đề cập tất cả các nội dung
nêu này. Đối với việc thực thi, áp dụng
PLTHAHS, chính sách PLTHAHS đưa ra định
hướng đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ, nghiêm
chỉnh tất cả các quy định của pháp luật trong
quá trình THAHS của các cơ quan, người có
thẩm quyền THAHS và quản lý THAHS. Để
thực hiện định hướng này các nguyên tắc như:
bảo đảm pháp chế; phát hiện xử lý nghiêm
minh những vi phạm khi thực thi, áp dụng pháp
luật cần được thể hiện trong luật THAHS.
Trong quản lý THAHS, chính sách
PLTHAHS thường phải có định hướng về tính
hiệu quả, hiệu lực, tiết kiệm chi phí trong quản
lý THAHS bảo đảm cho hoạt động THAHS
được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Đồng thời, việc quản lý THAHS cũng hướng
tới việc phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp
thời mọi vi phạm trong quá trình THAHS,
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
39
thông qua đó có các hướng dẫn, uốn nắn bảo
đảm cho việc thực thi, áp dụng PLTHAHS
đúng đắn, hiệu quả.
Kiểm tra, giám sát THAHS là đòi hỏi mang
tính tất yếu khi hoặch định chiến lược THAHS,
do vậy, chính sách PLTHAHS cần đưa ra các
định hướng về cơ chế, phương thức, thể thức
kiểm tra, giám sát THAHS. Định hướng này đề
cập đến cơ chế kiểm tra, giám bên trong và bên
ngoài, trong đó cần chú trọng đến cơ chế kiểm
tra, giám sát trong nội bộ của hệ thống THAHS
(cơ chế tự kiểm tra, giám sát). Việc định hướng
cơ chế kiểm tra, giám sát THAHS phải đặt
trong mối quan hệ với các chính sách khác của
nhà nước, cũng như trong mối quan hệ với cách
thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, với
hệ thống các cơ quan nhà nước của quốc gia.
c. Những định hướng trong việc tổ chức các
cơ quan thực thi và quản lý thi hành án hình sự
Một trong những định hướng quan trọng
của chính sách PLTHAHS, đó là, nhà nước giao
cho cơ quan nào, mức độ đến đâu cũng như mối
quan hệ giữa các cơ quan thực thi, áp dụng và
quản lý THAHS. Những câu hỏi chỉ có thể giải
quyết được trên quan điểm tiếp cận tổng thể với
việc hoặch định vị trí, chức năng, thẩm quyền,
quyền hạn, trách nhiệm của hệ thống cơ quan
nhà nước. Hiện nay, ở nước ta đang có những
quan điểm khác nhau về vị trí của cơ quan thực
thi, áp dụng pháp luật trong THAHS, là cơ quan
tư pháp hay cơ quan hành pháp. Một số quan
điểm cho rằng đó là cơ quan tư pháp vì hoạt
động THAHS là một trong các hoạt động tư
pháp, là sự kế tiếp của hoạt động khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử trong quá trình truy cứu, áp
dụng và thực thi trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội và THAHS là “nốt nhạc” cuối
cùng của bản hòa tấu đó. Tuy nhiên, quan niệm
chung trên thế giới đều cho rằng, THAHS là
hoạt động thuộc nhánh quyền lực hành pháp, do
bản chất của THAHS là hoạt động thực thi pháp
luật. Gần đây, BLHS năm 2015 không còn
khẳng định chắc chắn hoạt động thi hành án là
hoạt động tư pháp như quy định của BLHS năm
19991 mà đã coi THAHS là một thực thể độc
lập với hoạt động tư pháp, hoạt động tố tụng khi
đưa ra khái niệm tội xâm phạm hoạt động tư
pháp: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là
những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt
động tố tụng và thi hành án” (Điều 367 BLHS
năm 2015). Quy định này mặc dù còn chưa rõ
ràng nhưng đã có cách tiếp cận gần với nhận
thức chung của nhân loại về hoạt động THAHS.
Như vậy, việc xác định vị trí, chức năng,
thẩm quyền của các cơ quan thi hành, quản lý
THAHS cũng như phương hướng hoạt động và
mối quan hệ gữa các cơ quan đó với nhau là nội
dung quan trọng trong chính sách PLTHAHS,
bảo đảm cho việc thi hành án đúng đắn, hiệu
lực, hiệu quả.
d. Những định hướng về điều kiện, thủ tục,
trình tự thi hành án hình sự
Các mục tiêu đề ra của chính sách
PLTHAHS được thể hiện trong những vần đề
về điều kiện, thủ tục, trình tự THAHS, do đó,
các nội dung này phản ánh tính chất và là căn
cứ để đánh giá thang giá trị PLTHAHS của một
quốc gia, nó ở bậc thang nào trong mối quan hệ
so sánh với pháp luật các quốc gia khác cũng
như đối với các chuẩn mực quốc tế được quy
định trong các điều ước quốc tế. Định hướng về
một thủ tục THAHS chặt chẽ, công khai, minh
bạch bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật,
khắc phục được hiện tượng lợi dụng, lạm
quyền, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của người chấp hành án cũng như
tạo nên sự tin tưởng của xã hội đối với việc
thực thi công lý là nội dung quan trọng của
chính sách PLTHAHS. Khi đưa ra định hướng
về thủ tục THAHS cần đặc biệt lưu ý tới tính
thống nhất với thủ tục TTHS cũng như với các
điều kiện, căn cứ của các loại hình phạt, biện
pháp tư pháp hình sự khác được quy định trong
BLHS. Suy cho cùng, THAHS là hoạt động
________
1 Điều 292 BLHS Năm 1999 quy định: “Các tội xâm
phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm
hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm
sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân.”
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
40
hiện thực hóa kết quả của quá trình tố tụng truy
cứu TNHS đối với người phạm tội trên cơ sở
quy định về tội phạm và hình phạt của BLHS,
do đó, cần có sự thống nhất này.
Ngoài ra, các định hướng về điều kiện, thủ
tục của chính sách PLTHAHS cũng cần phải
dựa trên và phù hợp với các chính sách kinh tế,
xã hội khác để bảo đảm tính đồng bộ và tạo ra
những điều kiện đảm bảo để các định hướng về
thủ tục THAHS được thực thi trong tế THAHS.
e. Định hướng về thi hành án hình sự cho
các đối tượng chấp hành án đặc biệt
Trong các điều ước quốc tế về quyền con
người, bên cạnh quy định thủ tục áp dụng
chung cho mọi đối tượng còn có các quy định
áp dụng đặc thù áp dụng cho các đối tượng yếu
thế, đối tượng đặc biệt khác trong THAHS
nhằm tạo cơ hội bình đẳng cho mọi đối tượng
chấp hành án trong việc tiếp cận quyền. Các
quốc gia có trách nhiệm nội hóa các chuẩn mực
này trong các chính sách và pháp luật của mình.
Các đối tượng chấp hành án đặc biệt được
xác định là pháp nhân thương mại, người dưới
18 tuổi, phụ nữ, người già, người khuyết tật,
người sử dụng chất ma túy, người nhiễm HIV
Do vậy, bên cạnh thủ tục THAHS chung những
đối tượng chấp hành án đặc biệt này cần có
những định hướng bổ sung căn cứ vào đặc điểm
của mỗi loại đối tượng. Định hướng của chính
sách PLTHAHS đối với các đối tượng đặc biệt
này đều phải dựa trên định hướng chung về
THAHS, nhưng có các định hướng bổ sung
(riêng biệt) cho từng loại đối tượng chấp hành
án nhằm bảo đảm cho việc THAHS được tiến
hành phù hợp cũng như bảo đảm cho việc
THAHS nghiêm chỉnh, đạt được mục tiêu của
chính sách PLTHAHS.
g. Định hướng bảo đảm quyền con người
của người chấp hành án trong quá trình thi
hành án hình sự
Phương pháp tiếp cận quyền trong việc
hoặc định chính sách, xây dựng, thực thi pháp
luật là xu thế tất yếu của thời đại, do đó, chính
sách PLTHAHS cần thể hiện định hướng tôn
trọng, ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền con
người của người chấp hành án. “Quyền con
người không chỉ là những tiêu chuẩn phổ quát
được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế, mà
còn là yếu tố trung tâm trong quá trình xây
dựng các chính sách” [11, tr.30]. Do vậy, chính
sách PLTHAHS cần khẳng định cách tiếp cận
quyền trong việc xây dựng và thực thi
PLTHAHS, cần bảo đảm sử dụng các chuẩn
mực và nguyên tắc về quyền con người trong
quá trình xây dựng, thực thi PLTHAHS; Phân
tích, đánh giá năng lực của các chủ thể liên
quan, nâng cao năng lực của chủ thể quyền là
người chấp hành án và tính chịu trách nhiệm
của các chủ thể thi hành, quản lý thi hánh án
với tư cách là chủ thể có nghĩa vụ thực hiện
quyền; Làm rõ mối quan hệ của các chủ thể này
trong THAHS trong việc thực hiện quyền một
cách công khai, minh bạch và không phân biệt
đối xử; Quan tâm đến nhóm dễ bị tổn thương
trong THAHS.
Định hướng này không chỉ đề cập đến điều
kiện, thủ tục THAHS mà còn chú ý đến các
điều kiện bảo đảm thực hiện quyền con người
của người chấp hành án, cũng như việc phát
hiện kịp thời, xử lý khách quan, công minh mọi
hành vi ngăn cản, xâm hại quyền con người của
người chấp hành án. Mặt khác, cũng cần khẳng
định, định hướng này không chỉ được thể hiện
trong việc xây dựng pháp luật mà còn được
quán triệt khi thực thi PLTHAHS, bảo đảm
định hướng này là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của cơ quan, người có thẩm quyền
THAHS trong quá trình THAHS.
h. Định hướng về hợp tác quốc tế trong thi
hành án hình sự
Dẫn độ tội phạm và chuyển giao người
phạm tội để chấp hành án hình sự là những hoạt
động hợp tác quốc tế liên quan đến quá trình
THAHS, do vậy, chính sách PLTHAHS cần có
những định hướng cho loại hoạt động này.
Trước hết, chính sách PLTHAHS cần khẳng
định việc nội luật hóa và thực thi đầy đủ các
quy định trong các điều ước quốc tế liên quan
THAHS mà quốc gia mình tham gia, đồng thời
cần có cơ chế thúc đẩy hợp tác quốc tế trong
quá trình THAHS. Hình thành các tổ chức, cơ
quan là đầu mối của hợp tác quốc tế trong
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
41
THAHS, phối hợp các cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan thực hiện các hoạt động hợp tác
trong THAHS một cách có hiệu quả trên cơ sở
bảo đảm chủ quyền quốc gia.
i. Định hướng trong việc xã hội hóa hoạt
động thi hành án hình sự
Nhà nước kiến tạo đã làm thay đổi căn bản
quan niệm truyền thống về một bộ máy cai trị,
quản lý là thuộc tính bao trùm của nhà nước
đang là xu thế của thời đại. Do đó, dịch vụ công
đã phát triển đến mọi lĩnh vực, vốn dĩ trước kia
là độc quyền của nhà nước, trong đó có dịch vụ
công đối với THAHS. Phần nhiều các nước trên
thế giới chuyển giao cho tư nhân, cho các tổ
chức xã hội đảm nhiệm những công việc của
hoạt động THAHS, ngay cả đối việc quản lý,
giáo dục phạm nhân trong các nhà tù. Việc xã
hội hoạt động THAHS đã dẫn đến kết quả quản
lý, giáo dục người phạm tội có hiệu quả với chi
phí ít tốn kém hơn do cách quản lý, điều hành
của các chủ thể phi nhà nước tiết kiệm, năng
suất hơn bộ máy công quyền cồng kềnh, kém
hiệu quả và một phần kinh phí do chính bản
thân người chấp hành án hoặc gia đình, người
thân của họ đóng góp nên ngân sách chi cho
hoạt động THAHS của nhà nước đã được giảm
thiểu tối đa. Mặt khác, việc xã hội hóa THAHS
còn tạo ra môi trường thân thiện trong hoạt
động thi hành án là tiền đề để thực hiện chính
sách tái hòa nhập cộng đồng cũng như hình
thành nền tư pháp phục hồi - Một lĩnh vực khá
mới mẻ, lạ lẫm ở Việt Nam nhưng đã khá quen
thuộc ở nhiều nước trên thế giới.
Vì vậy, chính sách PLTHAHS cần định
hướng có hay không xã hội hóa hoạt động
THAHS, xã hội hóa đến đâu, ở những khâu
nào và nhằm đạt đến mục tiêu nào trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà
nước kiến tạo.
k. Định hướng về tái hòa nhập của người
phạm tội trong quá trình thi hành án hình sự
Giáo dục cải tạo người phạm tội để họ trở
thành người có ích cho xã hội là một trong hai
mục đích của hình phạt, đồng thời cũng là mục
tiêu hướng tới của hoạt động thi hành án. Do
đó, mức độ tái hòa nhập cộng đồng của người
phạm tội trên hai phương diện, tỷ lệ người
phạm tội tái hòa nhập cộng đồng cao hay thấp
và mức độ tái nhập ở mỗi cá nhân người phạm
tội nhiều hay ít, dễ dàng hay khó khăn là thước
đo sự thành công của chính sách PLTHAHS. Vì
vậy, với tính chất là chính sách tạo điều kiện để
người phạm tội có thể tái hòa nhập cộng đồng
sau khi chấp hành xong hình phạt thì chính
sách PLTHAHS cần có định hướng cho việc tái
hòa nhập cộng đồng của người phạm tội thuận
lợi, dễ dàng, nhanh chóng trở lại cuộc sống bình
thường, để ngoài việc nuôi sống bản thân họ có
thể có ích cho gia đình, người thân và đóng góp
cho xã hội.
n. Định hướng trong việc hoạch định các
điều kiện bảo đảm cho việc thực thiện pháp luật
thi hành án hình sự
Các điều kiện bảo đảm để chính sách
PLTHAHS trở thành hiện thực trong đời sống
xã hội là nội dung có tính thực tiễn cao. Không
có các điều kiện bảo đảm chính sách
PLTHAHS sẽ không thể được quán triệt khi
xây dựng pháp luật cũng như khi thực hiện
PLTHAHS, và do đó, chính sách sẽ trở nên
viển vông, không khả thi. Khi hoạch định các
điều kiện bảo đảm cho việc thực thiện
PLTHAHS cần căn cứ vào hoàn cảnh, trình độ
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước có thể
đáp ứng đến mức độ nào đối với các nội dung
của chính sách PLTHAHS.
Các điều kiện bảo đảm để chính sách
PLTHAHS bao gồm các bảo đảm về tài chính,
cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ cho quá
trình THAHS; các bảo đảm về nhân lực như: số
lượng, chất lượng cán bộ, trình độ, năng lực
chuyên môn cũng như sự lành nghề và đạo đức,
trách nhiệm nhề nghiệp của đối ngũ cán bộ
THAHS. Đồng thời, chính sách PLTHAHS
cũng cần phải có định hướng bảo đảm cho các
hoạt động nghiên cứu khoa học và đạo tạo cán
bộ trong lĩnh vực THAHS.
m. Định hướng trong việc phổ biến, giáo
dục, nâng cao ý thức pháp luật thi hành án hình
sự trong nhân dân
Phổ biến, giáo dục, nâng cao ý thức
PLTHAHS trong nhân dân là một trong ba bộ
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
42
phận của chính sách PLTHAHS, do vậy, sự
hiện diện của các định hướng về phổ biến, giáo
dục PLTHAHS là tất yếu để hướng tới nâng cao
ý thức pháp luật trong nhân dân. Tăng cường
các hoạt động phổ biến, giáo dục cho mọi tầng
lớp nhân dân nhất là đối với những người có
liên quan trực tiếp đến hoạt động THAHS bằng
các phương pháp linh hoạt, phù hợp với từng
đối tượng, hiệu quả, tiết kiệm là định hướng của
chính sách PLTHAHS.
Hoạt động, phổ biến giáo dục, pháp luật
không chỉ trang bị cho người dân về các quyền
và nghĩa vụ của người chấp hành án, về quyền
hạn, trách nhiệm của người, cơ quan có thẩm
quyền thi hành, quản lý THAHS mà thông qua
đó hình thành quan điểm, thái độ, tình cảm tích
cực đối với hoạt động THAHS với hệ thống
pháp luật THAHS và đối với các cơ quan thực
thi công lý trong THAHS. Nói cách khác, đó
quá trình hình thành nên ý thức pháp luật đúng
đắn trong nhân dân đối với quá trình THAHS.
4. Cơ sở hoạch định, xây dựng chính sách
pháp luật thi hành án hình sự
Chính sách PLTHAHS được xây dựng, ban
hành là sản phẩm trí tuệ, sự đúc rút quy luật vận
hành của thực trạng đời sống pháp luật và yêu
cầu của thực tiễn THAHS cũng như các điều
kiện bảo đảm và kinh nghiệm lịch sử, kinh
nghiệm quốc tế của chính sách PLTHAHS. Do
đó, chính sách PLTHAHS không phải được ban
hành một cách ngẫu nhiên, không có căn cứ mà
được dựa trên các cơ sơ khoa học, yêu cầu của
thực tiễn THAHS và đỏi hỏi của việc phát triển
đất nước, sự ổn định xã hội và củng cố hoàn
thiện nhà nước pháp quyền, bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người. Do đó, chính sách
PLTHAHS được xây dựng dựa trên các cơ sở
sau đây:
4.1. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn thi hành
án hình sự
Chính sách PLTHAHS là định hướng cho
hoạt động THAHS, nó được hình thành từ thực
tiễn và giải quyết các yêu cầu của thực tiễn đặt
ra, do đó chính sách PLTHAHS phải xuất phát
từ chính thực tiễn THAHS. Thực tiễn THAHS
là đời sống pháp luật được vận hành tuân theo
các quy luật khách quan, phản ánh đặc điểm và
trình độ THAHS cũng như thái độ của các chủ
thể thi hành, quản lý THAHS và mức độ bảo
đảm quyền, lợi ích của chủ thể chấp hành án.
Thực tiễn THAHS được thể hiện trên ba
phương diện phản ánh các phạm vi điều chỉnh
của chính sách PLTHAHS, đó là thực tiễn lập
pháp, xây dựng, ban hành PLTHAHS; thực tiễn
thực thi và áp dụng PLTHAHS; và thực tiễn
phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật THAHS. GS.TSKH Lê Văn Cảm cho
rằng thực tiễn xây dựng, thực thi PLTHAHS là
quan trọng, đầu tiên trong các cơ sở cần phải
căn cứ vào khi xây dựng chính sách PLTHAHS
“Trên cơ sở tổng kết thực tiễn lập pháp và áp
dụng PLTHAHS quốc gia, đồng thời tham khảo
kinh nghiệm lập pháp THAHS và những thành
tựu lý luận của các nhà nước pháp quyền trên
thế giới, phân tích tính quyết định xã hội của
các quan hệ xã hội đang và sẽ hình thành trong
điều kiện cụ thể của Việt Nam để lý giải và đưa
ra những luận cứ khoa học khách quan, bảo
đảm tính chính xác về khoa học và phù hợp với
thực tiễn cho việc triển khai các định hướng chủ
yếu của việc hoạch định chính sách PLTHAHS
của đất nước.” [1, tr.329]
Thông qua thực tiễn PLTHAHS giúp nhận
thức khách quan, đầy đủ về hệ thống
PLTHAHS, về thực thi, áp dụng PLTHAHS, về
ý thức PLTHAHS trong nhân dân. Đồng thời,
thực tiễn THAHS cũng đánh giá được nhưng
thành công, hạn chế cũng như nguyên nhân của
thực tiễn đó và các nhu cầu, đòi hỏi của thực
tiễn đối với quá trình xây dựng chính sách
PLTHAHS. Nói cách khác, chính sách
PLTHAHS phải phản ánh và định hướng được
thực tiễn THAHS, phải đưa đời sống THAHS
vào chính sách cũng như làm cho chính sách
phát huy hiệu quả trong thực tiễn THAHS, đó là
hai mặt cần phải có trong chính sách
PLTHAHS.
4.2. Dựa vào các kết quả nghiên cứu về chính
sách thi hành án hình sự
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
43
Khẳng định vai trò của nghiên cứu khoa
học trong hoạch định và thực thi chính sách
PLTHAHS, GS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng:
“Học thuyết về THAHS là sản phẩm khoa học
của THAHS, là sản phẩm trí tuệ, do vậy, cần
phải khẳng định đúng vai trò của khoa học
THAHS trong xây dựng và thực hiện chính
sách PLTHAHS” [6, tr.20]. Chia sẻ quan điểm
này, khi đề cập đến cơ sở của việc hoạch định
chính sách hình sự, TS Phạm Văn Lợi nhận
định rằng những luận chứng khoa học là kết
quả nghiên cứu lý luận được tổng hợp, khái
quát và soạn thảo trên cơ sở phân tích các
nguyên nhân, điều kiện và tình trạng phạm tội
trong đất nước, cũng như các quy định của pháp
luật hình sự, TTHS và THAHS Việt Nam, thực
tiễn áp dụng chúng và các luận điểm, thành tựu
khoa học pháp lý về tư pháp hình sự quốc gia
với sự tham kham khảo thành tựu tiên tiến của
khoa học pháp lý về tư pháp hình sự của các
nước [3] là một trong các cơ sở để xây dựng các
chính sách pháp luật trong lĩnh vực Tư pháp
hình sự, trong đó có chính sách PLTHAHS.
Sản phẩn của các nghiên cứu khoa học về
chính sách PLTHAHS không những chỉ ra các
căn cứ, điều kiện, nội dung, hình thức thể hiện
của chính sách PLTHAHS mà còn hình thành
các các quy luật vận động của quá trình
THAHS trong đời sống gắn liền với các phạm
trù kinh tế, xã hội, pháp luật, đạo đức, tâm lý
trong hoàn cảnh lịch sử nhất định. Vì vậy, khoa
học thi hành án hình sự có khả năng dự báo
được xu hướng phát triển bảo đảm cho việc xây
dựng chính sách PLTHAHS có căn cứ và phù
hợp với quy luật phát triển của xã hội, làm cho
chính sách pháp luật THAHS không bị lỗi thời
mà có tính thực tiễn cao.
Việc nghiên cứu khoa học THAHS cần
được tổ chức một cách bài bản, hệ thống bao
gồm các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng
dụng hướng tới hình thành hệ thống lý thuyết
về THAHS là cơ sở cho việc xây dựng, thực thi
chính sách PLTHAHS. Cần phải đa dạng trong
nghiên cứu khoa học về THAHS, tôn trọng mọi
khuynh hướng, cách tiếp cận trong nghiên cứu
và đặc biệt phải tôn trọng và bảo đảm tính độc
lập, sự tự do học thuật khi nghiên cứu khoa học
của các nhà nghiên cứu. Hệ thống đề tài nghiên
cứu cần xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của thực
tiễn THAHS, giải quyết những vấn đề thực tiễn
THAHS đang đặt ra, bảo đảm tính hiện thực khi
đưa ra các kết quả nghiên cứu.
Như vậy, kết quả nghiên cứu khoa học có
vai trò quan trọng khi hoạch định, thực thi
chính sách PLTHAHS, là kim chỉ nam cho các
hoạt động lập pháp, thực thi pháp luật và kiểm
soát thực thi PLTHAHS.
4.3. Dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ của
nhân loại và kinh nghiệm thế giới
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu hướng
thời đại và là chủ trương lớn của Đảng, nhà
nước ta trong giai đoạn phát triển đất nước hiện
nay, do đó, chính sách PLTHAHS cần thể hiện
các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại cũng
như đúc rút các kinh nghiệm quốc tế mà chúng
ta có thể tiếp thu trong quá trình xây dựng, thực
thi chính sách PLTHAHS.
Những tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân
loại được thừa nhận rộng rãi ngày nay, đó là các
tư tưởng: khách quan, công bằng, dân chủ, pháp
chế, nhân đạo, bảo đảm quyền con người, bảo
vệ công lý và những tư tưởng pháp lý tiến bộ
khác cần được tiếp thu khi hoạch định chính
sách PLTHAHS. Những tư tưởng pháp lý tiến
bộ này không những bảo đảm cho các mục
tiêu của THAHS đạt được mà còn giúp cho
người chấp chấp hành án có điều kiện tái hòa
nhập cộng đồng, để họ trở thành người có tích
cho xã hội.
Mỗi quốc gia với những đặc điểm, điều
kiện riêng của mình khi xây dựng, thực thi
chính sách PLTHAHS nên sẽ có các mô hình,
cách thức THAHS khác nhau với hiệu quả ở
những mức độ khác nhau. Vì vậy, sự thành
công hay thất bại của các mô hình THAHS trên
thế giới đều là bài học quí để chúng ta rút kinh
nghiệm khi xây dựng, thực thi chính sách
PLTHAHS. Học hỏi kinh nghiệm quốc tế cần
có sự phân tích đầy đủ, khách quan dựa trên cơ
sở lý thuyết của luật học so sánh, xem xét, đánh
giá chính sách PLTHAHS cần đặt trong tổng
thể điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị khi nó ra
đời ở mỗi quốc gia. Chỉ có tiến hành như vậy,
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
44
bài học rút ra mới bảo đảm độ tin cậy khi hoạch
định, xây dựng chính sách PLTHAHS.
4.4. Dựa trên các giá trị truyền thống pháp lý
của dân tộc, đất nước
Bài học lịch sử, kinh nghiệm, giá trị
truyền thống pháp lý của dân tộc, đất nước
không những có tác động trực tiếp mà còn thể
hiện sự kế thừa tư tư tưởng pháp lý của cha
ông, đồng thời cũng làm cho chính sách
PLTHAHS giàu tính nhân văn, dễ thực thi trong
đời sống.
Chính sách PLTHAHS ở những thời kỳ lịch
sử gắn liền với các vương triều, chế độ khác
nhau, nhưng đều cho chúng ta những bài học
sâu sắc có thể tiếp thu trong qua trình hoạch
định, thực thi chính sách PLTHAHS ngày nay.
Tuy nhiên, áp dụng kinh nghiệm, giá trị truyền
thống pháp lý của dân tộc cần lưu ý phải bảo
đảm sự tương thích với các tư tưởng pháp lý
tiến bộ của nhân loại và phù hợp với điều
kiện thực tế đương đại. Cần kết hợp hài hòa
nhu cầu của thực tiễn, điều kiện của hiện tại
với giá trị pháp lý truyền thống của dân tộc và
với các tư tưởng pháp lý tiến bộ khi hoạch
định chính sách PLTHAHS.
4.5. Dựa trên cơ sở đánh giá tác động của
chính sách pháp luật thi hành án hình sự khi nó
được xây dựng, ban hành
Đánh giá tác động của chính sách
PLTHAHS là đòi hỏi có tính chất bắt buộc của
quá trình xây dựng chính sách PLTHAHS,
thông qua hoạt động này người ta có thể xác
định được tính hiệu quả của chính sách khi
được ban hành cũng như các tác động, ảnh
hưởng của chính sách đến mức độ nào, theo
chiều hướng tích cực hay tiêu cực.
Ngoài việc đánh giá tác động, khi xây dựng
chính sách PLTHAHS, người ta còn chú ý đến
vấn đề chi phí cho các hoạt động được đưa ra
trong nội dung chính sách, nói cách khác đó là
hiệu quả về nguồn lực. Để cùng đạt đến mục
đích của các hoạt động như nhau người ta sẽ lựa
chọn phương án chi phí thấp nhất của xã hội,
cho dù đó là nguồn lực, tài chính thuộc về nhà
nước hay của các thành phần phi nhà nước.
Việc đánh giá tác động chính xác, khách
quan, khoa học các tác động và hiệu quả khi
chính sách PLTHAHS được ban hành không
những bảo đảm cho chính sách phù hợp, giải
quyết được những vấn đề thực tiễn THAHS đặt
ra mà còn lường trước được các khó khăn, rủi
ro và dự liệu các biện pháp khắc phục trong quá
trình thi hành án hình sự, bảo đảm để nhà nước
luôn luôn chủ động trong mọi tình huống.
4.6. Dựa vào nguồn lực, năng lực của các điều
kiện bảo đảm thực thi chính sách thi hành án
hình sự
Chính sách PLTHAHS chỉ có thể đi vào đời
sống khi thỏa mãn các điều kiện bảo đảm thi
hành. Vì vậy, khi hoạch định chính sách
PLTHAHS cần khảo sát, đánh giá chính xác,
đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng, các điều kiện bảo
đảm thi hành chính sách PLTHAHS. Các điều
kiện bảo đảm thi hành chính sách PLTHAHS
đó là nguồn lực về tài chính, con người; cơ sở
vật chất, trang thiết bị; là năng lực, kinh
nghiệm hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền thi hành, quản lý THAHS; là năng lực,
trình độ, phẩm chất, đạo đức, thái độ, trách
nhiệm của người có thẩm quyền thi hành,
quản lý thi hành án
Khi hoạch định chính sách PLTHAHS cần
phải dựa trên các yếu tố này, nếu không chính
sách đó sẽ xa rời thực tế, thiếu tính khả thi,
không bảo đảm được tính hiệu quả của chính
sách được ban hành.
5. Chủ thể, các hình thức thể hiện và quy
trình xây dựng chính sách pháp luật thi
hành án hình sự
5.1. Chủ thể hoạch định và các hình thức thể
hiện chính sách pháp luật thi hành án hình sự
5.1.1. Chủ thể của hoạch định chính sách
pháp luật thi hành án hình sự
Chính sách PLTHAHS là tư tưởng, quan
điểm, sách lược, chiến lược, đường hướng của
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
45
nhà nước trong sử dụng pháp luật đối với việc
THAHS nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy,
việc hoặch định, xây dựng chính sách
PLTHAHS do nhà nước tiến hành để thực hiện
chức năng của mình. Tuy nhiên, chính sách
PLTHAHS không chỉ được xây dựng ban hành
khi một đảng thắng cử mà còn được đưa ra
trong quá trình vận động tranh cử. Theo quan
niệm được thừa nhận rộng rãi thì chính sách
PLTHAHS không chỉ do nhà nước ban hành mà
còn do các đảng phái chính trị khi họ cầm
quyền hoặc đang trong quá trình vận động bầu
cử. Ở những nước có chế độ đa đảng, khi tranh
cử mỗi đảng phái chính trị đều đưa ra các chính
sách của mình trên các lĩnh vực đời sống xã hội,
trong đó có chính sách PLTHAHS. Chính sách
này được cạnh tranh trong quá trình bầu cử và
nó thắng lợi khi được đa số cử tri ủng hộ. Chính
sách này sẽ được mang ra thực thi khi đảng đó
thắng cử và do vậy các chính sách, trong đó có
chính sách PLTHAHS, bao gồm và trước hết là
chính sách của đảng cầm quyền.
Ở nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam là
người tổ chức, thực hiện thắng lợi mọi quá trình
xã hội, có vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội,
do vậy Đảng khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối
của mình và được người dân đồng tình, mà biểu
hiện pháp lý quan trọng nhất là thông qua qui
định tại các bản Hiến pháp. Vì vậy, trong xã hội
ta Đảng cộng sản Việt Nam là chủ thể của việc
ban hành chính sách, trong đó có chính sách
PLTHAHS, bên cạnh đó, nhà nước Việt Nam,
với vị trí là trung tâm của hệ thống chính trị, có
vai trò quản lý xã hội là chủ thể quan trọng
trong việc ban hành các chính sách trong đó có
Chính sách PLTHAHS. Do vậy, cần có quan
niệm rộng về chủ thể có thẩm quyền ban hành
chính sách PLTHAHS, nó bao gồm chính sách
của đảng cầm quyền và nhà nước với những
hình thức văn bản tương ứng phù hợp với mỗi
loại thiết chế nhà nước.
Những trình bày trên chỉ đề cập đến chủ thể
của việc xây dựng, ban hành chính sách
PLTHAHS, mà không đề cập theo nghĩa rộng
chủ thể của chính sách pháp luật THAHS với
hàm ý bao gồm các loại chủ thể: chủ thể xây
dựng, ban hành chính sách PLTHAHS; chủ thể
nghiên cứu và xây dựng các cơ sở khoa học của
chính sách PLTHAHS; chủ thể THAHS, quản
lý, kiểm tra, giám sát THAHS; chủ thể chấp
hành án hình sự và các chủ thể có liên quan
khác.
5.1.2. Các hình thức (nguồn) của các chính
sách pháp luật thi hành án hình sự
Hình thức chứa đựng nội dung của chính
sách PLTHAHS là các văn bản của các chủ thể
có thẩm quyền ban hành chính sách và nếu
phân chia theo chủ thể ban hành chính sách
PLTHAHS sẽ có các hình thức sau:
- Các văn bản của Đảng và các cơ quan
Đảng, bao gồm: Nghị quyết Đại hội Đảng các
nhiệm kỳ; Nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Bộ
chính trị, Ban bí thư thể hiện các nội dung của
chính sách PLTHAHS.
- Các văn bản của nhà nước, bao gồm: Hiến
pháp; Nghị quyết của Quốc hội; Cam kết quốc
tế; Chiến lược, chương trình, qui hoạch chứa
đựng các nội dung của chính sách PLTHAHS.
Những văn bản trên là hình thức chứa đựng
nội dung chính sách PLTHAHS ở nước trong
từng thời kỳ, phản ánh thái độ, chủ trương,
đường hướng của các chủ thể ban hành chính
sách đối với việc sử dụng pháp luật vào điều
chỉnh các quan hệ THAHS, vào việc tổ chức
đấu tranh, xử lý, phòng ngừa tội phạm góp phần
bảo vệ và phát triển đất nước.
5.2. Quy trình xây dựng chính sách pháp luật
thi hành án hình sự
5.2.1. Nhu cầu hoạch định chính sách pháp
luật thi hành án hình sự
Chính sách PLTHAHS có vai trò quan
trọng, là nền tảng, định hướng cho hoạt động
lập pháp và thực thi PLTHAHS trong việc đấu
tranh xử lý, phòng ngừa tội phạm nên nhu cầu
hoạch định chính sách PLTHAHS là đòi hỏi tất
yếu. Nhu cầu này có tính chất thường xuyên, do
chính sách PLTHAHS không phải là bất biến
mà cần phải được điều chỉnh, hoàn thiện cho
phù hợp với thực tiễn THAHS. Khi bàn luận về
chính sách, việc xác định nguồn gốc phát sinh
nhu cầu hoạch định chính sách có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Chính sách phát sinh từ ý muốn
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
46
chủ quan của nhà hoạch định chính sách, hay
phát sinh từ đòi hỏi của thực tiễn. Đã có nhiều
bài học ở Việt nam, cũng như một số nước khác
về tác động/hậu quả tiêu cực phát sinh do chính
sách được hoạch định một cách tùy tiện, duy ý
chí, không phát sinh từ thực tiễn cuộc sống theo
kiểu “làm chính sách ở trên trời”. Do vậy, một
kết luận có tính quy luật, đó là: Chính sách phải
được hoạch định từ những vấn đề do thực tiễn
cuộc sống đặt ra. Trước một vấn đề phát sinh từ
thực tiễn cuộc sống, nhà hoạch định chính sách
phải phân tích và xác định được chính sách cần
phải có để xử lý vấn đề mới phát sinh gì (trong
trường hợp chưa được luật pháp điều chỉnh),
hoặc vấn đề đang phát sinh (trong quá trình thi
hành pháp luật). Chính sách trong trường hợp
này được xem như một định hướng xử lý vấn
đề và kèm theo là những giải pháp chính sách
xử lý vấn đề. Như vậy, hoạch định, xây dựng
chính sách PLTHAHS là đòi hỏi tất yếu và việc
hoạch định, xây dựng đó phải xuất phát từ tình
hình thực tiễn THAHS. Nếu xa rời qui luật này,
chính sách PLTHAHS sẽ không có tính khả thi,
thậm chí còn tác động tiêu cực đến hiệu quả
THAHS.
5.2.2. Hoạch định chính sách pháp luật
THAHS với quy trình lập pháp
Hiện nay, giới nghiên cứu và các chuyên
gia thực tiễn2 đều chung một quan điểm về sự
cần thiết và tầm quan trọng của việc hoạch định
chính sách trong quy trình lập pháp, lập quy.
Chính sách phải được xác định và luật hóa, để
trở thành ‘cốt lõi’, là ‘tinh thần’ xuyên suốt của
một dự án luật. Làm luật mà không bám sát
theo chính sách đã định, thì không khác gì “làm
đường mà không rõ hướng”, dễ rơi vào tình
trạng “đẽo cày giữa đường”. Vì vậy, khi xây
dựng các văn bản PLTHAHS nhất thiết phải
dựa vào các định hướng của chính sách
PLTHAHS.
________
2 Hoàng Ngọc Giao, Nguyễn Sĩ Dũng, Phạm Tuấn
Khải, Nguyễn Đăng Dung, Hoàng Thế Liên, Nguyễn
Đức Lam, Nguyễn Đình Cung, Trần Hữu Huỳnh,
Nguyễn Quang Tuyến, Đặng Văn Thanh, Phan Đức
Hiếu, .v.v.
Với vai trò được ủy quyền lãnh đạo và quản
lý xã hội vì sự phát triển của quốc gia, việc
hoạch định và thực thi chính sách phải luôn
được coi là một chức năng, nhiệm vụ quan
trọng và chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước.
Đảng và Nhà nước dẫn dắt quốc gia phát triển
phải bằng chính sách, thể hiện các định hướng,
mục tiêu phát triển với những giải pháp cụ thể.
Tuy nhiên, chính sách chỉ mới dừng lại ở những
định hướng và giải pháp mang tính nội dung mà
Nhà nước xác định vì sự phát triển, vì vậy, để
chính sách có thể thực thi, đi vào cuộc sống thì
pháp luật, một công cụ không thể thiếu đối với
việc đảm bảo của quyền lực nhà nước, đủ khả
năng đảm bảo tính hiện thực của chính sách
trong đời sống xã hội. Vì vậy, chính sách
PLTHAHS cần phải được “hiện thân” vào các
qui phạm pháp luật để có thể thực thi, áp dụng
một cách có hiệu quả nhất trong quá trình
THAHS.
Chính sách là nội dung can thiệp của các
chủ thể ban hành chính sách đối với xã hội, là
mục tiêu hướng tới giải quyết các vấn đề phát
sinh từ thực tiễn cuộc sống ở các lĩnh vực dó.
Vì vậy, chính sách nói chung và chính sách
PLTHAHS nói riêng không thể tự nó được thực
thi mà phải thông qua việc xây dựng, ban hành
và thực thi pháp luật. Chính sách phải được luật
hóa, phải được đảm bảo thi hành bởi các văn
bản pháp luật với tính chất “sợi chỉ” xuyên suốt
nội dung của văn bản pháp luật và trong quá
trình thực thi pháp luật. Tính nhất quán về mục
tiêu điều chỉnh của văn bản PLTHAHS phụ
thuộc vào mức độ rành mạch và rõ ràng của
chính sách PLTHAHS được thể hiện qua các
quy định pháp luật. Do vậy, nhà làm luật không
thể xem nhẹ vai trò của chính sách trong quá
trình lập pháp. Với ý nghĩa này, hoạt động lập
pháp phải được thực hiện theo hướng vì sự phát
triển, thay vì sự tiện ích cho công tác quản lý
nhà nước. Nếu chỉ dừng lại ở tư duy cho rằng
pháp luật là công cụ quản lý nhà nước, thì
dường như nhà hoạch định chính sách/nhà soạn
thảo luật bị trói buộc bởi các thiết chế hành
chính, pháp lý hiện hành, có thiên hướng về sự
tiện lợi, tiện nghi của cơ quan quản lý nhà
nước, hơn là quan tâm tới những chính sách
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
47
được hoạch định từ thực tiễn, và phải được
chuyển tài vào luật mà lĩnh vực THAHS không
phải là ngoại lệ.
Một đạo luật, sau khi đã được xây dựng,
ban hành với những nội dung cốt lõi của chính
sách được thể hiện nhất quán, rõ ràng qua các
điều luật, thì thực tiễn cuộc sống sẽ kiểm chứng
về tính hiệu quả của đạo luật đó, thể hiện ở mức
độ mà các chính sách của luật đáp ứng được
nhu cầu phát triển đến mức độ nào. Đồng thời,
thông qua đó những vấn đề nảy sinh trong quá
trình thực thi pháp luật sẽ lại đặt ra nhu cầu
hoạch định chính sách/giải pháp chính sách để
giải quyết. Điều này, có thể được mô tả theo
một quy trình hoạch định chính sách – xây
dựng, ban hành pháp luật – phát triển như sau:
Hoạch định chính sách - Lập pháp/ lập quy
- Thực thi Pháp luật - đánh giá Chính
sách/Pháp luật (mục tiêu chính sách đã/chưa đạt
được) - Hoạch định/ điều chỉnh Chính sách -
Lập pháp/ lập quy - Thực thi Pháp luật - đánh
giá Chính sách/Pháp luật (mục tiêu chính sách
đã/chưa đạt được) - Hoạch định/ điều chỉnh
Chính sách - Lập pháp/ lập quy - Thực thi Pháp
luật - đánh giá Chính sách/ Pháp luật (mục tiêu
chính sách đã/ chưa đạt được)
Quy trình Hoạch định chính sách - Lập
pháp - Phát triển trên cho thấy: Chính sách
PLTHAHS là đầu vào không thể thiếu của
PLTHAHS; đồng thời Chính sách PLTHAHS
cũng là đầu ra, là mục tiêu mà Dự án Luật
(THAHS) hướng tới (kết quả thực thi
PLTHAHS). Như vậy, việc xây dựng một dự án
Luật phải, trước tiên, phải căn cứ vào Chính
sách PLTHAHS rõ ràng; việc thẩm tra, thẩm
định Dự án Luật THAHS cũng phải bám sát
Chính sách PLTHAHS; cũng như vậy, khi đánh
giá hiệu quả của Dự án Luật THAHS, thì việc
đánh giá kết qủa thực thi những Chính sách
PLTHAHS mà Dự án Luật THAHS hướng tới -
phải là tiêu chí chủ yếu để xem xét tính khả thi
và hiệu quả của văn bản pháp luật có hiệu lực.
Chính sách có vai trò quan trọng như sợi
chỉ xuyên suốt nội dung của văn bản pháp luật.
Tính nhất quán về mục tiêu điều chỉnh của văn
bản pháp luật phụ thuộc vào mức độ rành mạch
và rõ ràng của chính sách được thể hiện qua các
quy định pháp luật. Để đạt được tính nhất quán
về chính sách trong một dự án luật, các nhà
hoặch định chính sách tiến hành theo những
công đoạn chủ yếu sau: Qui trình xây dựng
chính sách PLTHAHS tương tự như qui trình
xây dựng chính sách nói chung, bao gồm các
bước sau:
- Xác định nhu cầu xây dựng, ban hành chính
sách PLTHAHS;
- Phân tích, đánh giá chính sách PLTHAHS;
- Xây dựng chính sách PLTHAHS;
- Thẩm định, phản biện chính sách PLTHAHS;
- Ban hành chính sách PLTHAHS;
- Triển khai thực hiện chính sách.
Khi Chính sách pháp luật PLTHAHS được
ban hành việc luật hóa chính sách về mặt lý
thuyết cần phải được thực hiện trong quy trình
lập pháp với những công đoạn cụ thể như sau:
Thứ nhất, lập đề nghị xây dựng luật
Việc đề nghị xây dựng luật (sáng kiến pháp
luật) phải xuất phát từ thực tiễn và đòi hỏi của
đời sống, xã hội do đó cần có sự đánh giá thực
tiễn và đánh giá nhu cầu. Trong lĩnh vực
THAHS là sự đánh giá về thực tiễn thi hành
PLTHAHS và yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối
với quá trình THAHS mà chính sách
PLTHAHS đã đặt ra. Do đó, việc xây dựng
pháp PLTHAHS sẽ bao gồm: a. Đánh giá thực
trạng thi hành pháp luật THAHS, nhằm xác
định vấn đề phát sinh trong quá trình thi hành
THAHS; b. Nhận diện vấn đề trong quá trình
PLTHAHS mới phát sinh mà pháp luật chưa
điều chỉnh; c. Đánh giá hành vi của các chủ thể
THAHS nhằm xác định nguyên nhân gây ra vấn
đề và dự kiến chính sách/giải pháp chính sách
nhằm xử lý nguyên nhân gây ra vấn đề; d.Tham
vấn/lấy ý kiến nhằm kiểm chứng các ý tưởng
chính sách dự kiến của nhà làm luật; e. Đánh
giá và lựa chọn chính sách từ những phương án
chính sách dự kiến; g. Đề xuất chính sách được
lựa chọn để xây dựng luật THAHS.
Thứ hai, soạn thảo luật
Các chính sách của một dự án luật, sau khi
được thẩm tra, và thông qua tại Quốc hội và
đưa vào chương trình làm luật sẽ trở thành
khung chính sách của dự thảo văn bản luật. Nhà
soạn thảo có trách nhiệm quy phạm hóa khung
N.N. Chi / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 30-48
48
chính sách, tạo nên hệ thống, bao gồm các quy
định phản ánh đúng những chính sách đã được
phê duyệt và những quy định pháp lý đảm bảo
thực thi những chính sách này. Đây chính là
giai đoạn soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật
dựa trên chính sách PLTHAHS được phê duyệt
tại giai đoạn đề nghị xây dựng luật.
Sau khi chính sách/giải pháp chính sách
PLTHAHS được chuyển tải thành các điều luật,
dự thảo luật được hoàn tất. Bước tiếp, cần phải
thực hiện là tham vấn/lấy ý kiến về những điều
luật phản ánh chính sách/giải pháp chính sách
của dự thảo luật THAHS.
Thẩm định dự thảo luật, nhằm đánh giá về
tính tương thích giữa chính sách/giải pháp
chính sách PLTHAHS đã được phê duyệt với
các điều luật của dự thảo luật THAHS.
Thẩm tra dự thảo luật THAHS, nhằm đảm
bảo rằng chính sách/giải pháp chính sách
PLTHAHS được phán ánh đúng với mong đợi
của các cơ quan Quốc hội như tại thời điểm phê
duyệt chính sách/giải pháp chính sách, phù hợp
với lợi ích chung của của quốc gia, ngành/lĩnh
vực, cũng như các điều kiện đảm bảo thực thi
luật.
Thứ ba, thông qua dự thảo luật
Thảo luận và thông qua dự thảo luật
THAHS, nhằm tập trung vào những quan điểm
và ý kiến khác biệt của các đại biểu về các vấn
đề liên quan tới chính sách PLTHAHS/giải
pháp chính sách PLTHAHS được thể hiện tại
dự thảo luật THAHS từ góc độ lợi ích của cử
tri.
Lời cảm ơn
Bài viết này được thực hiện trong khuôn
khổ Đề tài KHCN cấp Khoa Luật-Đại học Quốc
gia Hà Nội, mã số KL.19.01 “Chính sách pháp
luật thi hành án hình sự ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay” từ năm 2019 đến năm 2020 do
TS. Nguyễn Thị Lan làm Chủ nhiệm đề tài.
Tài liệu tham khảo
[1] Le Van Cam (2009), The judicial system in the
development period of the rule-of-law state
(monograph), VNU Publishing House, Hanoi (in
Vietnamese).
[2] Ho Trong Ngu (2002), Certain fundamental issues
on criminal policy under the Resolution of the IX
National Congress of the Communist Party of
Vietnam, National Political Publishing House,
Hanoi (in Vietnamese).
[3] Pham Van Loi (chief editor) (2007), Vietnam’s
criminal policy in the Renovation Period, Judicial
Publishing House, Hanoi (in Vietnamese).
[4] People’s Police Academy (2016), Law on
Execution of Criminal Judgments and Judicial
Assistance (textbook), NXB (in Vietnamese).
[5] Social Science Institute - Vietnam Academy of
Social Sciences (2014), Law on Execution of
Criminal Judgments (textbook), NXB (in
Vietnamese).
[6] Vo Khang Vinh, “General theoretical issues on
the execution of criminal jugdments policy”,
Execution of criminal judgments policy: Urgent
theoretical and practical issues (Conference
proceedings), Social Science Institute (Vietnam
Academy of Social Sciences), Hanoi, 4/2019 (in
Vietnamese).
[7] Political Bureau (2002), Resolution no. 08-
NQ/TW in 2002 on “Forthcoming Principal
Judiciary Tasks”, January 02, 2002 (in
Vietnamese).
[8] Vietnam’s Encyclopedia Editorial Board (1995),
Encyclopedia Dictionary of Vietnam, Vietnam’s
Encyclopedia Publishing House, Hanoi (in
Vietnamese).
[9] Dao Tri Uc (2015), Rule-of-law state (textbook),
VNU Publishing House, Hanoi (in Vietnamese).
[10] Dao Tri Uc (1994), Criminology, Criminal Law
and Criminal Procedure Law of Vietnam,
National Political Publishing House, Hanoi (in
Vietnamese).
[11] Vu Cong Giao, Ngo Minh Huong (chief editors)
(2016), Human rights-based approach –
Theoretical and practical issues (monograph),
VNU Publishing House, Hanoi (in Vietnamese).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_phap_luat_thi_hanh_an_hinh_su_mot_so_van_de_li_lu.pdf