Kết luận
Việc phát triển nông nghiệp hữu cơ không
đặt ra những vấn đề kỹ thuật mà cần quan
tâm đến 2 vấn đề cốt lõi là thị trường (kết
nối cung - cầu) và quản lý. Người nông dân
luôn có khả năng để chuyển sang sản xuất
hữu cơ, nhưng bán sản phẩm như thế nào
mới là vấn đề mang tính quyết định. Vì vậy,
nhà nước cần có các giải pháp nhằm kết nối
mạng lưới các doanh nghiệp sản xuất hữu
cơ, hỗ trợ về mặt kỹ thuật và kết nối cung
cầu; cải tiến nhận thức cộng đồng về thực
phẩm sạch và an toàn. Cần có định hướng
phát triển nông nghiệp hữu cơ để đảm bảo
tính hiệu quả và bền vững cho kinh tế, môi
trường và xã hội.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 379 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Hàn Quốc và hàm ý cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
48
Chính sách phát triển nông nghiệp hữu cơ
ở Hàn Quốc và hàm ý cho Việt Nam
Đào Thị Hoàng Mai1, Kim Ki-hueng2
1 Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
2 Đại học Chungnam, Hàn Quốc.
Email: hoangmaidao@yahoo.com
Nhận ngày 13 tháng 3 năm 2019. Chấp nhận đăng 17 ngày 6 tháng năm 2019.
Tóm tắt: Những năm vừa qua, Hàn Quốc nổi lên ở Châu Á như là một trường hợp điển hình về
phát triển nông nghiệp hữu cơ. Quốc gia này đã thực hiện nhiều chính sách để khuyến khích sản
xuất nông nghiệp hữu cơ thân thiện với môi trường. Bên cạnh những thành quả đã đạt được, những
chính sách này cũng tồn tại không ít hạn chế như: xói mòn lòng tin của người tiêu dùng, sự quan
liêu trong công tác quản lý Việt Nam đang có những bước chuyển mình trong việc phát triển
nông nghiệp hữu cơ, vì vậy, kinh nghiệm phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Hàn Quốc có giá trị tham
khảo hữu ích đối với Việt Nam.
Từ khóa: Chính sách nông nghiệp hữu cơ, Hàn Quốc, Việt Nam.
Phân loại ngành: Kinh tế học
Abstract: In recent years, the Republic of Korea (South Korea) has emerged in Asia as a case
study of organic agricultural development. The country has implemented many policies to
encourage environmentally friendly agricultural production. In addition to the achievements, there
remain many limitations in the policies such as the erosion of consumer confidence and
bureaucracy in management. Vietnam is taking steps for organic agriculture development;
therefore, it is useful for the country to study the experience of the development in South Korea.
Keywords: Policy of organic agriculture, the Republic of Korea, Vietnam.
Subject classification: Economics
1. Mở đầu
Nông nghiệp Việt Nam đang trong bối cảnh
tái cơ cấu, chuyển từ tư duy phát triển theo
chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu.
Sau khi mục tiêu an ninh lương thực đã
hoàn thành, mục tiêu tiếp theo của ngành
nông nghiệp là phải tạo ra những sản phẩm
Đào Thị Hoàng Mai, Kim Ki-hueng
49
có chất lượng và giá trị cao hơn. Phương
thức hóa học hóa nông nghiệp nhằm thâm
canh, tăng vụ mà Việt Nam vẫn theo đuổi
trong suốt mấy thập kỷ qua dường như đã
chạm trần. Việt Nam tạo ra được nhiều
nông sản, nhưng chất lượng kém dẫn đến
thu nhập của đại bộ phận nông dân vẫn thấp
do phải cạnh tranh thị trường ở phân khúc
giá rẻ. Trong khi đó, toàn xã hội lại đang
bức xúc về nông sản không an toàn, xuất
phát từ việc sử dụng hóa chất, kháng sinh
trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng
thủy sản không có sự kiểm soát. Trên thế
giới, nền nông nghiệp hiện đại đang phát
triển theo xu hướng hữu cơ hóa. Ở Việt
Nam, nông nghiệp an toàn đang là chủ đề
thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.
Hàn Quốc là quốc gia Châu Á từng được
coi là điển hình về phát triển nông nghiệp
hữu cơ thành công. Trong một thời gian
tương đối ngắn, chính phủ nước này đã thực
hiện những chính sách thực sự nghiêm ngặt
để được công nhận là nhà sản xuất hữu cơ.
Năm 2009, Hàn Quốc có tới 46 thành viên
của Tổ chức Các phong trào Nông nghiệp
Hữu cơ quốc tế (IFOAM), so với Úc chỉ có
9 thành viên [5]. Tuy nhiên, trên thực tế cho
thấy, con đương hữu cơ hóa của Hàn Quốc
cũng không phải là hoàn toàn suôn sẻ. Bài
viết này phân tích các chính sách thúc đẩy
phát triển nông nghiệp hữu cơ của Hàn
Quốc và hàm ý cho Việt Nam.
2. Chính sách phát triển nông nghiệp
hữu cơ của Hàn Quốc
Năm 1991, Chính phủ Hàn Quốc thành lập
Ban Kế hoạch phát triển nông nghiệp hữu
cơ tại Bộ Nông nghiệp, Lương thực và
Nông thôn. Đến năm 1993, “nông nghiệp
thân thiện với môi trường” lần đầu tiên
được giới thiệu với các cơ quan quản lý
nông nghiệp. Huh Shin-haeng, Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp, Lương thực và Nông thôn
là người có ảnh hưởng rất lớn đến các chính
sách nông nghiệp. Ông chính là người đã
đưa ra gợi ý về 4 giai đoạn phát triển cho
nông nghiệp Hàn Quốc trong cuốn sách tựa
đề “Chiến lược Nông nghiệp Hàn Quốc
trong thế kỷ XXI”, hướng tới một nền nông
nghiệp định hướng xuất khẩu, bền vững, có
chất lượng cao và có kỹ thuật. Quan điểm
của ông về nông nghiệp thân thiện với môi
trường đã trở thành triết lý trung tâm của
thế kỷ XXI. Cùng năm đó, hệ thống chứng
nhận chất lượng cho các sản phẩm hữu cơ
cũng ra đời. Người kế nhiệm Huh Shin-
haeng là Kim Sung-hoon đã thực hiện các
biện pháp cụ thể cũng như toàn diện hơn
đối với nông nghiệp thân thiện với môi
trường. Nông nghiệp thân thiện với môi
trường tuy được cho là chính sách quan
trọng thời kỳ đầu nhưng lại dựa trên sản
xuất nông nghiệp theo hướng mở rộng quy
mô và giảm chi phí.
Năm 1997, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa
ra định hướng mới về nông nghiệp thông
qua Đạo luật Xúc tiến nông nghiệp thân
thiện với môi trường, và năm 1998 được coi
là năm khởi đầu của nông nghiệp thân thiện
với môi trường. Từ phương thức canh tác
thân thiện với môi trường ở trình độ thấp,
nông dân có thể chuyển dần tới các phương
thức ở trình độ cao hơn (ít sử dụng thuốc
trừ sâu, không sử dụng thuốc trừ sâu, giai
đoạn chuyển đổi và giai đoạn hữu cơ). Mục
tiêu cuối cùng của nông nghiệp thân thiện
với môi trường là nông nghiệp hữu cơ. Điều
này xuất phát từ việc Chính phủ Hàn Quốc
muốn khuyến khích và tạo điều kiện cho
những nông dân sử dụng phân bón và thuốc
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
50
trừ sâu có nguồn gốc hoá học chuyển đổi
sang canh tác sinh thái.
Ngoài ra, chính sách thúc đẩy nông
nghiệp thân thiện với môi trường được ban
hành vào tháng 11 năm 1998 và Hệ thống
Chi trả trực tiếp cho nông nghiệp thân thiện
với môi trường được thiết lập vào năm
1999. Sau khi Đạo luật Xúc tiến nông
nghiệp thân thiện với môi trường được sửa
đổi, Kế hoạch 5 năm đối với nông nghiệp
thân thiện với môi trường được thực hiện kể
từ tháng 1 năm 2001.
Sau nhiều lần sửa đổi, năm 2016, Đạo
luật Xúc tiến Nông nghiệp thân thiện với
môi trường, Thuỷ sản và Quản lý, hỗ trợ
thực phẩm hữu cơ được tái kiến thiết. Luật
này bao gồm ngành thuỷ sản và khái niệm
thực phẩm của nông nghiệp sinh thái. Hiện
tại, Kế hoạch 5 năm lần thứ tư dành cho
nông nghiệp thân thiện với môi trường
(2016-2020) đang được thực hiện. Chính
sách thúc đẩy nông nghiệp thân thiện với
môi trường do Chính phủ định hướng dạng
này đã mang lại tăng trưởng đáng kể cho
ngành nông nghiệp thân thiện với môi
trường.
Chính phủ Hàn Quốc ban hành chính
sách trợ cấp dựa trên chứng chỉ. Theo đó,
Chính phủ hỗ trợ chi trả trực tiếp cho nông
dân có chứng nhận với quy mô hỗ trợ như
sau: 25,9 tỷ Won năm 2016; 23,9 tỷ Won
năm 2017; 26,4 tỷ Won năm 2018. Ban
đầu, hình thức chi trả này thực chất là một
dạng bồi hoàn. Để đạt được sản lượng ổn
định sau khi chuyển đổi từ canh tác thông
thường sang canh tác hữu cơ phải mất 3
năm. Thất thu trong khoảng thời gian đó
được Chính phủ chi trả cho nông dân. Tuy
nhiên, các nhóm nông hộ liên tục đề nghị
được kéo dài khoảng thời gian này nên thời
gian chi trả từ năm 2015 tăng lên 5 năm.
Bên cạnh đó, mức chi trả trực tiếp có sự
khác biệt tuỳ theo loại hình nông nghiệp
thân thiện với môi trường, điều kiện vụ mùa
và hình thức sản xuất. Trong trường hợp
trồng lúa nước, nông dân có chứng nhận
hữu cơ được nhận 700 nghìn Won/ha; nông
dân có chứng nhận không sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật được nhận 500 nghìn
Won/ha. Nông dân trồng cây ăn quả được
nhận 1,4 triệu won/ha cho chứng nhận hữu
cơ, và 1,2 triệu Won/ha cho chứng nhận
không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Nông
dân trồng rau và hoa màu có chứng nhận
hữu cơ nhận 1,3 triệu Won/ha, không sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật nhận 1,1 triệu
Won/ha.
Hình thức chi trả trực tiếp khác cho canh
tác hữu cơ là dành cho nông dân tiếp tục
canh tác hữu cơ sau 5 năm kể từ khi họ bắt
đầu thực hiện nông nghiệp hữu cơ từ năm
2015. Đối với lúa nước là 350 nghìn
Won/ha. Cây ăn quả là 700 nghìn Won/ha
và rau màu là 650 nghìn Won/ha. Trên thực
tế, mức độ chi trả trực tiếp là rất lớn và tác
động của chính sách này đối với nông dân
rất đáng kể, vì vậy Chính phủ Hàn Quốc
hiện đang phải xem xét lại chính sách chi
trả trực tiếp cho nông nghiệp thân thiện với
môi trường, bao gồm cả chính sách chi trả
khác nữa.
Một đặc điểm khác của nông nghiệp hữu
cơ Hàn Quốc là hỗ trợ theo đơn vị làng
hoặc huyện. Nhiều huyện, làng nông nghiệp
thân thiện với môi trường được thành lập
tại Hàn Quốc. Quy mô trợ cấp là rất lớn:
năm 2016 là 31,6 tỷ Won, năm 2017 là 25,6
tỷ Won, năm 2018 là 20,7 tỷ Won. Tài sản
theo nhóm là hơn 10 ha với khoảng 10 nông
dân. Chính sách này đã góp phần tăng số
lượng nông dân sản xuất nông nghiệp sinh
thái theo làng và các nhóm nông dân dạng
Đào Thị Hoàng Mai, Kim Ki-hueng
51
này có thể giúp cho việc marketing các sản
phẩm nông nghiệp sinh thái.
Bên cạnh những thành tựu trong việc
phát triển nông nghiệp hữu cơ, các chính
sách của Chính phủ Hàn Quốc cũng bộc lộ
một số vấn đề bất cập.
Trợ cấp dựa trên hệ thống chứng nhận
chỉ dành cho nông dân có chứng nhận, vì
vậy nông dân rất háo hức để được chứng
nhận dù không có kiến thức về nông nghiệp
hữu cơ. Thực trạng này dẫn đến thị trường
cho các sản phẩm có chứng nhận ngày càng
cạnh tranh và một số nông dân đã chuyển
sang quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng
địa phương. Điểm hạn chế này của nông
nghiệp hữu cơ đã khiến cho lòng tin của
người tiêu dùng bị xói mòn. Năm 2013 đã
xảy ra việc cấp chứng nhận giả cho những
nông dân không hiểu biết về nguyên tắc và
tinh thần của nông nghiệp hữu cơ. Bên cạnh
đó, năm 2016, một số quan chức địa
phương đã nguỵ tạo những cánh đồng được
chứng nhận để nhằm thu hút thêm thành
viên. Qua những bất cập này, Chính phủ
Hàn Quốc đã tập trung vào việc củng cố các
quy định, đặc biệt là vấn đề thanh tra việc
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Tháng 8
năm 2017, một vấn đề nghiêm trọng hơn đã
xảy ra đó là trứng được chứng nhận sản
xuất thân thiện với môi trường đã bị nhiễm
độc thuốc trừ sâu. Nhằm giải quyết vấn đề
này, tháng 12 năm 2017, Chính phủ Hàn
Quốc đã đưa ra các biện pháp đối phó nhằm
cải thiện vấn đề an toàn thực phẩm tập
trung vào việc củng cố các chứng nhận
nông nghiệp thân thiện với môi trường. Lần
này, Chính phủ Hàn Quốc chỉ tập trung
củng cố hệ thống cấp chứng nhận. Tuy
nhiên, sự nhầm lẫn và vấn đề xói mòn lòng
tin của người tiêu dùng vẫn còn tồn tại.
Các hệ thống chứng nhận đã khiến người
tiêu dùng nhầm lẫn về nông nghiệp thân
thiện với môi trường và không giúp nông
dân tham gia được vào các bước tiếp theo
của nông nghiệp thân thiện với môi trường.
Do đó, chứng nhận chuyển đổi đã được xoá
bỏ vào năm 2006 do gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng. Bên cạnh đó, chứng nhận
ít sử dụng thuốc trừ sâu đã được xoá bỏ vào
năm 2015 do không có sự phân biệt với
canh tác thông thường. Điều này có nghĩa là
nhiều nông dân đã hạn chế sử dụng thuốc
trừ sâu. Mặc dù vậy, do nhiều thiệt hại từ
giống, đặc biệt trong ngành hàng trái cây,
việc canh tác ít sử dụng thuốc trừ sâu là
không dễ dàng. Những sản phẩm khác đều
được canh tác ở mức độ an toàn. Hiện tại,
Hàn Quốc chỉ phân biệt hai hình thức sản
xuất nông nghiệp thân thiện với môi trường
là hữu cơ và không sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật.
Một số dự án của Chính phủ Hàn Quốc
kéo dài nhiều năm nên nảy sinh những vấn
đề bất cập trong quá trình kêu gọi nông dân
tham gia (dự án được thực hiện trong nhiều
năm nên nông dân cao tuổi cũng là một rào
cản cho sự phát triển).
Những hạn chế này đã khiến đà tăng
trưởng nông nghiệp hữu cơ giảm dần sau
khi đạt mức cao nhất vào năm 2012. Số
nông hộ canh tác hữu cơ năm 2012 là
107.000/nông hộ, với 7,3% tổng diện tích
đất nông nghiệp Hàn Quốc. Đến năm 2017,
số nông hộ hữu cơ đã giảm xuống còn
59.423/nông hộ, với 4,9% diện tích. Điều
này cho thấy chính sách phát triển nông
nghiệp hữu cơ theo giai đoạn đang có dấu
hiệu thất bại.
Như vậy, chính sách phát triển nông
nghiệp hữu cơ của Hàn Quốc đang đi theo
hướng tiếp cận từ trên xuống (nhà nước thể
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
52
hiện quyết tâm hữu cơ hóa nền nông nghiệp
thông qua các chính sách đầu tư và hỗ trợ).
Ưu điểm của các chính sách này là tập
trung được nguồn lực cho phát triển. Đây
cũng là lý do khiến nông nghiệp hữu cơ
Hàn Quốc đã phát triển một cách mạnh mẽ
trong thời gian đầu. Tuy nhiên, cách tiếp
cận này cũng khó tránh khỏi những hạn
chế. Sự suy thoái của nông nghiệp hữu cơ ở
Hàn Quốc những năm gần đây cho thấy,
nhiều vấn đề bất cập về tính bền vững của
các mô hình canh tác hữu cơ.
3. Hàm ý cho Việt Nam
3.1. Về chiến lược phát triển nông nghiệp
hữu cơ
Tình hình hiện nay cho thấy, cần phải có
cách tiếp cận mới đối với nông nghiệp hữu
cơ. Đã đến lúc cần xem xét lại các giá trị của
nông nghiệp hữu cơ, nhằm chuyển tải tinh
thần và triết lý cơ bản của nông nghiệp hữu
cơ tới người tiêu dùng. Trước hết, cần tách
biệt các chính sách nông nghiệp hữu cơ với
nông nghiệp thân thiện môi trường, tránh
gây hiểu lầm cho nông dân cũng như người
tiêu dùng. Nông nghiệp hữu cơ cần duy trì
bản sắc riêng như bảo vệ môi trường, sản
xuất thực phẩm an toàn, theo đuổi đa dạng
sinh học, phục hồi các cộng đồng địa
phương và các hoạt động tương tự khác.
Đối với Việt Nam, nông nghiệp hữu cơ
được triển khai thực hiện từ Dự án hợp tác
giữa Trung tâm phát triển Nông nghiệp Đan
Mạch - Châu Á (ADDA) và Hội Nông dân
Việt Nam (VNFU) năm 2004. Hệ thống
đảm bảo cùng tham gia (PGS) của Việt
Nam được thành lập vào cuối năm 2008,
khi những nhóm nông dân hữu cơ tại huyện
Sóc Sơn (Hà Nội) và huyện Lương Sơn
(Hòa Bình) bắt đầu có những sản phẩm đầu
tiên cần tiếp cận thị trường. Khi dự án
ADDA-VNFU kết thúc vào tháng 9 năm
2012, bằng sự đồng thuận và quyết tâm của
các bên liên quan, bao gồm các nông dân
sản xuất hữu cơ, thương nhân và Hội Nông
dân cấp cơ sở, PGS đã tiếp tục duy trì hoạt
động như một tổ chức phi chính phủ địa
phương. Tháng 9 năm 2013, sau 3 lần chỉnh
sửa kể từ lần trình đầu tiên vào năm 2011,
bộ tiêu chuẩn PGS hữu cơ Việt Nam đã
được IFOAM chính thức công nhận.
Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ Việt
Nam phải chờ đến cuối năm 2018 mới được
chính thức thể chế hóa khi Nghị định nông
nghiệp hữu cơ [2] do Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (NN & PTNT) xây
dựng và trình Chính phủ ban hành vào
tháng 8 năm 2018 và có hiệu lực thi hành
vào ngày 15 tháng 10 năm 2018. Nghị định
bao gồm 7 chương, 20 điều là khung pháp
lý cao nhất nhằm mục đích quản lý phát
triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Việt
Nam. Bên cạnh đó, trên cơ sở nội dung
Nghị định hữu cơ, Bộ NN & PTNT đang
tiếp tục xây dựng Đề án phát triển nông
nghiệp hữu cơ 2018 - 2025.
Khá giống với Hàn Quốc, nông nghiệp
hữu cơ ở Việt Nam trong nhiều năm đã
thiếu cả hành lang pháp lý lẫn một chiến
lược phát triển riêng. Nông nghiệp hữu cơ
gần như đi bên lề các chính sách tương tự,
ví dụ như phát triển nông nghiệp sạch, nông
nghiệp công nghệ cao. Do đó, người tiêu
dùng ở Việt Nam cũng hiểu khá mơ hồ về
nông nghiệp hữu cơ. Họ không phân biệt
được nông nghiệp hữu cơ với nông nghiệp
sạch hay nông nghiệp công nghệ cao. Đây
chính là thách thức lớn nhất để phát triển thị
trường tiêu thụ sản phẩm hữu cơ trong
Đào Thị Hoàng Mai, Kim Ki-hueng
53
nước, cũng như thiếu đi động lực để khuyến
khích các nhà sản xuất chuyển đổi từ nông
nghiệp thông thường sang hữu cơ.
Do giá cả của các sản phẩm hữu cơ là
tương đối cao so với các sản phẩm cùng
loại, nhu cầu về sản phẩm hữu cơ ở Việt
Nam chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn
với khách hàng là những đối tượng có thu
nhập trung bình trở lên, vì vậy, khó có thể
nói việc thiếu thông tin về các sản phẩm
hữu cơ xuất phát từ lý do trình độ nhận thức
của người tiêu dùng.
Kết quả khảo sát 220 người tiêu dùng
các sản phẩm rau và thịt an toàn tại Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, hơn
74% người trả lời cho rằng họ vẫn mua các
sản phẩm an toàn và hữu cơ trong khi
không hoàn toàn tin tưởng.
3.2. Về chứng nhận hữu cơ
Hiện nay, Việt Nam đã có Tiêu chuẩn ngành
10TCN 602:2006 về Hữu cơ [9], và bộ tiêu
chuẩn PGS của Việt Nam đã được IFOAM
công nhận, nhưng các hạ tầng phụ trợ cho
nông nghiệp hữu cơ (chứng nhận, xúc tiến
thương mại, cơ chế đầu tư, dịch vụ cung cấp
vật tư) hầu như chưa có gì. Về chứng
nhận hữu cơ, có 2 hình thức chứng nhận và
Việt Nam hiện đang áp dụng. Một là, chứng
nhận của bên thứ 3: tổ chức cấp chứng nhận
là một cơ quan độc lập, có thẩm quyền và
được công nhận. Hiện nay, các nhà sản xuất
hữu cơ của Việt Nam sử dụng chứng nhận
của bên thứ 3 thường là các nhà xuất khẩu.
Bên thứ 3 chứng nhận là của nước ngoài
(thường là của chính nước nhập khẩu). Việt
Nam chưa có tổ chức chứng nhận hữu cơ mà
mới chỉ có những tổ chức chứng nhận nông
nghiệp an toàn (như: VietGAP). Hai là,
chứng nhận có sự tham gia của các bên theo
PGS: đây là hình thức chứng nhận khi người
sản xuất tham gia vào một hệ thống được tổ
chức theo nhóm, theo dõi, giám sát lẫn nhau
và chịu sự giám sát của lãnh đạo nhóm, liên
nhóm, các nhà quản lý, hệ thống phân phối
và người tiêu dùng.
Từ kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy,
việc giám sát chặt chẽ các quy trình chứng
nhận là rất quan trọng để tránh tình trạng
cấp giấy chứng nhận giả. Ngay cả sau khi
đã có giấy chứng nhận thì việc thanh tra,
giám sát vẫn phải tiếp tục để tránh xảy ra
các vi phạm. Đồng thời, việc đề ra các chế
tài xử lý vi phạm cũng phải đủ mạnh để có
tính răn đe.
Trong bối cảnh chứng nhận của bên thứ
ba quốc tế quá cao, nhiều ý kiến cho rằng
cần phải thúc đẩy quá trình thành lập các tổ
chức chứng nhận trong nước để giảm chi
phí. Tuy nhiên, nếu năng lực quản lý của các
tổ chức này chưa đủ thì nguy cơ xảy ra
những sự cố gian lận như ở Hàn Quốc là
điều hoàn toàn có thể xảy ra. Vì vậy, trước
mắt, việc chứng nhận theo PGS vẫn là một
hướng đi khả thi hơn. Tuy nhiên, để tăng
mức độ uy tín của chứng nhận thì cần phải
tăng tính minh bạch. Cụ thể là phải có những
kênh thông tin truyền tải đến khách hàng để
họ hiểu biết hơn và tham gia vào giám sát
quá trình từ sản xuất đến phân phối.
3.3. Về phát triển thị trường hữu cơ trong nước
Trong bối cảnh thiếu sự tương đồng về tiêu
chuẩn giữa các quốc gia và rào cản kỹ thuật
đối với các sản phẩm hữu cơ là rất khắc
nghiệt, thị trường xuất khẩu là không khả
thi đối với các nhà sản xuất hữu cơ nhỏ. Vì
vậy, việc phát triển thị trường hữu cơ nội
địa là nền tảng quan trọng để phát triển
nông nghiệp hữu cơ.
Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 - 2019
54
Hiện nay, nhiều chính phủ, kể cả những
quốc gia phát triển và đang phát triển, đang
khuyến khích việc canh tác hữu cơ cũng như
mở rộng thị trường hữu cơ nội địa. Thực tế
cho thấy, nông nghiệp hữu cơ đã phát triển
theo cách “từ dưới lên” ở hầu hết các nước:
xuất phát từ nhu cầu thị trường, dẫn đến hình
thành các mô hình sản xuất và cuối cùng là
tạo áp lực xã hội để cho ra đời các chính
sách. Cầu về nông nghiệp hữu cơ có xu
hướng kéo các chính sách nông nghiệp đi
theo hướng bền vững [7, tr.28-31].
Mặc dù các yếu tố tác động đến cầu của
người tiêu dùng và mức độ ảnh hưởng của
từng yếu tố có thể khác nhau giữa các quốc
gia, các nghiên cứu thực địa đã chỉ ra rằng,
mối quan tâm đến sức khỏe là yếu tố luôn
được người tiêu dùng quan tâm. Ngoài ra,
các nước có nông nghiệp hữu cơ phát triển,
họ quan tâm nhiều đến vấn đề đạo đức, tác
động tới môi trường; trong khi các nước
mới bắt đầu thường quan tâm hơn đến sự
sẵn có và giá cả.
4. Kết luận
Việc phát triển nông nghiệp hữu cơ không
đặt ra những vấn đề kỹ thuật mà cần quan
tâm đến 2 vấn đề cốt lõi là thị trường (kết
nối cung - cầu) và quản lý. Người nông dân
luôn có khả năng để chuyển sang sản xuất
hữu cơ, nhưng bán sản phẩm như thế nào
mới là vấn đề mang tính quyết định. Vì vậy,
nhà nước cần có các giải pháp nhằm kết nối
mạng lưới các doanh nghiệp sản xuất hữu
cơ, hỗ trợ về mặt kỹ thuật và kết nối cung
cầu; cải tiến nhận thức cộng đồng về thực
phẩm sạch và an toàn. Cần có định hướng
phát triển nông nghiệp hữu cơ để đảm bảo
tính hiệu quả và bền vững cho kinh tế, môi
trường và xã hội.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2006), Quyết định số 4094 QĐ/BNN-KHCN,
ngày 29 tháng 12 năm 2006 về Hữu cơ - tiêu
chuẩn về sản xuất nông nghiệp hữu cơ và chế
biến, Hà Nội.
[2] Thủ tướng Chính phủ (1018), Nghị định số
109/2018/NĐ-CP, ngày 29 tháng 8 năm 2018
về Nông nghiệp hữu cơ, Hà Nội.
[3] FAO/WHO Codex Alimentarius Commission
(1999), Guidelines for the Production,
Processing, Labelling and Marketing of
Organically Produced Foods.
[4] FIBL & IFOAM - Organics International
(2017), The world of organic agriculture:
Statistics & Emerging Trends 2017.
[5] Paull J. (2009), “Korea Rediscovers Organic
Agriculture”, Journal of Bio-Dynamics
Tasmania, Issue 95.
[6] Rana J., J. Paul (2017), “Consumer behavior
and purchase intention for organic food: A
review and research agenda”, Journal of
Retailing and Consumer Services, 38.
[7] Scialabba N. (2000), Factors influencing
organic agriculture policies with a focus on
developing countries, IFOAM 2000 Scientific
Conference, Basel, Switzerland.
[8] USDA (1980), Report and recommendations
on organic farming.
[9] https://vanbanphapluat.co/10tcn-602-2006-
huu-co-tieu-chuan-ve-san-xuat-nong-nghiep-
huu-co-va-che-bien
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_phat_trien_nong_nghiep_huu_co_o_han_quoc_va_ham_y.pdf