Chính sách thương mại nội địa và quốc tế của Indonesia

Tình hình khung hoảng tài chính tại Hoa kỳ đang có tác động trăng trưởng đến nền kinh tế toàn cầu.Tuy nhiên các quan chức kinh tế trong Chính phủ Indo cho rằng nền kinh tế không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi cuộc khủng hoảng này, nền kinh tế cũng như tài chính quốc gia từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á đến nay đã hồi phục và tăng trưởng vững chắc.Tổng dư nợ tích lũy ( NPL) 6 tháng đầu năm 2008 chỉ 4,1% tương đương 5,28 tỷ USD, thấp hơn con số 4,6% ở thời điểm cuối năm ngoái , trong khi ngân hàng trung ương yêu cầu con số này là 5%. Phó tổng thống KaLa khẳng định, cho dù kinh tế có suy giảm, các nước khác vẫn phải nhập khẩu thiếc, Titan, Niken,khoáng sản,dầu cọ, cà phê, cao su, ca cao, những sản phẩm XK chiếm ưu thế của Indonesia trên thị trường thế giới . Sáu tháng đầu năm nay Indonesia xuất khẩu vào thị trường thế giới đạt 70,45 tỷ USD, tăng 29,6%; nhập khẩu 65,05 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2007, đạt thặng dư thương mại 5,40 tỷ USD. Tuy nhiên, Bộ Thương mại cho biết, hoạt động xuất nhập khẩu 6 tháng cuối năm sẽ giảm sút so với nửa đầu năm 2008 các đối tác Hoa kỳ đang phải trải qua thời kỳ hết sức khó khăn và giảm nhu cầu nhập khẩu. Hiện nay hàng xuất khẩu của Indonesia sang thị trường Hoa kỳ chiếm tỷ trọng 10-12% tổng kim ngạch xuất khẩu của Indonesia. Vừa qua chính phủ đã quyết định điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu phi dầu khí năm 2009 từ 11,5% xuống 10,9%.

doc50 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách thương mại nội địa và quốc tế của Indonesia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngoại. - Ngoài ra còn có các sản phẩm như: đồ dân dụng, cao su và những sản phẩm cao su, giày dép. Các sản phẩm tiềm năng - Tinh dầu - Cá và những sản phẩm cá - Nghè thủ công - Chế tạo đồ nữ trang 2.2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA INDONESIA 2.2.1 Thực trạng thương mại nội địa 2.2.1.1 Một vài thông số liên quan Doanh thu một số cửa hàng bán lẻ STT Cửa hàng bán lẻ Chuyên mục Đa/ trong nước Doanh thu 2007($ m) 1 Matahari putra prima Phòng cửa hàng và siêu thị Trong nước 1050,3 2 Hero supermarket Siêu thị Trong nước 553,4 3 Ramayana Lestari Sentosa Phòng cửa hàng và siêu thị Trong nước 526,1 4 Mitra Adiper Kasa Bên nhận quyền kinh doanh và phân phối Trong nước 293,8 5 Alfa Retailindo Mini Mart Trong nước 259,1 6 Catur Sentosa Adiprana Cửa hàng đặc sản Trong nước 229,5 7 Fastfood Indo Nhà hàng Trong nước 120,2 8 Gunung Agung Cửa hàng sách Trong nước 119 Doanh thu của các công ty sản xuất hàng tiêu dùng STT Công ty Chuyên mục Đa/ trong nước Doanh thu($ m) 1 Sampoerra Sx thuốc lá Trong nước 3,202.8 2 Gudang Garam Sx thuốc lá Trong nước 2,027.7 3 Indo food Thực phẩm Trong nước 2,995.5 4 Unilever Indonesia Mỹ phẩm, gia dụng, thực phẩm Đa quốc gia 1,348.9 5 Kalbe Farma Dược phẩm Trong nước 554,1 6 Tempo scan Pacific Dược phẩm Trong nước 335,9 7 Mayora Indah Tbk Thức ăn& nước giải khát Trong nước 304,1 8 Kimia Farma Tbk Dược phẩm Trong nước 254,1 Thu nhập/ Sức mua - Theo số liệu từ cuộc khảo sát kinh tế xã hội năm 2002, mức tiêu dùng bình quân hàng tháng tính theo đầu người ở khu vực thành thị là IDR 273,294 trong khi đó ở khu vực nông thôn là IDR 152.784. Nhìn chung mức tiêu dùng bình quân hàng tháng tính theo đầu người ở Indonesia là IDR 206.336 trong đó 58.5% là tiêu dùng cho thực phẩm, 41.5% là tiêu dùng cho những mặt hàng khác. 2.2.1.2.Chính sách trong TMNĐ a. Thuế Chính phủ mới đây vừa xem xét điều chỉnh lại những điều khoản bổ sung trong chính sách thuế, từ đó thông qua mức thuế 10% áp dụng cho các sản phẩm bán lẻ trên toàn bộ các cửa hàng bán lẻ hiện đại. Chính sách mới này được nêu rõ trong khoản Kepmenkeu No. 253/2003 về thuế áp dụng cho các mặt hàng bán lẻ, và được thông qua vào ngày 31/5/2003 đồng thời được áp dụng vào 1/6/2003. Mức thuế này cũng được áp dụng cho hệ thống bán lẻ tất cả các sản phẩm ngành nông nghiệp cũng như ngành chăn nuôi và ngành đánh bắt cá. Tuy nhiên chính sách này sẽ không hiệu quả đối với những thương nhân bán lẻ hoạt động trong khu vực thị trường truyền thống. Một vài nhà bán lẻ hiện đại đang băn khoăn về việc thi hành mức thuế mới áp dụng cho những sản phẩm đã được thông qua vì việc này sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng, mức giá sẽ tăng 10% hoặc hơn thế nữa. Quyết định này của chính phủ chỉ nhằm tập trung vào bảo vệ lợi ích của những nhà bán lẻ trong nước và tăng tổng doanh thu từ thuế. Tuy nhiên động thái này cũng đặt thêm gánh nặng lên vai các nhà sản xuất và có thể người sẽ phải hứng chịu hậu quả từ việc tăng giá sản phẩm. b. Tự do trong việc bán lẻ Chính sách The SK Meninvest/No. 29/SK/1998 and Keppres No.99/1998 đã mở ra một thị trường bán lẻ hiệu quả bằng việc cho phép các công ty nước ngoài đầu tư vào khu vực bán buôn bán lẻ trong nước. Chính sách này cũng giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng hơn trong việc thâm nhập vào thị trường bán lẻ của Indonesia, bằng cách tạo nhiều cơ hội hơn không chỉ cho họ mà còn cho cả những nhà bán lẻ trong nước. Chính sách cơ cấu lại nền kinh tế của Indonesia đã được ký kết vào 1/1998 giữa chính phủ Indonesia và quỹ tiền tệ IMF đã chỉ ra tầm quan trọng của vai trò chính phủ trong việc mở rộng ngành công nghiệp bán lẻ. Bản thỏa thuận cũng ghi rõ chính phủ Indonesia phải hoàn toàn ủng hộ việc buôn bán tự do trong các khu vực bản lẻ. Như một kết quả của chính sách toàn cầu hóa bán lẻ được thông qua bởi chính phủ Indonesia, các nhà bán lẻ nước ngoài được tự do phát triển và mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình ở Indonesia. Vì vậy những nhà bán lẻ trong nước sẽ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và không lâu nữa sẽ được bảo hộ bằng chính sách khác. Hiện tại đang là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài có vốn lớn dễ dàng mở rộng mạng lưới của mình và mua lại các công ty trong nước. Thực vậy, đây là thực trạng đang xảy ra ở siêu thị PT Hero, một siêu thị có 12% cổ phần thuộc về công ty sữa Dairy Farm. c. Chính sách tiêu dùng Chính sách tiêu dùng được quy định trong luật No.8/1999 ban hành ngày 20/4/1999 về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng phù hợp với hướng dẫn của Liên Hiệp Quốc. Bộ luật xoay quanh những vấn đề phúc lợi xã hội, đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng trong các vụ giao dịch thương mại. Bộ luật ngăn cấm hành vi trái đạo đức của các doanh nghiệp, người bán và buộc hộ phải bồi thường những khoản tổn thất cho người tiêu dùng khi người tiêu dùng sử dụng hàng hóa dịch vụ không tốt được cung cấp bởi các doanh nghiệp hay người bán này. Bộ luật dựa trên nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa người bán và người mua. Theo bộ luật, những người nhập khẩu hàng hóa sẽ phải chịu trách nhiệm nếu hàng hóa đó không được cho phép nhập khẩu bởi một cơ quan hay đại diện của nhà sản xuất nước ngoài. Theo luật No.23 ban hành năm 1992 về sức khỏe, các sản phẩm thực phẩm được phép nhập khẩu yêu cầu phải có mã số đăng ký từ tổ chức kiểm định thực phẩm trước khi phân phối vào thị trường nội địa. 2.2.1.3. Các xu hướng và vấn đề then chốt trong TMNĐ Trong giới hạn của thị phần thị trường, tài khoản của các nhà bán lẻ ở vào khoảng IDR 35.5 nghìn tỉ, dựa trên mạng lưới 2815 cửa hàng trên toàn Indonesia. Trong khi những cửa hàng bán lẻ hiện đại tập trung chủ yếu ở Java ( 87.5 % hoặc 2595 cửa hàng), thì những cửa hàng bán lẻ truyền thống lại trải rộng ngoài vùng Java với khoảng 12.5% tương đương với 378 cửa hàng. Nơi tập trung lượng lớn nhất các cửa hàng bán lẻ là Jabotabek với khoảng 1633 cửa hàng ( chiếm khoảng 54.5 % ). 10 nhà bán lẻ lớn nhất được ước tính chiếm khoảng 70% thị trường, trong đó Matahari chiếm thị phần lớn nhất với 13.5%, tiếp theo là Marko 12%, Alfa 8.5%,Ramayana 8.5% và Carrefour 7.6% ( số liệu chỉ mang tính ước tính ). Doanh thu 1 số siêu thị lớn trong thị trường nội địa Indonesia Siêu thị Doanh số ( tỷ IDR ) Matahari Putra Prima 5980 Makro Indonesia 5396 Alfa retailindo 3769 Ramayana Lestari Sentosa 3650 Carrefour Indonesia 3504 Hero supermarket 2948 Indomacro Prismatama 2263 Intica Krawala Corporation 2033 Goro Bhatara Sakti 1170 Lion super Indo 985 Độc quyền các cửa hàng: Kể từ đầu 2000 đã có một xu hướng mua sắm tại các cửa hàng độc quyền. Cửa hàng như Giordano, Levi's, G2000, và rất nhiều các thương hiệu sản phẩm hàng hóa thể thao như Adidas, Nike và Reebok đang lên mạnh mẽ mở các cửa hàng trong thành phố lớn ở Indonesia. Ngoài ra, các cửa hàng đầu trang thiết kế như Prada và Louis Vuitton đã mở cửa hàng trong khu mua sắm cao cấp bảo hiểm. Việc tăng số lượng hypermarkets: Trong 5 năm qua, Hypermarkets đóng một vai trò quan trọng. Carrefour, Hypermart và Giant dẫn đầu trong ngành công nghiệp. Trong quá khứ, trên thị trường bị chi phối bởi cửa hàng bách hóa và siêu thị của địa phương như Matahari, Rimo, Hero siêu thị, Indomart, vàng và Gelael Truly. Trải qua thời gian, vai trò này đang được thực hiện bởi những siêu thị. Matahari đã trở thành một hypermart, trong khi Hero đã được thực hiện trên của Giant. Nhãn riêng bởi Hypermarket: Hypermarkets đã bắt đầu bán hàng cho các nhãn của riêng mình, đặc biệt là đối với các sản phẩm có rủi ro thấp, dễ dàng để sản xuất, có ít khách hàng trung thành và đáp ứng các nhu cầu cơ bản. Với những nhãn hiệu riêng của mình hypermarket có thể cung cấp mức giá thấp hơn. Tư nhân phổ biến nhất là các nhãn cho các giấy, bông, sợi, sạch, bao nhựa, bao bì, gạo, dầu nấu ăn và các loại thực phẩm đông lạnh. Một số thậm chí có hypermarkets riêng của họ nhãn điện tử gia dụng và thời trang may. Xu hướng phát triển đến nhượng quyền thương mại: Xu hướng này bắt đầu vào giữa 1990 và đã được giới thiệu của Indomart, rồi sau đó sử dụng của các nhà bán lẻ khác. Mitra Adi Perkasa (MAP) là một trong những hoạt động mua, có giấy phép cho Sogo, Debenhams, cửa hàng hàng đầu (Phòng Nghiệp), Kinokuniya (sổ lưu), Starbucks, Krispy Kreme và các nhãn hiệu thời trang may như zara, Tiếp và Massimo Dutti. MAP chiếm không gian bán lẻ lớn và đã trở thành người thuê nhà của một số phố buôn bán sang trọng ở jakarta và Surabaya. Tăng thị phần của các nhà bán lẻ nước ngoài : việc các nhà bán lẻ nước ngoài tiếp tục thâm nhập vào thị trường Indonesia, những nhà bán lẻ nội địa phải nỗ lực để cạnh tranh. Và cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn sau cuộc tổng tuyển cử chung năm 2004. 2003 ,các nhà bán lẻ nội địa chiếm 74.3% thị phần, trong khi các nhà bán lẻ nước ngoài chiếm 25.7%. Nhưng con số này đã thay đổi vào năm 2007, các nhà bán lẻ nước ngoài sẽ tăng thị phần của mình lên mức 31.1% trong khi thị phần các nhà bán lẻ nội địa giảm xuống còn 68.9%. Các sản phẩm tiêu dùng + Địa phương mua lại thương hiệu / công ty của multinationals: Trong vài năm qua kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998, có một xu hướng phát triển kinh doanh và mua lại thương hiệu ở Indonesia. Các ví dụ bao gồm đầu trang mua bán nước đóng chai, Aqua của DANONE; việc mua lại phần lớn stake in soy sauce-maker của công ty ABC HJ Heinz; Ades mua lại công ty nước đóng chai của Coca-Cola Co; mua lại của các công ty thuốc lá lớn thứ ba hm Sampoerna của Philip Morris, và mua lại của một số địa phương dẫn đầu các thương hiệu như Bango, Sariwangi, Taro, Buavita & Gogo nước ép trái cây của công ty Unilever Indonesia. Với việc mua lại các đa được truy cập vào các địa phương trên thị trường và phân phối + Indonesia, với dân số hơn 220 triệu người, là thị trường tiềm năng lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á. Với sự tự do thương mại khu vực Asean, Indonesia sẽ trở thành một trong những cơ sở xuất khẩu tới các nước ASEAN. Việc tăng chi phí sản xuất và khả năng vượt qua trên cho khách hàng: Chi phí ngày càng tăng ở hầu hết các lĩnh vực, bao gồm cả việc bán lẻ và người tiêu dùng của khu vực. Điều này đặc biệt đúng với những quyết định gần đây của chính phủ tăng giá nhiên liệu và giá điện. Là một tác động làm tăng chi phí trong giao thông vận tải, lương và các chi phí. Các vấn đề phải đối mặt của các nhà sản xuất là bao nhiêu có thể được thông qua cùng với những khách hàng mà không gây tổn hại đáng kể nhu cầu. Một số doanh nghiệp bán lẻ nội địa đã bắt đầu khôi phục lại vị trí của mình trên thị trường. Matahari đã quay trở lại khung Galeria, cùng với Mega M dưới thương hiệu “ Matahari”. Động thái này tập trung chủ yếu vào các tầng lớp trung lưu trên thị trường. Năm 2003, Matahari mở một trung tâm mới dưới hính thức siêu thị lấy tên là “ khu mua sắm Matahari”. Tương tự như vậy, So Rimo, doanh nghiệp mà trước đây thường hướng tâm điểm vào giới thượng lưu thì hiện tại cũng đang tập trung vào tầng lớp trung lưu trên thị trường. Chiến dịch được thực hiện bởi Matahari, So Rimo, và Hero này đã tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường trung và hạ lưu, một thị trường nhiều tiềm năng. 2.2.1.4 Một số khó khăn của doanh nghiệp sản xuất trong thị trường nội địa - Nguy cơ cao về tình hình chính trị: một trong những trăn trở lớn nhất của các thương nhân trong nước cũng như nước ngoài về việc mở rộng hoạt động tại thị trường Indonesia là đất nước này có nguy cơ cao về tình hình chính trị bất ổn. Tuy nhiên những nhà bán lẻ này vẫn có cái nhìn rất lạc quan. Mặc dù Wal – Mart đã rút khỏi thị trường nước này từ một vài năm trước, Marko cũng cắt giảm kế hoạch mở rộng của mình, xong , Dairy Farm,Carrefour và thậm chí cả Tesco vẫn rất hứng thú cả trong việc gia nhập thị trường nội địa lẫn mở rộng sự hoạt động của mình. - Các doanh nghiệp đối phó với chi phi SX cao do tham nhũng, cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật còn yếu kém, chính sách thuế, thủ tục hành chính, phức tạp trong thủ tục cấp phép và chấp thuận, qui định lao động cứng nhắc. - Ảnh hưởng từ các quy định Những chính sách mà chính phủ thông qua liên quan đến các nhà bán lẻ và những nhà thầu các trung tâm mua sắm đã đặt gánh nặng lên vai người tiêu dùng. Trong khi chính phủ đưa ra rất nhiều lý do để tăng thuế và thu nhập của người dân địa phương, những nhà cung cấp này vẫn sẽ áp đặt phần chi phí tăng thêm lên người tiêu dùng. Đối phó với chính sách tăng giá điện, gas, tăng mức thuế VAT và thuế đậu xe, hầu hết các nhà cung cấp đều sẽ tăng giá sản phẩm của mình lên 2 – 3%. Việc đặt giá này khiến cho lợi nhuận của những nhà kinh doanh không bị giảm sút. Và dĩ nhiên, người tiêu dùng là người phải gánh chịu hậu quả. 2.2.2 Thực trạng thương mại quốc tế 2.2.2.1 Tình hình xuất- nhập khẩu của Indo Xuất khẩu Đối tác xuất khẩu hàng đầu: Nhật bản 21,1%, Hoa kỳ 11,5%, Singapo 9,2%, Hàn Quốc 8,3%, Trung Quốc 7,8%, Malaixia 4% (2005) Các đối tác xuất khẩu chính của Indonesia Xuất khẩu trong tháng 8/2008 của Indonesia giảm 0,43% so với tháng 7/2008, từ 12.553 triệu USD xuống 12.499 triệu USD. Tuy nhiên so với cùng kỳ năm 2007 thì lại tăng 30,26%. Xuất khẩu trong tháng 8/2008 giảm do các mặt hàng phi dầu khí giảm 1,20% , từ 9.679 triệu USD xuống 9.562 triệu USD. Trong khi đó xuất khẩu dầu và khí gas chỉ tăng 2,19% từ 2.874 triệu USD lên 2.937 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng ước đạt 105,95 tỷ USD, tăng 28,40% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu phi dầu khí ước đạt 82,30 tỷ USD, tăng 28,59% so cùng kỳ năm 2007. Trong đó, xuất khẩu sang các nước trong khối ASEAN 18,05 tỷ USD; sang EU 11,01 tỷ USD; sang Trung quốc 6,02 tỷ USD; Nhật 10,10 tỷ USD; Mỹ 9,21 tỷ USD; Úc 1,52 tỷ USD Hàn Quốc 3,3 tỷ USD; Đài Loan 2,05 tỷ USD Bảng tóm tắt tình hình xuất khẩu của Indonesia tháng 1 – 2 năm 2007 - 2008 # Lĩnh vực Giá trị tính theo giá FOB ( triệu đô ) Tỉ lệ % trong T2/08 Thay đổi trong T1 & T2/ 08 Tổng giá trị tính theo giá FOB ( triệu đô ) Tỉ lệ % trong T1 & T2/08 Thay đổi trong T1 & T2/ 08 - 07 T1/08 T2/08 Giá trị % T1 & T2/ 07 T1 & T2/ 08 Giá trị % 1 Tổng giá trị xuất khẩu 11,085.0 10,532.5 100.00 -552.5 -4.98 16,517.1 21,617.5 100.00 5,100.4 30.88 2 Dầu lửa và khí tự nhiên 2,215.6 2,381.1 22.61 165.5 7.47 2,989.6 4,596.7 11.90 1,607.1 53.76 Dầu thô 832.3 1,078.5 10.24 246.2 29.58 1,236.9 1,910.8 4.95 673.9 54.48 Các sản phẩm từ dầu 258.9 225.3 2.14 -33.6 -12.98 390.7 484.2 1.25 93.5 23.93 Khí tự nhiên 1,124.4 1,077.3 10.23 -47.1 -4.19 1,362.0 2,201.7 5.70 839.7 61.65 3 Phi dầu lửa và khí tự nhiên 8,869.4 8,151.4 77.39 -718.0 -8.10 13,527.5 17,020.8 44.05 3,493.3 25.82 b. Nhập khẩu Nhập khẩu tháng 8 giảm 7,42% so với tháng 7/08, đạt 11.864 triệu USD nhờ giảm nhập khẩu dầu và khí 19,06% và giảm nhập khẩu các mặt hàng phi dầu khí 2,92%. Tổng trị giá nhập khẩu 9 tháng năm nay ước 95,46 tỷ USD, tăng 76,61% so cùng kỳ năm 2007. Trong đó, hàng nhập khẩu được bảo thuế là 18,225 tỷ USD chiếm 19,1%. Nhập khẩu 10 mặt hàng chính chiếm tỷ trọng 80,38%, gồm: Hàng điện tử chiếm 29,52%, thiết bị cơ khí chiếm 18,44%; ô tô, xe máy và phụ tùng chiếm 08,35%; nhựa và sản phẩm nhựa chiếm 05,06%, thép các loại chiếm 8,62%; bông chiếm 03,45%; đồng đỏ chiếm 2,84%; hàng dệt may chiếm 02,63%;dụng cụ, thiết bị quang học chiếm 2%. Nhập khẩu từ các nước ASEAN chiếm 37,85% ( riêng nhập khẩu từ Singapore chiếm 27,98% ), từ EU chiếm 05,53%, từ Nhật Bản chiếm 20,95%, từ Hàn Quốc 8,99%; từ Trung quốc 8,29%. Bảng tóm tắt tình hình nhập khẩu của Indonesia tháng 1 – 2 năm 2007 - 2008 # Lĩnh vực Giá trị tính theo giá CIF (Triệu đô ) Tỉ lệ % trong T2/08 Thay đổi trong T1 & T2 /2008 Tổng giá trị tính theo giá CIF ( triệu đô ) Tỉ lệ % trong T1& T2/08 - 07 Thay đổi trong T1 & T2 / 08 - 07 T1/08 T2/08 Giá trị % T1 & T2/07 T1 & T2/08 Giá trị % 1 Tổng giá trị nhập khẩu 10,059.8 9,932.6 100.00 -127.2 -1.26 13,026.4 19,992.4 100.00 6,966.0 53.48 2 Dầu lửa và khí tự nhiên 1,930.3 2,504.8 25.22 574.5 29.76 2,494.6 4,435.1 22.18 1,940.5 77.79 Dầu thô 971.8 807.4 8.13 -164.4 -16.92 963.6 1,779.2 8.90 815.6 84.64 Các sản phẩm từ dầu 958.5 1,692.9 17.04 734.4 76.62 1,531.0 2,651.4 13.26 1,120.4 73.18 Khí tự nhiên 0.0 4.5 0.05 4.5 - 0.0 4.5 0.02 4.5 0.00 3 Phi dầu lửa và khí tự nhiên 8,129.5 7,427.8 74.78 -701.7 -8.63 10531.8 15557.3 77.82 5,025.5 47.72 2.2.2.2 Các chính sách trong thương mại quốc tế a.Chính sách thuế quan Để thực hiện các cam kết trong Vòng Uruguay, Indonesia triển khai thực hiện thay đổi đáng kể trong các ràng buộc MFN Thuế qua giai đoạn 1996-2003 (Bộ trưởng Bộ Tài chính theo Nghị định số 378/KMK.01/1996). Ngoài ra, nó đã bắt đầu biết thêm, để thực hiện các thay đổi trong các MFN áp dụng tỷ lệ theo chương trình hài hòa thuế quan của ASEAN giai đoạn 2005 đến năm 2010, cũng như giảm tỷ lệ AFTA ưu đãi, phù hợp với quan điểm của mình về tầm quan trọng của việc tích hợp bên trong Châu Á khu vực. Tuy nhiên để phù hợp với lợi ích quốc gia, lợi ich kinh tế, một số sản phẩm đã được loại trừ khỏi kế hoạch giảm thuế. Đây là những sản phẩm chủ yếu trong nông nghiệp, hóa chất, nhựa, kim loại, rượu và các ngành ô tô, cũng như các sản phẩm liên quan đến an ninh.Các kế hoạch giảm thuế cho các sản phẩm này đã được quy định tại nghị định số 542/KMK.01/1997 Việc thực hiện các chương trình thuế, giảm thuế Indonesia đã thay đổi cơ cấu đáng kể. Trong năm 1995, trung bình thuế suất là 15,6 phần trăm, với mức giá khác nhau, từ 0 đến 10 phần trăm bao gồm 3832 dòng thuế (hoặc chỉ cần hơn nửa trong tổng số là 7386 dòng thuế). Năm 1996, trong năm khi các chương trình lần đầu tiên được đưa ra, tỷ lệ trung bình đã từ chối đến 13 phần trăm, với một mở rộng của các mức giá nằm trong khoảng 0-10 phần trăm đến 56 phần trăm dòng. cuối cùng của chương trình giảm thuế (2003), trung bình giá đã giảm đến 7,2%, trong khi mức giá nằm trong khoảng 0-10 phần trăm đã tăng lên 83,4 phần trăm dòng. Trong năm 2004, một năm sau khi kết thúc chương trình giảm thuế, Indonesia áp dụng thuế mới, phân loại theo " ASEAN Harmonized Tariff Nomenclature" (AHTN) như là một phần của Indonesia cam kết theo AFTA. Như đã nêu ở trên, mục đích của chương trình là giảm dần dần và hài hòa hóa các mức giá, nhằm làm giảm phân biệt, các ngành, trong khi bảo quản độ tổng mức độ hỗ trợ cho khu vực sản xuất trên một cơ sở MFN. Chương trình ngoài 2010 chưa được hoàn thành. Với sự phân loại mới, tổng số thuế hàng tăng mạnh trong năm 2003 từ 7540 đến 11163 vào năm 2004. Với tư cách là một kết quả của các kỹ thuật phân loại thay đổi, tỷ lệ thuế quan cũng đã thay đổi, và thuế quan trung bình tăng lên 9,9%, với tỷ lệ từ 0 đến 10 phần trăm bao gồm 8387 dòng thuế (75 phần trăm tổng số 11163 dòng thuế). Với tư cách là một tiếp tục của các chương trình giảm thuế, Indonesia đã giới thiệu các chương trình hài hòa thuế cho giai đoạn 2005-2010. Theo chương trình, trung bình thuế đạt 9,5 phần trăm trong năm 2006, với tỷ lệ 0-10 trong một phạm vi bao gồm thuế dòng 8365 hay 74,9 phần trăm tổng số. Theo kế hoạch 94% các hạng mục sẽ được giảm thuế suất dưới 10%, 6% còn lại sẽ được giảm 10% đến năm 2020. 2004 2006 2008 2010 Thuế suất Khoản mục tính thuế % trong tổng khoản mục Khoản mục tính thuế % trong tổng khoản mục Khoản mục tính thuế % trong tổng khoản mục Khoản mục tính thuế % trong tổng khoản mục 0 2334 21 2454 22 2320 23 557 5 5 4344 39 4134 37 3839 38 6008 59 8 0 0 74 1 17 0 119 1 10 1709 15 1703 15 1663 16 2835 28 13 0 0 42 0 88 1 0 0 15 1562 14 1562 14 1603 16 163 2 20 305 3 590 5 122 1 21 0 25 340 3 31 0 44 0 6 0 30 11 0 43 0 13 0 14 0 >=35 541 5 523 5 469 5 455 4 b. Hạn ngạch thuế quan Hiện nay Indonesia không sử dụng hạn ngạch thuế quan c. Phi thuế quan Từ lần xem xét chính sách thương mại Indonesia năm 1998, chính phủ Indonesia đã xóa bỏ một số hàng rào thuế quan như: - Xóa bỏ hạn chế trên lĩnh vực nhập khẩu sữa trong Approved Importer ( IT ) và thay bằng General Importer ( IU ), đồng thời xóa bỏ lệnh cấm nhập khẩu cây đinh hương dưới quy định BPPC trong IU - Giảm bớt sự hạn chế nhập khẩu lúa gạo - Nới lỏng việc nhập khẩu ô tô, mặt hàng trước đây chỉ được phép nhập khẩu bởi IU hoặc Register Importer/ Sole Agent ( AT ) - Nới lỏng việc nhập khẩu đường và lúa gạo, mặt hàng trước đây chỉ được phép nhập khẩu Bộ trưởng bộ công nghiệp và thương mại đã đề xuất sắc lệnh No. 732/MPP/Kep/10/2002 trong thủ tục nhập khẩu hàng dệt may, trong đó những mặt hàng quan trọng chỉ được phép nhập khẩu bởi . Việc này nhằm ngăn chặn sự phân phối lậu những mặt hàng dệt may quan trọng trên thị trường Indonesia, tránh việc buôn bán bất hợp pháp và gây tổn hại đến mặt hàng dệt may nội địa và duy trì một môi trường kinh doanh tốt. d. Chính sách cạnh tranh Trong những năm gần đây, chính phủ Indonesia đã có nhiều tiến bộ trong việc bãi bỏ quy định trong chính sách thương mại. Thuế nhập khẩu, giấy phép và sự kiểm soát xuất khẩu gần như được giảm thiểu nhằm tăng môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước trên cả thị trường nhập khẩu và xuất khẩu. Bộ luật No.5/1999 liên quan đến vấn đề cấm độc quyền và cạnh tranh thương mại không công bằng được ban hành năm 1999. Mục tiêu của bộ luật này là bảo vệ lợi ích của cộng đồng và tăng tính hiệu quả kinh tế của quốc gia như một nỗ lực nhằm: tăng phúc lợi xã hội cho con người; thiết lập một môi trường kinh doanh có lợi đảm bảo cơ hội kinh doanh là bình đẳng bất kể là doanh nghiệp lớn, vừa hay nhỏ; ngăn chặn độc quyền và cạnh tranh không công bằng; tạo hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh. Bộ luật đồng thời cũng kiểm soát gắt gao tất cả những hành vi phi cạnh tranh. Chiến lược để giảm tình trạng buôn lậu + Sử dụng mã nhập khẩu đặc biệt. Chính sách này sẽ được thực hiện bắt đầu từ 6/5/2002 + Kiểm soát đăng ký của các hãng nhập khẩu + Thực hiện mức chuẩn hóa cho các sản phẩm nhập khẩu và nội địa + Kiểm soát sự thực thi chính sách Thực hiện cấp phép chất lượng cho các sản phẩm nhập khẩu Để cải thiện hoạt động cho phù hợp với lợi thế so sánh của nền kinh tế, Indonesia loại trừ các biệ pháp phi thuế quan đặc biệt là việc sử dụng giấy phép nhập khẩu hiện nay có giới hạn cho các nguyên vật liệu nguy hiểm, chất nổ, rượu , muối, dệt may và các sản phẩm dệt, máy móc thiết bị. Mới đây Bộ trưởng Thương mại Indonesia mới ban hành quy định yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu phải sử dụng tín dụng thư (LC) khi giao dịch các mặt hàng là nguyên liêu thô. Quy định này bắt đầu có hiệu lực từ tháng 3/2009 Quy định này nằm trong kế hoạch bảo hiểm tài chính thương mại của chính phủ Indonesia nhằm áp dụng thêm các biện pháp bảo hiểm doanh nghiệp xuất khẩu khi thâm nhập vào các thị trường mới hoặc làm ăn với các đối tác nước ngoài trong bối cảnh nguy cơ xù thanh toán ngày càng tăng khi kinh tế toàn cầu khó khăn. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách bảo hộ khá cao đối với các sản phẩm trong nước đã tạo môi trường kinh doanh không thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. e. Chính sách tỉ giá Để cải thiện cán cân xuất nhập khẩu, Indonesia thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ. 2008 trượt giá 14%, 2007 là 17% với USD. Đồng Rupial / 1 USD: 12,470 ( 2008 ); 10000( 2007 ); 9,159.3 ( 2006 ); 9,704.79 ( 2005 ); 8,938.9 ( 2004 ); 8,557,1 ( 2003 ); 9,311.2 ( 2002 ) Chính sách tỉ giá là một trong những công cụ hiệu quả trong việc điều chỉnh cán cân thương mại. 2.2.2.3.Chính sách trong một số ngành cụ thể a. Lúa mỳ Nhu cầu của Indonesia khoảng 7 triệu tấn lúa mỳ/năm. Tuy nhiên sản xuất trong nước hiện nay chỉ đạt khoảng 3,3 triệu tấn/năm. Các nhà sản xuất bột mỳ vẫn phải phụ thuộc phần lớn vào lúa mỳ nhập khẩu. Indonesia phải nhập khẩu khoảng 4,4 triệu Tấn lúa mỳ/năm, chiếm 90% lượng nguyên liệu thô cho sản xuất bột mỳ trong nước. Hiệp hội các nhà sản xuất bột mỳ Indonesia (APTINDO) kiến nghị Chính phủ áp dụng mức thuế giá trị gia tăng 0% đối với mặt hàng này nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Indonesia. b. Sản phẩm sữa Bộ Trưởng Bộ Y tế Indonesia Siti Fadilah Supari cho biết, tạm thời Indonesia cấm nhập khẩu các sản phẩm sữa có xuất xứ từ Trung Quốc. Các loại sữa này sẽ không được lưu hành trên thị trường Indonesia cho đến khi các cơ quan hữu quan của Indonesia tiến hành xong công tác kiểm tra và có kết luận cuối cùng. Trước mắt, chỉ có một loại sữa của Trung quốc có tên là "Guozhen" được phép lưu hành trên thị trường Indonesia do có giấy phép của Cơ quan Vệ sinh an tòan thực phẩm và dược phẩm của Indonesia (BPOM) cấp. BPOM đang kêu gọi mọi người dân tăng cường hợp tác với chính quyền bằng cách thông báo ngay cho các cơ quan chức năng các loại sữa nhập khẩu từ Trung quốc không có số đăng ký của BPOM. c. Hàng dệt may Công nghiệp dệt may hiện nay vẫn là ngành công nghiệp chủ chốt trong nền kinh tế Indonesia. Dự kiến xuất khẩu dệt may năm 2009 sẽ đạt 11,8 tỷ USD so với khoảng 11 tỷ USD trong năm nay. Vừa qua, Bộ Thương mại ban hành nghị định 15/M-DAG/PER/5/2008, theo đó số lượng mặt hàng hạn chế nhập khẩu giảm từ 84 xuống còn 74 mặt hàng. Hiệp hội dệt may( API) cho biết, trong năm nay có ít nhất là 7 mặt hàng trong biểu thuế hài hòa Hải quan được thực hiện hai bước đầu tiên về tự do hóa nhập khẩu. Tuy nhiên API vẫn kiến nghị Chính phủ thực hiện việc kiểm tra để ngăn chặn hàng dệt may nhập lậu. API cũng đề nghị chính phủ tăng thuế từ 10% lên 20%, và từ 15% lên 25% nhằm giúp cho hàng nội địa cạnh tranh với hàng dệt may nhập khẩu. 2.3 QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – INDONESIA 2.3.1 Quan hệ giữa 2 nước Ngày thiết lập quan hệ ở cấp Tổng Lãnh sự quán (12/1955) và nâng lên cấp Đại sứ quán (15/8/1964, được coi là ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao). Các Hiệp định ký kết giữa hai nước: Hiệp định Thương mại ký ngày 8/11/1978(đã thay thế bằng Hiệp định mới ký ngày 23/3/1995); Hiệp định về hợp tác kinh tế, KHKT (21/11/1990); Hiệp định về việc thành lập UBHH hai nước (21/11/1990); Hiệp định Khuyến khích và bảo đảm đầu tư (25/10/1991); Hiệp định vận tải biển (25/10/1991); Hiệp định vận chuyển hàng không dân dụng (25/10/1991); Hiệp định hợp tác lâm nghiệp (05/11/1991); Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần (22/12/1997); Biên bản ghi nhớ về Cuộc họp UBHH lần thứ 3 và Nghị định thư Bổ sung Hiệp định Hợp tác Kinh tế-KHKT (10/11/2001); Bản ghi nhớ về Hợp tác Thuỷ sản giữa 2 Bộ Thuỷ sản (8/01/2003); Tuyên bố giữa nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà In-đô-nê-xi-a về Khuôn khổ hợp tác hữu nghị và toàn diện bước vào thế kỷ 21; Hiệp định về Phân định ranh giới thềm lục địa; Hiệp định về miễn thị thực cho người mang hộ chiếu phổ thông; Thỏa thuận hợp tác (MOU) về hàng đổi hàng; Thoả thuận hợp tác trong lĩnh vực dầu khí; Thỏa thuận về hợp tác kỹ thuật giữa Hiệp hội cà phê-ca cao Việt Nam với Hiệp hội các nhà xuất khẩu cà phê Indonesia ngày 26/6/2003. 2.3.2 Quan hệ trao đổi thương mại giữa 2 nước 9 tháng đầu năm 2008 Cán cân thương mại Việt Nam – Indonesia 2.3.2.1 Xuất khẩu Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm nay giảm 43,30 % so với 9 tháng đầu năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu giảm chủ yếu do sự giảm sút đáng kể của hai nhóm hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô và gạo, hai nhóm hàng này các năm qua chiếm tỷ trọng trên 70 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Indonesia. Các mặt hàng xuất khẩu tăng trưởng gồm: - Rau quả các loại đạt 11,71 triệu USD,tăng gấp 6 lần về trị giá. - Than đá 12,267 triệu USD, tăng gấp 3,15 lần về trị giá. - Giầy dép các loại 4,41 triệu USD, tăng gấp 4,6 lần về trị giá. - Hàng hải sản 3,28 triệu USD, tăng 98,7% về trị giá. - Hạt tiêu 1,07 triệu USD, tăng 93,81% về trị giá. - Sản phẩm nhựa 10 24 triệu USD, tăng 93,15% về trị giá. - Gỗ và sản phẩm gỗ 1,39 triệu USD, tăng 77,70 % về trị giá. - Hàng dệt may 25,72 triệu USD, tăng 71,47 % về trị giá. - Xe đạp và phụ tùng 0,75 triệu USD, tăng 65,78 % về trị giá. - Máy vi tính, SP điện tử và linh kiện 3,7 triệu USD, tăng 57,44 % về trị giá. - Cao su 6,77 triệu USD, tăng 41% về trị giá. - Các sản phẩm hàng hóa khác tăng gấp 1,63 lần về trị giá. Các mặt hàng xuất khẩu giảm gồm: Gạo giảm 90,75 % về trị giá. Dầu thô giảm 82,76 % về trị giá. Cà phê giảm 94,93 % về trị giá. Đường ăn giảm 54,30 % về trị giá. Chè giảm 29,22 % về trị giá. Các sản phẩm công nghiệp như hàng dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, cao su, máy vi tính và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ, xe đạp, phụ tùng xe đạp và các mặt hàng nông nghiệp khác như rau quả, hạt tiêu, hải sản, đều tăng mạnh về trị giá. Tuy nhiên, do các mặt hàng này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu nên không thể bù đắp nổi sự giảm sút của hai nhóm hàng xuất khẩu chủ lực nêu trên. 2.3.2.2 Nhập khẩu: Bảng tóm tắt tình hình nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Indonesia 9 tháng đầu năm 2008 ĐVT : 1.000 USD TT Tên hàng T/h 8 tháng 2008 T/h tháng 9/2008 T/h 9 tháng đầu năm 2008 Tăng, giảm% so cùng kỳ 2007 1 Sữa và sản phẩm sữa 957 0 957 181,47 2 Lúa mỳ 5.125 0 5.125 241,67 3 Dầu mỡ động thực vật 187.265 9.000 196.265 103,90 4 Thức ăn gia súc và nguyên liệu 29.009 3.191 32.220 19,33 5 Nguyên phụ liệu thuốc lá 11.223 1.059 12.282 -15,30 6 Clinker 1.558 0 1.558 -25,80 7 Xăng dầu các loại 39.097 0 39.097 401,24 8 Hóa chất 51.401 7.676 58.717 46,80 9 Các sản phẩm hóa chất 27.391 3.427 30.818 54,10 10 Bột ngọt 308 0 308 -26,67 11 Nguyên phụ liệu dược phẩm 284 92 376 12 Tân dược 5.025 853 5.878 27,78 13 Phân bón các loại 902 252 1.154 14 Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 8.015 951 8.966 28,10 15 Chất dẻo nguyên liệu 26.976 3.263 30.239 -44,00 16 Cao su 12.583 2.158 14.741 17,92 17 Gỗ và nguyên phụ liệu gỗ 12.591 2.508 15.099 31,30 18 Bột giấy 5.446 3.879 9.325 15,12 19 Giấy các loại 88.064 8.046 96.110 10,47 20 Bông các loại 4.456 116 4.572 74,11 21 Sợi các loại 36.925 4.694 41.619 30,06 22 Vải các loại 23.203 3.714 26.917 12,15 23 Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 16.772 1.679 18.451 11,82 24 Kính xây dựng 2.686 776 3.462 116,37 25 Sắt thép các loại 78.532 21.756 100.288 89,22 26 Kim loại thường khác 43.749 5.578 49.327 17,44 27 Máy vi tính, SP điện tử và linh kiện 46.361 4.396 50.757 -38,10 28 Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 83.522 20.656 104.178 149,22 29 Ô tô nguyên chiếc các loại 969 0 969 30 Linh kiện ô tô 98.899 11.076 109.975 83,30 31 Linh kiện và phụ tùng xe máy 21.246 2.886 24.132 29,05 32 Hàng hóa khác 221.874 50.833 272.707 94,80 Cộng: 1.192.414 173.993 1.366.407 52,23 Các mặt hàng nhập khẩu tăng gồm: Về giá trị hàng nhập khẩu, xăng dầu các loại tăng gấp 4 lần, lúa mỳ tăng gấp 2,41 lần , Sữa và sản phẩm sữa tăng gấp 1,81 lần. Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng gấp 1,49 lần, kình xây dựng tăng gấp 1,16 lần. Sắt thép các loại và kim loại thường khác tăng 106,66 %, dầu mỡ động thực vật tăng 103,90 %, hóa chất và các sản phẩm hóa chất tăng 100,10 %, linh kiện ô tô tăng 83,30 %, Bông các loại tăng 74,11 %, Gỗ và nguyên phụ liệu gỗ tăng 31,30%, sợi các loại tăng 30,06 %, linh kiện và phụ tùng xe máy tăng 29,05%. tân dược tăng 27,78 %. thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 19,33 %. cao su tổng hợp tăng 17,92 %, bột giấy tăng 15,12 %, vải các loại tăng 12,15 %. Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày tăng 11,82 %, giấy các loại tăng 10,47 %. Các hàng hóa khác tăng 94,8 %. Các mặt hàng nhập khẩu giảm gồm: Chất dẻo nguyên liệu giảm 44%. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 38,10 %, mỳ chính giảm 26,67%, clinker giảm 25,8 %, nguyên phụ liệu thuốc lá giảm 15,30 %. Tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ Indonesia 9 tháng đầu năm nay lên đến 1.366.407.000,00 USD, tăng 52,23 % so với 9 tháng đầu năm 2007. Giá trị kim ngạch nhập khẩu tăng do hầu hết các mặt hàng nhập khẩu là nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước đều có xu hướng tăng cả về lượng và giá trị. Nhất là xăng dầu nhập khẩu tăng gấp 4 lần về trị giá. 2.3.3.Những thuận lợi của hoạt động thương mại của Việt Nam vào Indonesia Indonesia là 1 quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt nam, cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á, lại thuộc khối Asean nên việc hợp tác quan hệ phát triển vô cùng thuận lợi, rào cản thị trường thấp, và thực hiện đúng những cam kết của khối 2 nước đang ngày càng gia tăng về khối lượng các sản phẩm trao đổi xuất khẩu hàng hóa ,kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng .2 nước có thể hợp tác với nhau để sản xuất ra những mặt hàng tương đồng giúp nhau, hợp tác nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư nghiên cứu phát triển những sản phẩm chung để xuất khẩu ra các thị trường Châu Âu, Mỹ, Nhật bản . 2.3.4 Những khó khăn trong hoạt động thương mại của Việt Nam vào Indonesia Indonesia và Việt Nam là hai thị trường tương đồng. Hầu hết các mặt hàng ta có thế mạnh xuất khẩu thì bạn cũng có ưu thế xuất khẩu vào thị trường thế giới, trừ hai mặt hàng gạo và lạc nhân. Trong khi đó, có khá nhiều mặt hàng thuộc nhóm nguyên liệu để phục vụ sản xuất trong nước, trước mắt và trong tương lai gần, Việt Nam vẫn phải nhập từ thị trường này. Trong điều kiện các nền kinh tế toàn cầu đang bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp từ sự suy thoái của thị trường Hoa Kỳ, Indonesia chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu vào các nước khu vực đông bắc Á và ASEAN, hạn chế nhập khẩu, việc cải thiện cán cân thương mại đối với thị trường này càng khó khăn hơn trước. Đặc biệt, hai mặt hàng chủ lực là gạo và dầu thô ta xuất khẩu vào Indonesia giảm trên 80% , trong khi hai mặt hàng này chiếm tỷ trọng trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Indonesia. + Đối với mặt hàng gạo, trong khi giá lương thực tăng cao, kim ngạch xuất khẩu gạo của ta vào các thị trường khác tăng đáng kể, thì việc triển khai các hợp đồng đã ký từ năm trước giữa Doanh nghiệp Việt Nam với BULOG gặp vướng mắc. + Riêng mặt hàng dầu thô, xuất khẩu của Ta vào Indonesia 9 tháng đầu năm nay giảm 82,76 %, trong khi nhập khẩu xăng dầu lại tăng gấp 4 lần. Đặc điểm thị trường Indonesia là tình hình chính trị chưa thật sự ổn định, thường thay đổi chính sách thương mại nhằm bảo hộ thị trường nội địa cũng là những trở ngại trong việc thúc đẩy XK sang thị trường này. Giá dầu thô trên thị trường thế giới có nhiều biến động và xu hướng giảm giá nếu xảy ra cũng ảnh hưởng đến kim ngạch XK của VN sang Indonesia. Indonesia vẫn chưa coi Việt Nam là một thị trường chính, tiềm năng,vẫn chưa dành cho VN những ưu đãi đặc biệt. Để tao thuận lợi thương mại giữa 2 nước, VN sễ không ngừng cải thiện môi trường đầu tư theo hướng mở cửa nhằm khuyến khích các doanh nghiệp Indo xuất và nhập khẩu. Bên cạnh đó, hơn 90% dòng thuế của VN nằm trong danh mục cắt giảm theo đúng cam kết. Chương 3: Một số giải pháp thực hiện và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 3.1 Một số giải pháp thực hiện chính sách thương mại Cải cách tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh. Một mặt Chính phủ liên tục điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa đồng Rupiah cho sát với biến động của $ Mỹ. Mặt khác để tăng khả năng chuyển đổi của đồng Rupiah, Chính phủ con thực hiện chính sách cân đối đồng Rupiah với nhiều đồng tiền mạnh khác. Cải cách hàng rào phi thuế quan là biện pháp cần thiết để tăng khả năng tự do hóa thị trường nhập khẩu. Trước đây hàng rào phi thuế quan ở mức cao đã gây trở ngại lớn cho các nhà kinh doanh trong nước. Khi cần thiết phải nhập khẩu nguyên nhiên liệu, thiết bị hàng rào phi thuế quan ở mức cao đã làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa do giá thành cao. Cải cách hàng rào phi thuế quan tập trung vào 2 nhiệm vụ chính : Một là giảm tỷ lệ phi thuế quan trong tổng giá trị xuất khẩu. Hai là giảm tỷ lệ phi thuế quan cao trong tổng giá trị sản xuất. Cải cách hệ thống thuế quan: Hệ thống thuế quan của Indo được chia làm 2 định mức: trên định mức và định mức cho các sản phẩm xuất- nhập khẩu. Cải cách hệ thống thuế quan cắt giảm cho cả 2 loại. Gắn liền với chính sách giảm mức thuế quan , Chính phủ con áp dụng chính sách giảm thuế cho các sản phẩm không thuộc hai tiêu chuẩn trên Các chính sách hỗ trợ thương mại có tác dụng tạo điều kiện thị trường trong nước thích nghi với môi trường quốc tế cũng như kích thích các ngành sản xuất trong nước phát triển Tự do hóa thủ tục giấy phép xuất- nhập khẩu nhằm hạn chế những kìm hãm sx và giảm bớt các hiện tượng tiêu cực. Trước kia(trước năm 1983) Chính phủ kiểm soat và độc quyền phân phối giấy phép xuất- nhập khẩu, độc quyền phân phối các quotas dẫn đến những hiện tượng tiêu cực và cản trở quá trình xuất khẩu của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. Chính sách mới thực hiện tự do hóa giấy phép nhập khẩu, trừ một số sản phẩm Nhà nước hạn chế xuất và nhập khẩu mới áp dụng giấy phép. Những sản phẩm này thường là những sản phẩm trong nước co khả năng sản xuất hoặc các sản phẩm tiêu dùng xa xỉ, các sản phẩm liên quan đến an ninh quốc phòng quốc gia Biện pháp này con có tác dụng tích cực nhằm chống tệ quan liêu, tham nhũng, buôn bán vòng vèo quotas xuất nhập khẩu trước đây, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng- căn bệnh trầm trọng của xã hội tồn tại trong nhiều năm qua. Gắn liền với chính sách tự do hóa giấy phép XNK , Chính phủ còn giảm bớt mức độ bảo hộ công nghiệp và mậu dịch. Tuy nhiên tự do hóa thương mại không có nghĩa là thả nổi hoàn toàn TM trong nước.Bên cạnh chính sách đẩy mạnh xuất khẩu, Chính phủ còn áp dụng chính sách bảo hộ có mức độ trong một số ngành kinh tế vốn là thế mạnh của Indo. Nhằm tăng cường hiệu quả TM, Chính phủ Indo còn thực hiện chấn chỉnh bộ máy điều hành xuất khẩu từ TW xuống địa phương ,tăng cường các biện pháp chống thất thu thuế. Thực hiện chính sách khuyến khích cạnh tranh Cải cách chính sách của Indo quan tâm đến cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Nhà nước với tư nhân trong và ngoài nước, giữa doanh nghiệp TW- địa phương. Một mặt Chính phủ thực hiện chính sách giảm bớt mức độ tập trung hóa, chuyển giao quyền tạo vốn và tích lũy vốn cho các doanh nghiệp địa phương và các tỉnh. Mặt khác Nhà nước áp dụng chính sách phân phối tín dụng bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, trừ một số ngành tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp mới được hưởng ưu đãi tăng khả năng cạnh tranh lành mạnh. Chính phủ không khống chế giá mà để cho giả thả nổi theo thị trường.Đặc biệt đối với khu vực kinh tế quốc doanh không được hưởng chế độ trợ cấp , trợ giá xuất khẩu như trước. Năm 2008 với sự việc khủng hoảng nền kinh tế thế giới, thương mại của Indo cũng không tránh khỏi tác động của cuộc khủng khoảng này do sức mua của các bạn hàng nhập khẩu giảm (Tỷ trọng hàng xuất khẩu của Indonesia sang thị trường Mỹ chỉ chiếm 10-12% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này. Trước tình hình này,Bộ Thương mại đang đề xuất Chính phủ Indonesia mở rộng thị trường và đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu song song với việc tăng cường công tác xúc tiến thương mại và  xúc tiến đầu tư. Mặt khác, triển khai đồng bộ các biện pháp duy trì ổn định kinh tế trong nước, thực hiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đã được Chính phủ xem xét điều chỉnh, đảm bảo sức mua của dân chúng trong nước, cải thiện hạ tầng, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trong nước nhằm tăng năng lực cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài. Về chiến lược xuất khẩu của Indonesia, trong thời gian đến sẽ phấn đấu tăng tỷ trọng xuất khẩu sang  thị trường các nước trong khu vực ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và các thị trường xuất khẩu truyền thống khác như Trung quốc, Nhật bản, Hàn quốc. Đồng thời chuyển hướng xuất khẩu một số mặt hàng mà Indonesia đang có thế mạnh vào thị trường Ấn độ, thị trường Nga và thị trường các nước thuộc Liên xô và đông Âu cũ nhằm hạn chế bớt rủi ro do tập trung vào thị trường Mỹ. Ngoài ra, chính phủ Indonesia còn duy trì năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước này thông qua việc phát triển hệ thống logistics, cảng biển, hải quan và các cơ sở hạ tầng để đảm bảo giao thương được thuận lợi. Bên cạnh đó, Indonesia cũng tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại như tổ chức và tham gia các hội chợ, triển lãm, phái đoàn thương mại. 3.2 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Việt Nam cũng đang trong quá trình hội nhập, toàn cầu hóa và ngày càng co nhiều hoạt động trao đổi giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới.Việc đề ra các chính sách thương mại sao cho phù hợp với nền kinh tế đòi hỏi chúng ta vừa phải nghiên cứu tình hình kinh tế trong nước vừa phải học hỏi những kinh nghiệm của các nước trên thế giới.Vậy Việt Nam đã học hỏi được nhưng gì từ chính sách thương mại của Indonesia Chính sách tự do canh tranh VN đã gia nhập vào WTO và chúng ta phải có lộ trình giảm thuế quan, phải mở cửa cho hàng hóa các nước thành viên. Như theo cam kết 1/1/2009 Việt Nam phải mở cửa thị trường nội địa. Đã có rất nhiều câu hỏi được đặt ra là: khi VN thực hiện mở cửa thị trường nội địa thì liệu các doanh nghiệp bán lẻ VN có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác của nước ngoài: Metro, Big C, ? Một thực tế là các doanh nghiệp bán lẻ của VN chưa sẵn sàng cho quá trình hội nhập,chưa thấy đước sự canh tranh khốc liệt khi có sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài như sự sụp đổ của hệ thống Saigon tourist và nhường chỗ cho doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài. Nhưng chúng ta cũng phải thấy rõ thị trường nội địa là lợi thế cho các doanh nghiệp trong nước: Nắm rõ văn hóa trao đổi buôn bán, ăn uống của người dân VN, có vị trí kinh doanh thuận lợi. Nhưng dần dần với quá trình hội nhập hóa thì văn hóa buôn bán tiêu dùng của người dân không ai dám chắc là không thay đổi.Với cuộc sống ngày cang đước cải thiện, người ta dần quan tâm đến chất lượng cuộc sống thì việc thay đổi hình thức kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước là điều không thể tránh khỏi như chúng ta có thể xây dựng các cửa hàng tiện ích, các cửa hàng đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, có các hình thức cạnh tranh về giá, khuyến mãi, khẩu hiệu “ Người Việt dùng hàng Việt”... Chính sách tự do cạnh tranh là cơ hội cho các doanh nghiệp thử sức mình, cũng là quá trình tự đào thải của thị trường đối với các doanh nghiệp không nắm bắt được cơ hội, không đủ năng lực. Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ tạo môi trường kinh doanh thuân lợi như: + Nâng cao hiệu quả điều tiết vĩ mô thị trường và hoạt động thương mại. + Hình thành hiệp hội các nhà phân phối liên kết các nhà bán buon bán lẻ, , nhà XNK để thương mại nội địa và mậu dịch đối ngoại bổ trợ lẫn nhau; hoàn thiện thể chế về quản lý đối với thương mại nội địa cũng như XNK đi đôi với việc xác lập cơ chế điều hành, kiểm tra, đảm bảo quản lý nhà nước tập trung có hiệu lực, phù hợp với yêu cầu phát triển thị trường trong nước, XNK và hội nhập thành công, tạo môi trường kinh doanh ổn định, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng cũng như lợi ích hợp pháp của mọi DN trong nước, thương nhân nước ngoài trên thị trường Việt Nam. Liên kết với nhau là một trong những điểm yếu của các doanh nghiệp VN. Nếu chúng ta có thể hợp sức nhau lại thì cạnh tranh sẽ trở thành lợi thế chứ không phải trở ngại cho các doanh nghiệp trong nước. + Tiếp tục phát triển các mô hình tổ chức thị trường nội địa văn minh và hiệu quả trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. + Tổ chức các hội chợ triển lãm để giới thiệu các sản phẩm của VN trong nước cũng như ra thế giới. + Trong bối cảnh suy thoái kinh tế hiện nay, khi sức mua tiêu dùng đang giảm , bên cạnh chính sách kích cầu đầu tư thì chiếm lĩnh thị trường nội địa cũng là một chiến lược quan trọng để phát triển kinh tế. Thị trường nước ta với 87 triệu dân là một thị trường lớn, tổng doanh thu hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng trong năm 2008 đạt 968.000 tỉ đồng (xấp xỉ 55 tỉ đô la Mỹ).VN được đánh giá là một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất.Vậy thì không cớ gì chúng ta lại không tận dụng được lợi thế này, không thể để thua ngay trên sân nhà. + Sự hợp lực của doanh nghiệp Việt Nam cũng như những chính sách hỗ trợ kịp thời và tích cực của Chính phủ. + Các doanh nghiệp trong nước, cũng như Nhà nước phải nhận thức rõ được tầm quan trọng của thị trường nội địa, phải biết khai thác tiềm năng vốn có của mình, không nên quá chú trọng vào xuất khẩu vào thị trường nước ngoài. Có chính sách thương mại hợp lý phù hợp với các yêu cầu mà chúng ta đã cam kết như lộ trình giảm dần thuế quan. Nửa năm 2009 VN thực hiện việc giãn và giảm nhiều loại thuế: + Sẽ thực hiện giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ như:than đá , than cốc, than bùn, than đóng cục, đóng bánh.Hóa chất cơ bản gồm các loại hoá chất ghi trong Danh mục hoá chất; Sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất (trừ sản phẩm cơ khí tiêu dùng); Tủ đóng cắt, tủ bảo vệ, tủ điều khiển, tủ đo lường trung thế, cao thế; trạm biến thế, trạm kiốt trung thế, cao thế; cầu dao cách ly trung thế, cao thế; đầu cáp, đầu hộp nối cáp ngầm trung thế, cao thế; cầu chì (12 KV, 24 KV, 36 KV từ 6 A trở lên); Ôtô các loại; Linh kiện ôtô gồm động cơ, hộp số, bộ ly hợp và các bộ phận của các mặt hàng này; Tàu, thuyền; Khuôn đúc bao gồm các loại khuôn dùng làm công cụ để sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa... + Giảm thuế NK xăng và thuế XK than Ngày 5/2, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 24/2009/TT-BTC hướng dẫn thực hiện mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng thuộc nhóm 2710 tại biểu thuế nhập khẩu ưu đãi.Theo đó, thuế suất thuế nhập khẩu xăng và một số loại dung môi khác được điều chỉnh giảm 10%, từ mức 35% xuống còn 25. Thông tư nêu rõ, mức thuế mới sẽ bắt đầu được áp dụng đối với các tờ khai hải quan hàng hoá nhập khẩu đăng ký với cơ quan hải quan, kể từ ngày 10/2. Cũng trong ngày 5/2, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 25/2009/TT-BTC hướng dẫn thực hiện mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng than trong biểu thuế xuất khẩu.Theo đó, kể từ ngày 15/2, thuế suất thuế xuất khẩu than sẽ được áp dụng ở mức 10% thay cho mức 20% hiện hành. Đây được coi là một trong những biện pháp hỗ trợ ngành than trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay. Trước đó, ngày 6/6/2008 Bộ Tài chính đã quyết định điều chỉnh tăng thuế suất thuế xuất khẩu than từ mức 15% lên 20%. +Giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cá nhân Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 27/2009/TT-BTC, hướng dẫn thực hiện việc giãn thời hạn nộp thuế thu nhập cá nhân. Theo đó, đối tượng được giãn nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn (bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán); thu nhập từ bản quyền; thu nhập từ nhượng quyền thương mại; thu nhập từ nhận thừa kế; thu nhập từ nhận quà tặng; Cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn (bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán); thu nhập từ bản quyền; thu nhập từ nhượng quyền thương mại. Thời gian được giãn nộp thuế là từ ngày 1/1/2009 đến hết ngày 31/5/2009. Hoàn thành hệ thống pháp luật để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào VN.Hướng dẫn cho các doanh nghiệp về luật đầu tư nước ngoài- một trong những điểm yếu của các doanh nghiêp. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, kho, bến bãi, logistic thúc đẩy quá trình giao lưu buôn bán với các nước . Tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực và thế giới. Kết luận Tóm lại, trong xu thế toàn cầu hóa, hoạt động thương mại ngày càng được mở rộng giữa các nước trên thế giới. Thương mại diễn ra với nhiều hình thức khác nhau, đa dạng, phong phú với nhiều chủng loại hàng hóa dịch vụ khác nhau. Thương mại góp phần thúc đẩy quá trình giao lưu hợp tác giữa các nước, làm tăng trưởng kinh tế và đây cũng là con đường duy nhất mà các nước phải đi trong thời đại ngày nay. Và việc đề ra các chính sách thương mại phù hợp không phải là điều dễ dàng cho bất cứ quốc gia nào. Chính sách thương mại phải đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng, tính pháp lý theo các nguyên tắc đã được cam kết khi các nước tham giá vào nền kinh tế thế giới. Không có một chính sách nào là hoàn hảo mà nó cũng có những ưu, nhược điểm của riêng mình. Vì vậy nó cần phải có một quá trình, phải có sự linh hoạt thích nghi với môi trường kinh tế. Chính sách thương mại của Indonesia mặc dù còn nhiều sự bảo hộ đối với nền sản xuất nội địa nhưng vẫn là một biện pháp giúp ổn định nền kinh tế vĩ mô, bảo vệ nền sản xuất trong nước. Tuy vậy đây không phải là một chính sách có thể áp dụng được lâu dài nhất là khi xu hướng tự do hóa thương mại, xu hướng cạnh tranh ngày càng gay gắt trên toàn cầu. Vì vậy chính sách thương mại của Indonesia cần phải đổi mới và hoàn thiện đề phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của từng thời kì, giúp cho nền kinh tế của đất nước này ngày càng phát triển. Với Việt Nam thì thiết nghĩ quá trình này còn dài, khi mà nước ta mới mở cửa nền kinh tế chưa lâu, chưa có nhiều kinh nghiệm trên trường quốc tế, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh, xâm nhập vào thị trường nước ngoài. Mặc khác với một nền kinh tế đang phát triển, cán cân thương mại chủ yếu là nhập siêu, thì chính sách thương mại của ta cần có sự mềm dẻo, linh hoạt, và phải nhận thức thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa thương mại nội địa và thương mại quốc tế. Thương mại nội địa là nền tảng, cơ sở, thương mại quốc tế là cái quan trọng, cái mục đích hướng tới. Phải lấy lợi thế vốn có làm nội lực để phát triển, lấy môi trường bên ngoài là nơi khẳng định cái nội lực bên trong. Đồng thời chúng ta cũng cần học hỏi kinh nghiệm những thành công và thất bại của các nước trên thế giới. Có như vậy chính sách thương mại của ta không quá thiên lệch, không những làm tăng trưởng kinh tế mà còn khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình thương mại quốc tế TS Trần Văn Hòe - Nguyễn Văn Tuấn Kinh tế Indonesia – Thực tế và thách thức TS Hoa Hữu Lân Kinh tế các nước Đông Nam Á – Thực trạng và triển vọng Phạm Đức Thành - Trương Duy Hòa 4. Kinh tế các nước Asean, Nguyễn Thị Thúy Hồng 5. Trang web: MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6120.doc
Tài liệu liên quan