Chính sách ứng phó của Trung Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0- Gợi ý chính sách cho Việt Nam

Nghiên cứu này đã bổ sung thêm các bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của thông tin chia tách cổ phiếu đến sự thay đổi giá và thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên TTCK Việt Nam. Sử dụng mẫu nghiên cứu bao gồm 237 sự kiện chia tách của 150 công ty niêm yết trên HOSE trong giai đoạn 2015- 2017, kết quả kiểm định thống kê cho thấy giá của các cổ phiếu đã có sự thay đổi xung quanh ngày công bố thông tin chia tách cổ phiếu. Cụ thể là, giá cổ phiếu đã tăng 0,33% từ trước 2 phiên khi thông tin được công bố và tiếp tục tăng 0,59% ở phiên tiếp theo sau ngày công bố thông tin. Đặc biệt là, sự tăng giá của các cổ phiếu được duy trì liên tục suốt 10 phiên sau ngày công bố thông tin. Ngoài ra, nghiên cứu này còn ghi nhận sự ảnh hưởng tích cực của thông tin chia tách cổ phiếu đến thanh khoản của các cổ phiếu. Thanh khoản của các cổ phiếu đã tăng mạnh trong suốt giai đoạn nghiên cứu, đặc biệt là hai phiên sau ngày công bố thông tin.

pdf12 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách ứng phó của Trung Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0- Gợi ý chính sách cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 209- Tháng 10. 2019 Chính sách ứng phó của Trung Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0- Gợi ý chính sách cho Việt Nam Đặng Thu Thủy Viện Nghiên cứu Ấn Độ và tây Nam Á Lương Thanh Hà Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 08/05/2019 Ngày nhận bản sửa: 14/05/2019 Ngày duyệt đăng: 17/05/2019 Mỗi quốc gia trên thế giới tùy theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và tầm nhìn chiến lược phát triển công nghệ sẽ có những nhận thức và cách thức tiếp cận khác nhau đối với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Những quốc gia dẫn đầu trong công nghệ sản xuất và công nghệ thông tin (CNTT) cũng như sở hữu nhiều tri thức, nhân lực chất lượng cao như các cường quốc Mỹ, Đức, Nhật sẽ có khả năng bứt phá để xây dựng, triển khai thực hiện các chiến lược quốc gia về phát triển CMCN 4.0. Bên cạnh Ấn Độ, Trung Quốc nổi lên như một quốc gia đi đầu Châu Á với những nỗ lực trong chính sách và hành động cụ thể để nắm bắt cơ hội, tận dụng tốt lợi thế quốc gia nhằm tiếp cận sâu vào cuộc CMCN 4.0. Với chiến lược phát triển đặc thù, Trung Quốc đã dựa vào thế mạnh quốc gia trong một số lĩnh vực chủ chốt được dự đoán là xu hướng công nghệ để tiến tới phát triển CMCN 4.0. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc tham gia vào cuộc CMCN 4.0, từ đó đề xuất những gợi ý chính sách đối với China’s accommodating policies to the fourth industrial revolution- policy implications for Vietnam Abstract: Depending on socio-economic development level and technological development strategy, each nation in the world has different perceptions and approaches to the Fourth industrial revolution (FIR 4.0). With high-quality knowledge and human resources, United State, Germany and Japan are the leading nations in information technology and manufacturing sectors. The nations have potential to implement their national strategy on development of FIR 4.0. Besides India, China has been emerging as the leading Asian nation with its policy and action efforts to seize opportunities and take advantage to access FIR 4.0. With its own development strategy, China relied on national strengths in some key areas that are predicted to be technologically advanced towards the development of FIR 4.0. The China’s valuable experiences in participating in FIR 4.0 that will be policy implications for Vietnam to join in challenging sector. Keywords: Fourth industrial revolution, technology, advantage, China, policy, Vietnam. Thuy Thu Dang, Ph.D Email: thuy0183@gmail.com Vietnam Institute of Indian and Southwest Studies (VNIISAS) Ha Thanh Luong, M.Ec Email: hatl@hvnh.edu.vn Accounting and Auditing Faculty, Banking Academy of Vietnam Chính sách ứng phó của Trung Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0- Gợi ý chính sách cho Việt Nam 10 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019 1. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 1.1. Khái niệm về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Cuộc CMCN 4.0 (The Fourth Industrial Revolution) được xem là xu hướng phát triển tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo GS. Klaus Schwab- Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) Davos phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế khu vực vào ngày 27/6/2016 tại Thiên Tân, Trung Quốc cho rằng: “Chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng công nghệ, công nghiệp làm thay đổi cơ bản lối sống, phong cách làm việc và cách thức giao tiếp. Xét về phạm vi, mức độ và tính phức tạp, sự chuyển dịch này không giống với bất kỳ điều gì mà con người từng trải qua”. Chúng ta có thể hiểu “Cuộc cách mạng” ở đây được dùng để chỉ sự thay đổi mang tính căn bản, đột biến và triệt để. Trên thực tế, CMCN là một cuộc thay đổi toàn diện trong lĩnh vực sản xuất, từ điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội cho đến kỹ thuật. Có thể thấy rõ mỗi cuộc CMCN của nhân loại đều mang những nét đặc trưng theo từng giai đoạn cụ thể. Đến nay, nhân loại được biết đến 4 cuộc CMCN lớn nhất: (i) Cuộc CMCN lần thứ 1 từ khoảng năm 1784; (ii) cuộc CMCN lần thứ 2 từ khoảng năm 1870 đến khi Thế chiến I nổ ra; (iii) cuộc CMCN lần thứ 3 xuất hiện vào khoảng từ 1969 và (iv) cuộc CMCN lần thứ 4 (4.0) từ khoảng năm 2010. Khái niệm về cuộc CMCN lần thứ 4 lần đầu được đề cập trong bản Kế hoạch hành động chiến lược công nghệ cao của Chính phủ Đức thông qua vào năm 2012, đề cập đến ngành công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. Tiếp theo đó, thuật ngữ 4.0 được sử dụng rộng rãi và được nhiều người biết đến, rõ nhất là Hội nghị Thường niên của WEF ngày 20/01/2016 tại lần thứ 46 tại Thụy Sĩ với chủ đề “Cuộc CMCN lần thứ 4” khi Giáo sư Claus Schwab (Chủ tịch WEF) đã đưa ra khái niệm cụ thể về CMCN 4.0 là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị”, hay nói cách khác, CMCN 4.0 bao gồm công nghệ hóa hiện đại, xu hướng trao Hình 1. Bốn cuộc CMCN trong lịch sử Nguồn: Deloite (2014) Việt Nam khi tham gia vào sân chơi mới đầy thách thức này. Từ khóa: CMCN 4.0, công nghệ, lợi thế, Trung Quốc, chính sách, Việt Nam ĐẶNG THU THỦY 11Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng đổi dữ liệu, công nghiệp chế tạo và sản xuất thông minh. Giáo sư, còn là tác giả cuốn sách “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, đã nhận định: “Những thay đổi của công nghệ 4.0 sẽ sâu sắc đến mức chưa bao giờ trong lịch sử lại có một thời điểm con người cùng lúc nhiều cơ hội và lắm rủi ro như thế. Mối quan ngại của tôi là các lãnh đạo chính trị và kinh doanh hoặc sẽ giữ lối tư duy quá cổ hủ hoặc quá ám ảnh với việc các đột phá công nghệ. Không ai dự đoán được, tất cả những cái “quá” đó sẽ thay đổi tương lai loài người như thế nào”. Cuộc CMCN 4.0 là bước tiến nhảy vọt của nhân loại dựa trên ba lĩnh vực chính: - Lĩnh vực kỹ thuật số: Bao gồm dữ liệu lớn (Big Data), vạn vật kết nối (IoT) và trí tuệ nhân tạo (AI). - Lĩnh vực công nghệ sinh học: Ứng dụng trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. - Lĩnh vực vật lý: Robot thế hệ mới, in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions), công nghệ nano. 1.2. Tác động của CMCN 4.0 đến nền kinh tế toàn cầu CMCN 4.0 thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức bởi nguồn lực phát triển quan trọng nhất của cuộc cách mạng này là nhân lực có năng lực sáng tạo công nghệ. Quốc gia nào sở hữu nhiều tri thức, nhân lực chất lượng cao sẽ giành ưu thế cạnh tranh toàn cầu. CMCN 4.0 đang ở giai đoạn khởi phát, chưa thể đánh giá được hết các tác động, do đó, cần phải tiếp tục theo dõi chiều hướng và tác động của cuộc cách mạng này. Nhiều dự báo cho rằng CMCN 4.0 sẽ tác động sâu sắc đến kinh tế thế giới trên các phương diện sau: (i) Trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia: Các nước đang phát triển có cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển nếu biết tiếp cận nhanh CMCN 4.0. Điều này cũng đồng nghĩa việc các nước này đối mặt với nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tận dụng tốt những lợi thế và cơ hội từ cuộc CMCN này. Những quốc gia có sở hữu nhiều tri thức, nhân lực chất lượng cao, biết tận dụng tốt cơ hội sẽ có thể bứt phá trở thành những nước có nền kinh tế phát triển hàng đầu. Nếu CMCN 4.0 tiếp tục phát triển như dự báo thì lĩnh vực chế tạo và sản xuất trong tương lai sẽ quay trở lại các nước phát triển là nơi khởi phát của CMCN 4.0. Do đó, các nước đi sau sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi theo đuổi mô hình công nghiệp hóa dựa vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (Deloite, 2014). (ii) Tăng trưởng kinh tế: CMCN 4.0 có tiềm năng nâng cao mức thu nhập toàn cầu và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân trên toàn thế giới. Những người hưởng lợi nhiều nhất từ cuộc cách mạng này cho đến nay là những người tiêu dùng tiếp cận được với thế giới kỹ thuật số. Công nghệ đã giúp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, mang lại hiệu quả và sự hài lòng cao, qua đó giúp cải thiện chất lượng sản phẩm, giúp người tiêu dùng tiếp cận sản phẩm với giá trị và mức giá phù hợp. Những thay đổi lớn về nhu cầu, sự tham gia và những hành vi mới của người tiêu dùng buộc các công ty phải điều chỉnh phương thức thiết kế, Chính sách ứng phó của Trung Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0- Gợi ý chính sách cho Việt Nam 12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019 tiếp thị và phân phối sản phẩm, dịch vụ để tăng tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, đổi mới công nghệ cũng sẽ dẫn đến một sự thay đổi to lớn từ phía cung hàng hóa thông qua tiết giảm chi phí và tăng năng suất lao động (OECD, 2018). Chi phí giao thông vận tải và thông tin liên lạc sẽ giảm xuống, hậu cần và chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ trở nên hiệu quả hơn, các chi phí thương mại cũng được giảm bớt. Tất cả các yếu tố kể trên sẽ giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tăng doanh thu và năng suất thì CMCN 4.0 còn phụ thuộc rất lớn vào mạng lưới kết nối công nghệ và kỹ năng, trình độ của người lao động. Chỉ cần một lỗi nhỏ trong quá trình vận hành có thể gây gián đoạn đến toàn hệ thống và gây hậu quả lớn. Điều này nói lên tầm quan trọng của việc thiết lập chế độ bảo vệ an ninh mạng cũng như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bảo mật dữ liệu. (iii) Mô hình kinh doanh: CMCN 4.0 đặt ra những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đặc biệt là các doanh nghiệp đã/sẽ tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu về những thay đổi liên quan đến chi phí, quản trị rủi ro, giảm thiểu tính linh hoạt và sự độc lập trong chiến lược kinh doanh. Trên thực tế có một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp chưa ý thức được hoặc chưa quan tâm đến sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, do vậy chưa có bước chuẩn bị hữu ích để ứng phó với xu hướng toàn cầu này. Khi CMCN 4.0 phát triển, năng suất lao động tăng, chi phí giảm kéo theo giá hàng hóa giảm; lúc này các DNNVV phải đứng trước lựa chọn điều chỉnh mô hình cho phù hợp hoặc đối mặt với thất bại. 2. Những chính sách ứng phó của Trung Quốc trước cuộc cách mạng 4.0 2.1. Những chính sách cụ thể Cùng với nền kinh tế ngày càng phát triển lớn mạnh và có vị trí quan trọng trong tổng thể nền kinh tế thế giới, Trung Quốc đang bước vào giai đoạn theo đuổi một mô hình kinh tế đổi mới, sáng tạo hơn thông qua đầu tư thích đáng cho nghiên cứu và phát triển cũng như các chính sách mới nhằm tăng cường mức độ sáng tạo và hiệu quả của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, “Made in China 2025” (China State Council, 2015), gọi tắt là MIC 2025 ra đời hướng đến các ngành sản xuất của Trung Quốc trong thời đại 4.0 với 10 lĩnh vực trọng tâm bao gồm: (1) Công nghệ thông tin mới; (2) Các công cụ kiểm soát số và tự động hóa; (3) Trang thiết bị hàng không vũ trụ; (4) Trang thiết bị cơ khí đại dương và tàu thuyền công nghệ cao; (5) Trang thiết bị đường sắt; (6) Các phương tiện tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng mới; (7) Trang thiết bị điện; (8) Các vật liệu mới; (9) Dược phẩm sinh học và các thiết bị y tế; và (10) Máy nông nghiệp. Sau khi MIC 2025 được ban hành, Ủy ban Tư vấn Quốc gia về Chiến lược Cường quốc sản xuất đã xây dựng Bản kế hoạch hành động có tên “Lộ trình kỹ thuật Made in China 2025” (hay còn gọi là Sách xanh- Green book) (NAC, 2015). Đối với mỗi ngành công nghiệp và mỗi phân ngành, Sách xanh cung cấp thông tin đầy đủ các nội dung liên quan, gồm: - Tổng quan nhu cầu thị trường trong nước và thị trường quốc tế; - Tình hình phát triển ngành đó tại Trung Quốc và mục tiêu đến năm 2020 và đến năm 2025; - Các sản phẩm chủ yếu và công nghệ ĐẶNG THU THỦY 13Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng chính để phát triển lĩnh vực đó; - Ứng dụng và các dự án điển hình; - Hỗ trợ chiến lược và các biện pháp bảo đảm. Mục tiêu chiến lược tổng quát của MIC 2025 là đưa Trung Quốc trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về sản xuất các sản phẩm chất lượng và công nghệ cao. Các chính sách của Trung Quốc cho thấy nước này đang tiến hành các bước để thực hiện các mục tiêu chiến lược sau: - Nội địa hóa và bản địa hóa: MIC 2025 mục tiêu bản địa hóa nghiên cứu và phát triển cũng như quản lý chuỗi cung ứng toàn cầu (Jost Wübbeke, 2016). Đổi mới sáng tạo trong nước là mục tiêu xuyên suốt trong MIC 2025 và các quy định thi hành. MIC 2025 hỗ trợ mạnh mẽ cho các công ty Trung Quốc trong nỗ lực phát triển công nghệ nội địa, sở hữu trí tuệ và xây dựng thương hiệu. - Thay thế: Khi bớt lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài bằng các phát triển công nghệ trong nước hay mua của nước ngoài, MIC 2025 và các bản kế hoạch khác coi thay thế công nghệ nước ngoài là một yêu cầu cấp thiết có tính chiến lược. - Chiếm lĩnh thị trường toàn cầu: Sau khi đã phát triển và sở hữu công nghệ cũng như thương hiệu của riêng mình, Trung Quốc sẽ chiếm lĩnh thị trường nội địa và thị trường quốc tế thông qua các ngành và công nghệ ưu tiên trong MIC 2025. Để đạt được những mục tiêu MIC 2025 đề ra, Trung Quốc đã đề ra nhiều biện pháp Bảng 1. Các chỉ số ngành sản xuất chính 2013- 2025 (MIC 2025) Mục Chỉ số 2013 2015 2020 2025 Năng lực đổi mới sáng tạo Chỉ số Nghiên cứu và Phát triển (R&D) (% của chi phí vận hành doanh nghiệp) 0,88 0,95 1,26 1,68 Số lượng sáng chế trên 1 tỷ NDT doanh thu hoạt động 0,36 0,44 0,70 1,10 Chất lượng và giá trị Chỉ số năng lực cạnh tranh về chất lượng sản xuất 83,1 83,5 84,5 85,5 Tỷ lệ giá trị gia tăng trong sản xuất (% tăng so với 2015) - - 2 4 Tăng trưởng năng suất lao động sản xuất trung bình theo kế hoạch 5 năm (%) - - 7,5 6,5 Tích hợp CNTT và công nghiệp hóa Tỷ lệ sử dụng băng thông rộng (%) 37 50 70 82 Tỷ lệ ứng dụng R&D và công cụ thiết kế kỹ thuật số (%) 52 58 72 84 Tỷ lệ điều khiển quy trình hoạt động chính (%) 27 33 50 64 Phát triển xanh Tỷ lệ giảm năng lượng tiêu thụ trên mỗi đơn vị giá trị công nghiệp gia tăng (% so với năm 2015) - - 18 34 Tỷ lệ giảm phát thải khí CO2 trên mỗi đơn vị giá trị công nghiệp gia tăng (% so với năm 2015) - - 22 40 Tỷ lệ giảm lượng nước tiêu thụ trên mỗi đơn vị giá trị công nghiệp gia tăng (% so với 2015) - - 23 41 Tỷ lệ tận dụng chất thải công nghiệp rắn (%) 62 65 73 79 Nguồn: China State Council (2015) Chính sách ứng phó của Trung Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0- Gợi ý chính sách cho Việt Nam 14 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019 mang tính chiến lược, trong đó đặc biệt thúc đẩy quyết liệt những cải cách mang tính nền tảng bao gồm: (i) Cải cách thể chế; (ii) tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng: (iii) hỗ trợ tài chính; (iv) các chính sách về tài khóa và thuế; (v) thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo và tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp và các viện/trường, kết hợp với các cơ chế đào tạo, sử dụng và giữ chân các nhân tài; và (vi) phát triển doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. 2.2. Cải cách hệ thống thể chế Trung Quốc đã đề ra các biện pháp về cải cách, hoàn thiện hệ thống thể chế nhằm tạo điều kiện cho các ngành, lĩnh vực phát triển. Trong đó có thúc đẩy hệ thống quản trị nhà nước pháp quyền và tăng cường chuyển đổi chức năng của Chính phủ; thúc đẩy đổi mới trong quản lý Nhà nước để tăng cường hiệu quả thực thi chiến lược, kế hoạch, chính sách và các tiêu chuẩn mới trong sản xuất; phân quyền nhiều hơn cho chính quyền địa phương để cải cách mạnh mẽ hơn thủ tục hành chính, thủ tục xét duyệt đầu tư, tiêu chuẩn hóa và đơn giản hóa các thủ tục cấp phép; hoàn thiện cơ chế hợp tác nghiên cứu giữa nhà nước, nhà sản xuất, trung tâm đào tạo, nghiên cứu và cải cách hệ thống quản lý đổi mới sáng tạo, phân bổ kinh phí dự án, đánh giá kết quả và chuyển đổi nhằm đẩy mạnh ứng dụng nghiên cứu vào sản xuất; để thị trường quyết định giá cả các yếu tố sản xuất và phân bổ nguồn lực xã hội; cải cách hệ thống mua bán quyền phát thải, quyền xả thải các-bon và sử dụng nguồn nước, tăng cường các nguồn thu thuế theo giá trị và chuyển đổi phí bảo vệ môi trường thành thuế; cải cách mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường khoa học và công nghệ quốc phòng và ứng dụng cho mục đích dân sự; hoàn thiện hệ thống luật pháp cũng như tăng cường giám sát đối với hoạt động đầu tư, mua bán, sáp nhập trong lĩnh vực sản xuất. 2.3. Tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng Trung Quốc đặt ra biện pháp cải cách mạnh mẽ việc tạo lập thị trường, trong đó có điều chỉnh các ngành đang trong diện kiểm soát, tăng cường giám sát và xóa bỏ các rào cản cho thị trường thống nhất trong nước; thực thi các biện pháp thúc đẩy phát triển ngành bằng việc tiêu chuẩn hóa và hoàn thiện các quy định về tiết kiệm năng lượng, bảo tồn đất đai, nguồn nước, bảo vệ môi trường, công nghệ và tiêu chuẩn an toàn sản xuất, tăng cường giám sát việc thực thi các tiêu chuẩn theo quy định; tăng cường giám sát nhằm hạn chế sản xuất và tiêu thụ hàng giả, hàng kém chất lượng, trừng phạt nghiêm khắc tình trạng độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh; phát triển thị trường công nghệ và hoàn thiện cơ chế chính sách về phá sản doanh nghiệp, giảm gánh nặng cho doanh nghiệp bằng việc điều chỉnh các loại phí, bãi bỏ các loại phí vô lý và phí thành phần, tăng cường trách nhiệm giám sát và giải trình; phát triển hệ thống thông tin tín dụng cho doanh nghiệp sản xuất để hỗ trợ về tài chính cũng như hạn chế vỡ nợ doanh nghiệp; tăng cường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và tạo điều kiện doanh nghiệp tự khai báo và tự xây dựng hệ thống giám sát tiêu chuẩn, chất lượng và an toàn sản phẩm. 2.4. Chính sách hỗ trợ tài chính Trung Quốc đặt ra kế hoạch mở rộng các kênh tài trợ vốn cho sản xuất và giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, MIC 2025 còn đề ra các biện pháp hỗ trợ ĐẶNG THU THỦY 15Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng tài chính như tận dụng nguồn vốn chính sách, các nguồn vốn phát triển và tài trợ thương mại để hỗ trợ cho các ngành ưu tiên như công nghệ thông tin thế hệ mới, thiết bị cao cấp và vật liệu mới; khuyến khích các ngân hàng như Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank), Ngân hàng Phát triển Trung Quốc (China Development Bank) mở rộng các sản phẩm cho vay đối với doanh nghiệp sản xuất; tìm kiếm các nguồn vốn trong và ngoài nước, tận dụng các quỹ đầu tư mạo hiểm và quỹ tư nhân cũng như phát triển thị trường công cụ nợ cho doanh nghiệp; hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất lớn thực hiện các dự án thí điểm; thúc đẩy chuyển đổi và nâng cấp sản xuất thông qua thuê tài chính; mở rộng các dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ hỗ trợ cho sản xuất; phát triển bảo hiểm khoản vay và thị trường bảo hiểm tín dụng; tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất tìm nguồn lực từ bên ngoài, thành lập các trung tâm nghiên cứu, mua bán và sáp nhập thông qua các nguồn vốn bên ngoài bằng bảo lãnh trong nước, bằng các khoản vay nội tệ và ngoại tệ, mua bán nợ và tài sản dựa trên các tiêu chuẩn về kinh doanh bền vững và kiểm soát rủi ro. 2.5. Các chính sách về tài khóa và thuế Theo MIC 2025, Trung Quốc tận dụng các dòng vốn hiện tại để tăng cường hỗ trợ tài chính và tạo lập môi trường chính sách cho ngành sản xuất mà trọng tâm là các ngành ưu tiên như sản xuất thông minh, áp dụng hình thức hợp tác công tư (PPP) để phân bổ nguồn vốn xã hội vào các dự án lớn, cải tiến công nghệ và hạ tầng sản xuất thiết yếu; thay đổi hình thức hỗ trợ ngân sách từ hỗ trợ xây dựng sang hỗ trợ hoạt động theo từng bước và gia tăng hiệu quả nguồn vốn; hoàn thiện và thực thi chính sách mua sắm Chính phủ theo hướng ủng hộ đổi mới sáng tạo; thực thi cơ chế khuyến khích, hạn chế rủi ro đầu tư vào thiết bị máy móc lớn; hoàn thiện cơ chế khuyến khích và quản lý đổi mới sản phẩm, dịch vụ giá trị gia tăng và các dự án điển hình; thực thi chính sách thuế giá trị gia tăng và các tính toán chi phí nghiên cứu để giảm gánh nặng thuế cho doanh nghiệp sản xuất. 2.6. Các chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng Củng cố kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực cho sản xuất và thực hiện kế hoạch đào tạo nhân lực chất lượng cao cho sản xuất, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia, các kỹ thuật viên, các nhà quản trị và quản lý và hoàn thiện hệ thống phát triển nguồn nhân lực; tăng cường đội ngũ kỹ sư giỏi thông qua xây dựng các trung tâm đào tạo kiểu mới tại các trường đại học; cải tiến đào tạo nghề và đào tạo kỹ năng để chuyển đổi thành trường đại học công nghệ khoa học ứng dụng; khuyến khích hợp tác giữa các doanh nghiệp và trường đào tạo để đào tạo các chuyên gia gắn với sản xuất và nghiên cứu; thiết lập cơ chế đãi ngộ nhân tài; hoàn thiện thể chế phát triển đội ngũ nhân lực và cơ chế điều hành thị trường nhân sự chất lượng cao; tuyển chọn chuyên gia và sinh viên tài năng, đặc biệt là đội ngũ có kiến thức chuyên môn và kỹ thuật để đưa ra nước ngoài đào tạo đồng thời với xây dựng các cơ sở đào tạo trong nước. 2.7. Các chính sách hướng đến doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ Hoàn thiện và thực thi chính sách ưu đãi tài chính và thuế để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, đồng thời tối ưu hóa Chính sách ứng phó của Trung Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0- Gợi ý chính sách cho Việt Nam 16 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019 các quỹ dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; tận dụng đòn bẩy tài chính để thu hút nguồn vốn xã hội để thành lập các quỹ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ nguồn vốn tư nhân thành lập các định chế tài chính như ngân hàng thương mại nhỏ và vừa để phát triển các dịch vụ tài chính chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; đẩy nhanh phát triển hệ thống điều tra tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ; xây dựng chính sách về tài trợ vốn và thuê tài chính, sở hữu trí tuệ, cho vay và bảo hiểm tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ; khuyến khích các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu và kỹ thuật chia sẻ trang thiết bị thử nghiệm với doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng các hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp như quản trị điều hành, đổi mới sáng tạo, tư vấn, đào tạo và tuyển dụng. 3. Đánh giá kết quả bước đầu và những khó khăn trong việc thúc đẩy phát triển CMCN 4.0 tại Trung Quốc Chính phủ Trung Quốc với tham vọng cung cấp nguồn vốn cho tất cả các doanh nghiệp trong nước để thúc đẩy khả năng nghiên cứu và phát triển, gia tăng năng lực cạnh tranh toàn cầu - Kế hoạch hỗ trợ tài chính tăng trưởng công nghiệp, tái cấu trúc và gia tăng lợi nhuận được Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa cùng bảy Bộ ban ngành ban hành vào 16/02/2016 khuyến khích ngân hàng hỗ trợ tài chính để phát triển thương hiệu bản địa và mở rộng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đối với các ngành công nghiệp chiến lược và mới nổi (Government of China, 2016a). - Hoạt động phát triển chíp bán dẫn ở Trung Quốc phát triển khá nhanh và mạnh thông qua M&A và đầu tư mới. Theo Chris Arkenberg (2018) thì Trung Quốc hiện là thị trường chip lớn nhất thế giới, nhưng chỉ tự sản xuất 16% lượng sản phẩm bán dẫn được sử dụng trong nước. Kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm bán dẫn của Trung Quốc hàng năm lên tới khoảng 200 triệu USD, còn nhiều hơn cả kim ngạch nhập khẩu dầu của nước này. Để xây dựng một ngành bán dẫn trong nước, Chính phủ Trung Quốc đã cắt giảm thuế cho các nhà sản xuất chip và dự định đầu tư 32 tỷ USD để trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về sản xuất và thiết kế. Có lẽ thách thức lớn nhất trong dài hạn đối với Trung Quốc là công nghệ. Dù Bắc Kinh mong muốn gây dựng ngành bán dẫn từ con số 0, nhưng những nỗ lực về công nghệ tốt nhất của nước này cũng đứng sau Mỹ cả một hoặc hai thế hệ. Giải pháp hợp lý nhất trong trường hợp này là mua lại công nghệ của các công ty Mỹ hoặc liên kết với họ. Đây cũng là con đường mà các công ty công nghệ hàng đầu của Nhật Bản, Hàn Quốc và đảo Đài Loan lựa chọn. Thế nhưng, Trung Quốc lại không thể làm điều tương tự. Những nỗ lực của Bắc Kinh trong việc thâu tóm các công ty sản xuất bán dẫn của Mỹ (thường với giá cao ngất ngưỡng) thường bị chặn đứng vì các lý lo an ninh. Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đặt các thương vụ thâu tóm của Trung Quốc dưới sự kiểm soát chặt chẽ như vậy. Chỉ tính từ năm 2015, các thương vụ mà Trung Quốc đề nghị mua lại các công ty bán dẫn Mỹ đạt giá trị lên đến 34 tỷ USD, nhưng Bắc Kinh chỉ “chốt” được số thương vụ trị giá 4,4 tỷ USD trên toàn cầu trong khoảng thời gian này. - Chính quyền địa phương đang dần chuyển hướng trợ cấp cho sản xuất thông minh. Chẳng hạn như tỉnh Trường Sa đã công bố kế hoạch hỗ trợ tài chính cho các công ty sản xuất thiết bị thông minh dựa ĐẶNG THU THỦY 17Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng trên bản quyền sáng chế bản địa. Các công ty sẽ nhận được trợ cấp nếu có sáng chế đối với bộ phận chính của thiết bị hoặc có tỷ lệ nội địa hóa trên 60% (Invest in China, 2015). - Nhiều ngành như công nghệ thông tin mới, sản xuất chế tạo nguyên liệu mới, công nghệ sinh học, ngành công nghiệp xanh (bao gồm các loại năng lượng mới, công nghệ năng lượng, công nghệ bảo vệ môi trường) và dĩ nhiên là các ngành công nghiệp phát triển trong thế giới số. Theo Kế hoạch 5 năm lần thứ XIII về phát triển ngành công nghiệp chiến lược mới nổi thì giá trị gia tăng từ các ngành công nghiệp chiến lược này đã đóng góp tới 15% (8% trong năm 2015) GDP của Trung Quốc trong năm 2020. Mục tiêu là mỗi ngành này sẽ cung cấp khoảng 10 nghìn tỷ NDT cho giá trị gia tăng trong nền kinh tế Trung Quốc. Hơn 1 triệu việc làm nên được tạo ra mỗi năm bằng cách sử dụng tốt hơn thông qua việc hội tụ giữa các ngành công nghiệp. Đổi mới là một trọng tâm khác của Kế hoạch, quyền sở hữu bằng sáng chế dự kiến sẽ có mức tăng hàng năm là 15%. Chính phủ Trung Quốc sẽ tăng cường hơn nữa môi trường pháp lý trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ để thu hút các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo (Government of China, 2016b). - Kể từ khi thực hiện MIC 2025, năng suất của 109 dự án thí điểm chế tạo thông minh giai đoạn I tại Trung Quốc tăng trung bình 38%, hiệu suất tiết kiệm năng lượng lên đến 9,5%, giá thành vận hành kinh doanh giảm 21%. Đầu tư cho hoạt động R&D luôn tăng và tập trung vào các doanh nghiệp chế tạo, máy tính, truyền thông. Hiện nay có rất nhiều lĩnh vực ngành chế tạo Trung Quốc đạt trình độ tiên tiến trên thế giới (Xinhua, 2017). - Thúc đẩy khoa học công nghệ vũ trụ và công nghiệp hàng không được Chính phủ Trung Quốc đặc biệt quan tâm. Ngành hàng không vũ trụ Trung Quốc đã đạt được những thành tựu mới trong thăm dò và sử dụng không gian vũ trụ. Ngày 20/4/2017, Trung Quốc đã phóng tàu vũ trụ Thiên Châu I tại bệ phóng Văn Xương, Hải Nam bằng tên lửa đẩy Trường Trinh 7, đánh dấu tàu chở hàng đầu tiên của Trung Quốc đi vào vũ trụ (South China Morning Post, 2017). Các loại tên lửa đẩy Trường Trinh và vệ tinh Bắc Đẩu đang ngày được hoàn thiện. Ngày 5/5/2017, máy bay chở khách cỡ lớn C919 đầu tiên do Trung Quốc sản xuất đã thực hiện chuyến bay đầu tiên thành công tại Thượng Hải, đánh dấu bước tiến lớn của Trung Quốc trong cuộc CMCN 4.0; đưa Trung Quốc đứng vào hàng ngũ những nước có thể chế tạo máy bay dân dụng cỡ lớn, sau Mỹ, Nga và Liên minh Châu Âu. Bên cạnh những thành tựu, Trung Quốc cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc thúc đẩy phát triển CMCN 4.0 (Lei Feng, 2018) bao gồm: - Thứ nhất, tiêu chuẩn hóa. Các nhà máy sẽ tiến hành nối mạng liên kết cho các sản phẩm và dịch vụ trong và ngoài nước nên phương thức thông tin và hình thức về số liệu cần phải được tiêu chuẩn hóa. Trung Quốc trong quá trình thúc đẩy việc kết hợp chặt chẽ giữa công nghệ thông tin và một số ngành công nghiệp, cũng cần phải coi trọng tiêu chuẩn hóa trong việc phát triển ngành công nghiệp chế tạo, đặc biệt là việc chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế. - Thứ hai, về hệ thống quản lý. Thực hiện CMCN 4.0, các quá trình sản xuất và hệ thống quản lý các dịch vụ cần phải điều tiết hài hòa, toàn bộ hệ thống sẽ càng ngày càng Chính sách ứng phó của Trung Quốc trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0- Gợi ý chính sách cho Việt Nam 18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 2019 phức tạp hơn, việc quản lý càng khó khăn. - Thứ ba, cơ sở hạ tầng về nền tảng thông tin. Với điều kiện cơ sở hạ tầng mạng lưới internet của Trung Quốc hiện nay thì sẽ rất khó đáp ứng được nhu cầu của thời đại CMCN 4.0. - Thứ tư, về bảo đảm an ninh mạng. Bước vào thời đại CMCN 4.0, nguồn nhân lực, vật lực, thiết bị sản xuất, các hệ thống quản lý sản xuất và giá thành đều phải kết nối với các doanh nghiệp. Do vậy, vấn đề về an ninh mạng là rất quan trọng. Việc cấp bách bây giờ đối với Trung Quốc là phải xây dựng được hệ thống chứng nhận an ninh thông tin mạng lưới công nghiệp một cách đồng bộ. 4. Gợi ý chính sách cho Việt Nam Cuộc CMCN 4.0 đã mở ra nhiều cơ hội cho nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, cuộc CMCN này đòi hỏi mỗi quốc gia cần chủ động sáng tạo, nỗ lực không ngừng nghỉ, vượt qua những khó khăn về kinh tế, nguồn nhân lực, thể chế, khung pháp lý để từng bước tham gia vào cuộc cách mạng lớn. Chính những kinh nghiệm từ quốc gia đi trước như Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam có những hướng đi đúng, nhanh trong việc tham gia vào cuộc CMCN 4.0. (i) Gói giải pháp về thể chế: Chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh, phát triển khung pháp lý, thể chế để tạo điều kiện cho nền kinh tế số phát triển và khuyến khích đổi mới các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong lĩnh vực quản lý nhà nước. (ii) Gói giải pháp về cơ sở hạ tầng: Trong cuộc CMCN 4.0, cơ sở hạ tầng số có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chính phủ Việt Nam nên học hỏi các kinh nghiệm của Trung Quốc trên nền tảng số hóa và trực tuyến hóa các dịch vụ công, giảm tải các thủ tục hành chính rườm rà và đưa vào số hóa các thủ tục cơ bản. Cần tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về những lợi ích to lớn và sự cần thiết trong khai thác dữ liệu mở. Khai thác hạ tầng dữ liệu mở không chỉ đem lại sự minh bạch và công khai lớn hơn của chính quyền với người dân và doanh nghiệp mà còn đem đến gia tăng việc làm, thu nhập, và nền tảng để phát triển IoT và AI. (iii) Gói giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực công nghệ và kinh tế số: Việt Nam cần có hệ sinh thái công nghệ nhằm phát triển các hoạt động công nghệ số như thương mại điện tử, cải tiến các mô hình kinh doanh mới. Khi các doanh nghiệp Việt Nam phát triển công nghệ đạt tầm trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để nền công nghệ số phát triển đòi hỏi nền tảng Internet đủ mạnh, với chi phí không cao để các doanh nghiệp có thể ứng dụng đầy đủ công nghệ trong tất cả các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. (iv) Gói giải pháp đào tạo nguồn nhân lực cao: Chính phủ Việt Nam cần hướng đến nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển năng lực sáng tạo, phát huy các kỹ năng khởi nghiệp. Các trường Đại học, trung tâm công nghệ cao nên tăng cường giảng dạy về các xu hướng công nghệ mới cũng ĐẶNG THU THỦY 19Số 209- Tháng 10. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng như liên kết hợp tác giữa các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp với các doanh nghiệp để cung cấp được một môi trường thực tiễn giúp người học tiếp cận cũng như học hỏi được các xu thế phát triển công nghệ mới trong nước và quốc tế. (v) Gói giải pháp huy động nguồn nhân lực, trí lực đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D): Chính phủ Việt Nam cần coi đây là yếu tố sống còn, quyết định đến quá trình đổi mới và phát triển hệ sinh thái sáng tạo. Chính phủ cần đưa ra những lộ trình cụ thể trong nghiên cứu để tiếp cận được nhanh với các xu hướng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực như vật liệu mới, năng lượng mới, thương mại, kỹ thuật, công nghệ thông tin, AI và tự động hóa theo từng dây chuyền sản xuất. Việt Nam cần có chiến lược để xây dựng bằng được các nhóm nghiên cứu mạnh, các viện nghiên cứu tiên tiến, các trung tâm xuất sắc trong các lĩnh vực này; Cần sớm có chiến lược, giải pháp cụ thể để phát triển các ngành tự động hóa tích hợp với các công nghệ cao như công nghệ thông tin, chuỗi cung ứng thông minh, sử dụng hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ mới, tối ưu hóa mô hình kinh doanh. 5. Kết luận Với nhiều nỗ lực, Trung Quốc được xem là quốc gia có bước chuyển mình đáng Tài liệu tham khảo 1. China State Council (2015), “Made in China 2025” - 中国制造 2025, State Council, July 7, 2015. 2. Chris Arkenberg (2018), “China inside: Chinese semiconductors will power artificial intelligence”, Deloite Insigh. https://www2.deloitte.com/insights/us/en/industry/technology/technology-media-and-telecom-predictions/chinese- semiconductor-industry.html 3. Deloite (2014), “Industry 4.0 – Challenges and solutions for the digital transformation and use of exponential technologies” 4. European Chamber (2017), “China Manufacturing 2025: Putting Industrial Policy Ahead of Market Forces” 5. Government of China (2016a), “人民银行等八部委印发《关于金融支持工业稳增长调结构增效益的若干意 见”, 6. Government of China (2016b), “国务院关于印发“十三五”国家战略性 新兴产业发展规划的通知” 7. 8. Hermann, Pentek, Otto (2015), “Design Principles for Industrie 4.0 Scenarios: A Literature Review”, Technische Universität Dortmund, Germany. 9. Invest in China (2015), “Changsha Initiates Action Plan on “Made in China 2025” cn/1800000121_37_47277_0_7.html 10. Jost Wübbeke, Mirjam Meissner (2016), “MADE IN CHINA 2025 - The making of a high-tech superpower and consequences for industrial countries”, MERICS PAPERS ON CHINA. 11. https://www.merics.org/sites/default/files/2017-09/MPOC_No.2_MadeinChina2025.pdf 12. Kagermann H, Anderl R, Gausemeier J (2016) (Eds), “Industrie 4.0 in a global context: Strategies for Cooperating with International Partners”, Acatech STUDY, Munich: Herbert Utz Verlag. 13. Klaus Schwab (2016), “The Fourth Industrial Revolution”, World Economic Forum. 14. Lei Feng, Xuehui Zhang (2018), “Current problems in China’s manufacturing and countermeasures for industry 4.0” 15. National Advisory Committee (NAC) on Building a Manufacturing Power Strategy (2015), “Made in China 2025 Major technical Roadmap”, 16. OECD (2018), “Transformative technologies and jobs of the future”, Background report for the Canadian G7 Innovation Ministers’ Meeting, Montreal, Canada 27-28 March 2018. 17. The U.S Chamber of Commercial (2017), “Made in China 2025: Global Ambitions Built on Local Protection”. 18. 19. https://www.scmp.com/news/china/article/2089836/chinas-first-cargo-spacecraft-tianzhou-1-docks-planned- orbiting-space-lab xem tiếp trang 86 Banking in the Czech Republic - from crises to stability Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 209- Tháng 10. 201986 15. Spiegel, M. (2001), “Quantitative Easing by the Bank of Japan”, Economic Letter, Federal Reserve Bank of San Francisco, No. 31, pp. 1-3. 16. Thornton, D. L. (2011), “The Effectiveness of Unconventional Monetary Policy: The Term Auction Facility”, Review, Federal Reserve Bank of St. Louis. Vol. 93 No. 6, pp. 439-454. 17. Vives, X. (2010), Competition and stability in banking, Working Paper, 852, IESE Business School, University of Navarra. 18. Vencovský, F. et al. (1999), Dějiny bankovnictví v českých zemích, Bankovní institut, Praha. ISBN 80-7265-030-0. 19. Williamson, S. (2015), “Monetary Policy Normalization in the United States”, Review, Federal Reserve Bank of St. Louis, Vol. 97 No. 2, pp. 87-108. kể trong lĩnh vực phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Trung Quốc cách đây vài thập kỷ còn thiếu thốn rất nhiều về cơ sở hạ tầng, nền tảng cạnh tranh, sự bất bình đẳng giữa khu vực tư nhân và nhà nước thì nay đã trở thành quốc gia dẫn dắt sự phát triển của công nghệ và đổi mới sáng tạo toàn cầu. Cuộc CMCN 4.0 đã tạo ra nhiều cơ hội cho Trung Quốc trong việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất cũng như mang đến thách thức cho quốc gia này trong lĩnh vực kinh doanh và cạnh tranh trong việc cung ứng chuỗi sản phẩm. Chính việc hiểu được các tác động tích cực trong dài hạn của cuộc CMCN 4.0 đến phát triển kinh tế, xã hội và môi trường sẽ giúp Trung Quốc xác định rõ các chính sách ứng phó cụ thể, mang tính tích cực. Việt Nam là quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Những kinh nghiệm của quốc gia láng giềng Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam trong việc nâng cao trình độ công nghệ, cải thiện khung pháp lý hỗ trợ ngành, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để tiến vào kỷ nguyên công nghệ mới- cuộc CMCN 4.0. ■ tiếp theo trang 19 thanh khoản của các cổ phiếu trong suốt cửa sổ nghiên cứu có thể dễ dàng quan sát ở Hình 2. Từ các kết quả nghiên cứu tiếp theo trang 8 ở trên, có thể kết luận rằng thông tin chia tách cổ phiếu có tác động tích cực đến thanh khoản của các cổ phiếu. 5. Kết luận Nghiên cứu này đã bổ sung thêm các bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của thông tin chia tách cổ phiếu đến sự thay đổi giá và thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên TTCK Việt Nam. Sử dụng mẫu nghiên cứu bao gồm 237 sự kiện chia tách của 150 công ty niêm yết trên HOSE trong giai đoạn 2015- 2017, kết quả kiểm định thống kê cho thấy giá của các cổ phiếu đã có sự thay đổi xung quanh ngày công bố thông tin chia tách cổ phiếu. Cụ thể là, giá cổ phiếu đã tăng 0,33% từ trước 2 phiên khi thông tin được công bố và tiếp tục tăng 0,59% ở phiên tiếp theo sau ngày công bố thông tin. Đặc biệt là, sự tăng giá của các cổ phiếu được duy trì liên tục suốt 10 phiên sau ngày công bố thông tin. Ngoài ra, nghiên cứu này còn ghi nhận sự ảnh hưởng tích cực của thông tin chia tách cổ phiếu đến thanh khoản của các cổ phiếu. Thanh khoản của các cổ phiếu đã tăng mạnh trong suốt giai đoạn nghiên cứu, đặc biệt là hai phiên sau ngày công bố thông tin. Dựa trên các bằng chứng thực nghiệm có thể kết luận rằng thông tin chia tách cổ phiếu đã có ảnh hưởng tích cực đến sự thay đổi giá và thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết trên HOSE ■

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchinh_sach_ung_pho_cua_trung_quoc_truoc_cuoc_cach_mang_cong.pdf
Tài liệu liên quan