Hoàn thiện khung khổ pháp lý về
chuyển giá
Khung khổ pháp lý đối với hoạt động tránh
thuế bằng chuyển giá tại Việt Nam còn nhiều
bất cập và thiếu tính pháp lý. Trước mắt, Việt
Nam cần hoàn thiện hành trang pháp lý về
chống chuyển giá và tiến tới ban hành Luật
chống chuyển giá nhằm thiết lập cơ sở pháp lý
đủ mạnh góp phần hỗ trợ công tác đấu tranh
hạn chế chuyển giá. Thu hẹp các ưu đãi về thuế,
cụ thể là hạn chế tối đa các chính sách xã hội
trong ưu đãi thuế. Chuyển giao quyền điều tra
cho cơ quan thuế từ cấp Tổng cục và lâu dài
đến cơ quan thuế cấp tỉnh, thành phố. Hoàn
thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người,
doanh nghiệp nộp thuế để từ đó theo dõi sát sao
những thay đổi về doanh thu, lợi nhuận của các
doanh nghiệp.
* Hợp tác chống chuyển giá
Chính phủ cũng như các cơ quan chức năng
về thuế tại Việt Nam cần hợp tác với Chính phủ
và cơ quan thuế của các nước nhằm phục vụ
công tác chống chuyển giá dựa trên nguyên tắc
góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia và hài hoà lợi
ích của ác bên có liên quan. Bên cạnh việc hợp
tác với các cơ quan thuế các nước thì Chính phủ
và cơ quan thuế của Việt Nam cũng cần chủ
động hợp tác với các chuyên gia có kinh
nghiệm và uy tín, đặc biệt là với các công ty, tổ
chức kiểm toàn lớn trên thế giới.
- Điều chỉnh các chính sách, văn bản có
liên quan
Một là, cần điều chỉnh sửa đổi luật Đầu tư
theo hướng: Hàng hoá do nhà đầu tư nước
ngoài nhập khẩu vào Việt Nam phải phù hợp và
tuân theo giá thị trường; Cần giám định giá trị
của máy móc và trang thiết bị nhập khẩu để tạo
tài sản cố định của cơ quan chuyên môn có
thẩm quyền, tránh việc nhà đầu tư nhập khẩu
các máy móc cũ, lạc hậu nhưng với mức giá
thành cao; Có quy định rõ về trách nhiệm,
nguyên tắc giám định, kiểm tra của các công ty,
đơn vị được phân công nhiệm vụ giám định
Hai là, cần sửa đổi bổ sung Luật Thương
mại theo hướng: Quy định rõ các doanh nghiệp
có quyền thoả thuận về giá nhưng với mức giá
phải phù hợp với mức giá thị trường; Quy định
mức xử lý vi phạm trong quản lý và niêm
yết giá.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách ưu đãi thuế và tránh thuế dưới hình thức chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
62
Original Article
Policies on Tax Incentives and Tax Avoidance through the
form of Transfer Pricing of FDI Enterprises in Vietnam
Chu Tien Minh*
VNU University of Economics and Business, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnan
Received 25 November 2020
Revised 06 March 2020; Accepted 09 March 2020
Abstract: The increasingly broad participation in world economic organizations provides Vietnam
with many opportunities to attract foreign investors. However, Vietnam faces a situation where
many foreign investors would take advantage of the gaps in the Government’s tax incentive
policies to avoid taxes. This has caused many losses and serious state budget deficit. Not only does
the state lose a large amount of money which businesses have an obligation to pay, but it also
creates a bad precedent, unfairness in tax for businesses. In this article, the author will analyze and
assess the state of affairs of the Government’s preferential tax policies and the tax avoidance in the
form of transfer pricing in Vietnam by foreign investors. Following after are recommendations to
complete the tax incentive policies and prevent tax avoidance in the form of transfer pricing of
foreign investors.
Keywords: Tax incentives policies, tax avoidance, transfer pricing, FDI enterprises, Vietnam.
*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: chutienminh1607@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4275
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
63
Chính sách ưu đãi thuế và tránh thuế dưới hình thức
chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam
Chu Tiến Minh*
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 25 tháng 11 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 07 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 09 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Việc tham gia ngày càng sâu và rộng vào các tổ chức kinh tế thế giới đem lại cho Việt
Nam nhiều cơ hội trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên bên cạnh đó, Việt Nam
phải đối mặt với thực trạng nhiều nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng những kẽ hở trong chính sách ưu
đãi thuế của Chính phủ nhằm tránh thuế. Điều này gây ra những hao tổn và thâm hụt nghiêm trong
ngân sách nhà nước. Nó không chỉ làm nhà nước thất thu một khoản tiền lớn mà các doanh nghiệp
phải có nghĩa vụ nộp mà nó còn tạo ra tiền lệ xấu, làm mất đi tính công bằng về thuế của các
doanh nghiệp. Trong bài viết này, tác giả sẽ phân tích và đánh giá thực trạng chinh sách ưu đãi
thuế của Chính phủ và hình thức tránh thuế dưới hình thức chuyển giá tại Việt Nam của những nhà
đầu tư nước ngoài. Từ đó, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế và hạn
chế hành vi tránh thuế dưới hình thức chuyển giá của các nhà đầu tư nước ngoài.
Từ khóa: Chính sách ưu đãi thuế, tránh thuế, chuyển giá, doanh nghiệp FDI, Việt Nam.
1. Dẫn nhập *
Từ lâu Thuế đã được coi là một khoản thu,
một khoản đóng góp bắt buộc do Nhà nước quy
định đối với các tổ chức và cá nhân trong xã hội
nhằm góp phần ổn định và thúc đẩy cho nền
kinh tế của quốc gia phát triển. Pháp luật của
Việt Nam đã quy định việc đóng góp thuế vừa
là quyền và vừa là nghĩa vụ phải thực hiện của
mỗi công dân.
Tuy nhiên, bên cạnh ban hành những khoản
thuế buộc phải nộp thì Nhà nước ta cũng ban
hành nhiều chính sách ưu đãi thuế áp dụng cho
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: chutienminh1607@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4275
từng đối tượng phải nộp thuế - trong đó có
những chính sách ưu đãi thuế “trải thảm đỏ”
cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Chính sách ưu đãi thuế có mục tiêu góp
phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào tập
trung ưu tiên phát triển những ngành, lĩnh vực,
địa bàn kém phát triển, hoặc giải quyết được
những bài toán khó khăn trước mắt cho các
doanh nghiệp trong nước về trình độ và vốn,
Ngoài ra, chính sách ưu đãi thuế không chỉ
thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với các
nhà đầu tư mà nó còn là công cụ để nhà nước
quản lý, điều tiết nền kinh tế- xã hội, góp phần
phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, một số nhà đầu tư nước ngoài,
khi tiến hành thực hiện đầu tư quốc tế đã lợi
dụng những kẽ hở trong chính sách ưu đãi thuế
C.T. Minh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
64
để thực hiện hành vi tránh thuế - để tránh không
phải thực hiện nghĩa vụ phải nộp thuế. Bằng
cách này thì người nộp thuế có thể giảm thiểu
các gánh nặng về thuế một cách hợp pháp. Hiện
nay, để thực hiện hành vi tránh thuế thì các nhà
đầu tư nước ngoài có thể thực hiện bằng nhiều
cách thức khác nhau. Nhưng hình thức phổ biến
nhất mà các nhà đầu tư nước ngoài thường thực
hiện đó chính là: chuyển giá. Do vậy, trong
khuôn khổ của bài viết, tác giả sẽ tập trung đi
sâu và nghiên cứu hình thức tránh thuế bằng
cách chuyển giá của nhà đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam.
2. Thực trạng áp dụng chính sách ưu đãi
thuế của Chính phủ đối với nhà đầu tư
nước ngoài
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để
thu hút được dòng vốn đầu tư nước ngoài đạt
được những kết quả tích cực theo những mục
tiêu đặt ra thì Chính phủ ta đã không ngừng
hoàn thiện các thể chế với nhiều chính sách ưu
đãi hấp dẫn [1]. Trong những năm vừa qua,
việc giảm gánh nặng về thuế và đa dạng các
hình thức ưu đãi thuế đã tạo nên một môi
trường đầu tư thuận lợi, cởi mở trong việc thu
hút vốn từ các doanh nghiệp FDI.
- Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Từ năm
2011 tính tới nay, Chính phủ ta đang thực hiện
quá trình cải thuế giai đoạn 4 [2]. Bên cạnh việc
giảm mức thuế suất phổ thông thì Chính phủ đã
quan tâm và điều chỉnh thông qua các lần sửa
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Cụ thể như
việc giảm mức thuế từ 25% giai đoạn
2009-2013 xuống còn 22% vào giai đoạn
2014-2015. Và đến ngày 01/01/2016 đến nay
thì mức thuế suất là 20%. Ngoài ra, đối với các
doanh nghiệp đầu tư, phát triển trong những
ngành, địa bàn được khuyến khích đầu tư thì sẽ
được áp dụng mức thuế chỉ còn 17%. Việc hạ
mức thuế thu nhập doanh nghiệp với các lĩnh
vực trọng điểm cần khuyến khích đầu tư của
Chính phủ đã góp phần tạo điều kiện thu hút,
khuyến khích nhà đầu tư, góp phần tăng trưởng,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Về ưu đãi thuế xuất nhập khẩu: Chính phủ
đã áp dụng mức thuế suất là 0% đối với việc
nhập khẩu các vật tư máy móc, thiết bị phục vụ
cho việc sản xuất đồng thời cũng áp dụng mức
thuế suất 0% cho việc xuất khẩu hàng hoá đã
qua chế biến hơn là hàng hoá ở dạng nguyên
liệu thô. Qua các năm, việc hoàn thiện các
chính sách ưu đãi thuế xuất nhập khẩu vẫn liên
tục được quan tâm nhằm đáp ứng được xu thế
hội nhập của thời đại đồng thời thu hút
được FDI.
- Về thời gian miễn thuế, giảm thuế: (i)
Miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế phải
nộp trong 09 năm tiếp theo đối với doanh
nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao, thực hiện
đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn. (ii) Miễn thuế
4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 05
năm tiếp theo đối với doanh nghiệp thực hiện
dự án đầu tư mới tại khu công nghiệp không
thuộc danh mục địa bàn có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khan hoặc đặc biệt khó khăn.
(iii) Miễn thuế 2 năm và giảm 50% số thuế phải
nộp trong 04 năm tiếp theo đối với doanh
nghiệp thực hiện đầu tư mới tại khu
công nghiệp.
Thời gian miễn thuế, giảm thuế sẽ được tính
liên tục từ năm đầu tiên doanh nghiệp có thu
nhập chịu thuế từ dự án đầu tư mới được hưởng
mức thuế ưu đãi. Trong trường hợp doanh
nghiệp không có thu nhập chịu thuế trong 3
năm đầu, kể từ năm đầu tiên mà doanh nghiệp
có doanh thu từ dự án đầu tư mới thì thời gian
miễn thuế, giảm thuế sẽ được tính từ năm thứ tư
dự án đầu tư mới phát sinh doanh thu.
- Về việc chuyển lỗ: Chính phủ tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp FDI có thể kết
chuyển lỗ sang năm sau. Số lỗ này được tính trừ
vào thu nhập tính thuế và thời gian được
chuyển lỗ không quá 05 năm kể từ năm tiếp
theo năm phát sinh lỗ.
- Về điều kiện áp dụng ưu đãi thuế: Trong
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế đã
quy định mức thuế suất là 20% tại khoản 2 Điều
10 và ưu đãi thuế tại khoản 1 Điều 4, 13, 14 của
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; không áp
dụng đối với doanh nghiệp có thu nhập từ hoạt
động chuyển nhượng vốn hay chuyển nhượng
quyền góp vốn; chuyển nhượng bất động sản;
C.T. Minh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
65
chuyển nhượng quyền tham gia các dự án đầu
tư,
Nhờ có chính sách ưu đãi về thuế mà dòng
vốn từ các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam liên
tục tăng lên qua các năm [3]. Chỉ tính đến tháng
9 năm 2018, Việt Nam đã có 24.803 dự án thu
hút được nhà đầu tư nước ngoài với tổng số vốn
đăng ký luỹ kế lên đến hơn 319 tỷ đô(USD).
Trong đó, những ngành như Công nghiệp chế
biến, chế tạo; Bán buôn bán lẻ, sửa chữa ô tô,
mô tô, xe máy và xe có động cơ khác; Thông
tin và truyền thông; Hoạt động chuyên môn,
khoa học và công nghệ, thu hút được sự quan
tâm lớn của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
với tổng số dự án đăng ký lớn và số vốn đăng
ký cao. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê thì
có đến 80% số dự án có 100% là vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, còn lại là đầu tư theo hình
thức liên doanh và hợp tác đầu tư.
Bảng 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo ngành kinh tế (luỹ kế đến tháng 9/2018) [4]
Số dự án Vốn đăng ký (Triệu USD)
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ 511,0 3.521,2
Khai khoáng 105,0 4.876,0
Công nghiệp chế biến, chế tạo 12.460,0 186.514,2
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng và điều hoà
không khí
115,0 20.820,9
Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 68,0 2.338,5
Xây dựng 1.481,0 10.846,5
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có
đông cơ khác
2.805,0 6.200,0
Vận tải, kho bãi 666,0 4.646,7
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 644,0 12.004,2
Thông tin và truyền thông 1.653,0 3.336,5
Hoạt động tài chính; ngân hàng và bảo hiểm 81,0 1.487,8
Hoạt động kinh doanh bất động sản 639,0 53.226,0
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 2.478,0 3.096,3
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 298,0 527,1
Giáo dục và đào tạo 376,0 759,9
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 134,0 1.867,0
Nghệ thuật, vui chơi, giải trí 133,0 2.781.6
Hoạt động dịch vụ khác 156,0 762.8
Tổng số 24.803,0 319.613,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Các nhà đầu tư nước ngoài đến từ một số
quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore,... hiện đang là những nhà đầu tư lớn
tại Việt Nam. Trong đó phải kể tới Nhật Bản là
quốc gia đứng đầu về quy mô vốn đầu tư tại
Việt Nam với tổng số vốn 8.944 triệu đô, tiếp
theo là Hàn Quốc với 7.320 triệu đô và đứng
thứ ba là Singapore với 5.249 triệu đô (Bảng 2).
Đầu tư nước ngoài đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong nền kinh tế nước ta những
năm vừa qua. Trong năm 2018, ước tính các dự
án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 19,1 tỷ
đô, tăng lên 9,1% so với cùng kỳ của năm 2017.
Khu vực FDI chiếm tới 23,4% trong tổng số
đầu tư cả nước. Kim ngạch xuất khẩu của khu
vực FDI cũng tăng 13,6% so với cùng kỳ năm
2017 và chiếm tới 70,7% kim ngạch xuất khẩu,
ước đạt 173,2 tỷ đô. Tỷ trọng đóng góp của khu
vực FDI trong GDP cũng góp phần thay đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá.
C.T. Minh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
66
Bảng 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đối tác
(luỹ kế đến tháng 9/2018) [5]
Đối tác Số dự án
Tổng vốn đầu
tư đăng ký
(Triệu USD)
Nhật Bản 440,0 8.944,5
Hàn Quốc 1.071,0 7.320,5
Singapore 228,0 5.249,9
Hồng Kông 174,0 3.252,6
Trung Quốc 408,0 2.531,7
Quần đảo Virgin
thuộc Anh
42,0 1.8885,0
Đài Loan 141,0 1.045,3
Thái Lan 41,0 762,9
Pháp 40,0 590,1
Hoa Kỳ 88,0 555,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Giai đoạn 2010-2018, nhờ có các chính
sách đầu tư nước ngoài, tỷ trọng các ngành đã
có sự chuyển dịch đáng kể. Cụ thể, trong lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ đã tăng lên bình
quân lần lượt là 12,98% và 7,03%. Trong khi
đó lĩnh vực nông nghiệp giảm còn 16,7% năm
2018. Bên cạnh đó, số lượng việc làm được tạo
ra từ các doanh nghiệp có vốn FDI tăng từ 1,7
triệu người vào năm 2010 lên hơn 4,5 triệu
người có việc làm vào năm 2018 (Hình 1).
Có thể nói chính sách ưu đãi thuế của Chính
phủ nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
không chỉ tạo động lực cho sự phát triển kinh
tế, hay sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ trong
các ngành kinh tế mà còn góp phần tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho người lao động, giúp
giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được
thì vẫn còn có những mặt hạn chế.
Thứ nhất, tác động của chính sách ưu đãi
thuế đối với việc phân bổ nguồn lực đầu tư còn
hạn chế, chưa thu hút được các doanh nghiệp
đầu tư vào các địa bàn, khu vực có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Các tỉnh
thành miền núi, vùng sâu, vùng xa như Tây
Nguyên, Tây Bắc, chỉ chiếm gần 10% tổng
vốn đầu tư của cả nước (Theo kết quả của bộ
Kế hoạch và đầu tư). Mặc dù được hưởng mức
ưu đãi thuế cao nhưng tỷ lệ bỏ trống và thu hút
được ít vốn tại các vùng này vẫn còn cao. Theo
số liệu của tổng cục Thống kê năm 2019 cho
thấy đến hết năm 2017, chỉ có 4,7% vốn FDI
được đăng ký đầu tư tại các vùng miền núi phía
Bắc và trung du Bắc Bộ (Hình 2).
Thứ hai, có thể thấy một số hình thức ưu
đãi thuế của ta còn chưa được rõ ràng, cụ thể
dẫn đến việc trở thành những “kẽ hở” để các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi
dụng để tránh thuế.
Các cách thức mà các nhà đầu tư nước
ngoài thường lợi dụng sự ưu đãi của chính sách
ưu đãi thuế để tránh thuế [6] có thể kể đến như:
- Việc thành lập doanh nghiệp mới để
hưởng ưu đãi thuế, đến khi hết thời hạn ưu đãi
thuế lại giải thể doanh nghiệp và thành lập
doanh nghiệp mới để kéo dài thời gian hưởng
miễn giảm thuế.
- Việc chuyển thu nhập từ những dự án
không hưởng ưu đãi sang những dự án được
hưởng ưu đãi về thuế. Nhà đầu tư cố tình tạo ra
những dự án đầu tư mới mang tính chất ngắn
hạn,kém hiệu quả để được hưởng lợi từ chính
sách ưu đãi hoàn thuế cho khoản lợi nhuận để
được sử dụng mục đích tái đầu tư.
- Thực hiện hành vi tránh thuế bằng hình
thức chuyển giá và báo lỗ. Mặc dù doanh
nghiệp FDI luôn liên tục báo cáo lỗ nhưng vẫn
liên tục đầu tư mới, mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh.
3. Đánh giá thực trạng tránh thuế dưới hình
thức chuyển giá của nhà đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam
Thực hiện chính sách ưu đãi thuế của Chính
phủ góp phần tích cực trong việc thu hút các
nhà đầu tư nước ngoài, góp phần làm tăng
trưởng kinh tế, xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, có
một thách thức ngày càng nổi lên trở thành một
vấn nạn làm đau đầu các cơ quan chức năng
quản lý thuế đó chính là việc nhà đầu tư nước
ngoài dựa trên những ưu đãi về thuế của Chính
phủ nhằm thực hiện hành vi tránh thuế bằng
hình thức chuyển giá.
Theo các báo cáo của VCCI thì hằng năm
có khoảng từ 40-50% doanh nghiệp FDI kê khai
báo lỗ, trong đó có nhiều doanh nghiệp liên tục
báo lỗ trong nhiều năm.
o
C.T. Minh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
67
0.00
500.00
1,000.00
1,500.00
2,000.00
2,500.00
3,000.00
3,500.00
4,000.00
4,500.00
5,000.00
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Hình 1. Số lao động có việc làm khu vực FDI [7].
Nguồn: Tổng cục thống kê.
33%
3%
6%
52%
6%
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông cửu Long
Hình 2. Số dự án FDI theo vùng (luỹ kế đến tháng 9/2018) [8].
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
C.T. Minh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
68
Tuy nhiên có nhiều trường hợp, các doanh
nghiệp FDI báo lỗ luỹ kế đến âm vốn chủ sở
hữu nhưng vẫn tiếp tục hoạt động thậm chí mở
rộng quy mô kinh doanh thay vì việc phải phá
sản hay đóng cửa sản xuất. Tại Việt Nam giai
đoạn 2010-2018 đã có một số những vụ việc
điển hình của việc nhà đầu tư nước ngoài tận
dụng những kẽ hở của chính sách ưu đãi thuế
của Chính phủ nhằm thực hiện hành vi tránh
thuế bằng hình thức chuyển giá điển hình như
ví dụ công ty Coca-Cola Việt Nam hay Công ty
Keangnam Vina,... [9].
Công ty Coca-Cola Việt Nam
Coca-Cola Việt Nam được xem như một
tình huống kê khai lỗ điển hình và nhận được
không ít sự quan tâm, chú ý của các cơ quan
chức năng một thời. Hoạt động trong lĩnh vực
nước giải khát tại Việt Nam năm 1992 và công
ty liên tục báo lỗ cho đến cuối năm 2012. Thực
trạng báo lỗ của công ty Coca-Cola Việt Nam
không đến từ việc tăng trưởng doanh số yếu bởi
mỗi năm công ty vẫn tăng trưởng trên 25%.
Tuy nhiên lý do mà công ty đưa ra đó chính là
giá chi phí nguyên vật liệu đầu vào cao trong
khi giá bán không đủ để bù đắp phần chi phí.
Giá nguyên vật liệu đầu vào thực tế tại công
ty mẹ Coca-Cola chỉ có giá là 1 đồng nhưng khi
bán vào Việt Nam lại được bán với giá 10 đồng.
Như vậy có thể thấy, doanh nghiệp đã nâng chi
phí sản phẩm lên ngay từ khâu mua nguyên liệu
đầu vào chứ không chỉ trong khâu sản xuất.
Đến thời điểm tháng 12/2012, tổng số luỹ kế
của công ty Coca-Cola Việt Nam lên tới 3.768
tỷ đồng vượt hơn 818 tỷ đồng so với số vốn đầu
tư ban đầu là 2.950 tỷ đồng. Đáng lẽ, điều này
đã phải khiến công ty lâm vào tình trạng phá
sản, tuy nhiên thay vì đóng cửa thì công ty
Coca-Cola Việt Nam tiếp tục đầu tư thêm 210
triệu đô (USD) để mở rộng hoạt động kinh
doanh. Điều này đặt ra nghi vấn về việc công ty
Coca-Cola dựa vào chính sách ưu đãi thuế để
chuyển giá bằng việc nâng giá nguyên vật liệu
đầu vào. Nhưng về mặt bằng chứng để chứng
minh công ty Coca-Cola Việt Nam chuyển giá
là rất yếu. Sau nhiều nỗ lực đấu tranh thì đến
năm 2013, công ty đã bắt đầu khai báo lãi và
nộp thuế cho Chính phủ Việt Nam.
Công ty Keangnam Vina
Keangnam Vina đặt chân tới Việt Nam vào
tháng 10/2007, sau 3 tháng được cấp phép,
công ty đã ký hợp đồng với công ty Keangnam
Enterprise là một thành viên cùng tập đoàn
công ty mẹ để làm tổng thầu EPC. Khi đó tổng
giá trị hợp đồng của hai công ty này là 871 triệu
đô (USD). Công ty Keangnam Enterprise có
nhiệm vụ là khảo sát, thiết kế dự án đồng thời
cung cấp thiết bị máy móc và thi công xây
dựng; thêm vào đó còn đảm nhiệm cả hoạt động
tư vấn tài chính, dàn xếp vốn vay cho
Keangnam Vina. Chỉ sau đó 1 năm, khoản chi
phí tư vấn tài chính này đã được công ty
Keangnam Vina chi trả cho Keangnam
Enterprise lên đến 485 tỷ đồng; phí dịch vụ sắp
xếp nguồn vay tới 20 triệu đô; chi phí quảng
cáo,... cũng lên tới vài triệu đô.
Mặc dù nhận được sự tư vấn đắc lực từ
Keangnam Enterprise, cùng với chi phí quảng
cáo lớn tuy nhiên công ty Keangnam Vina liên
tục báo lỗ và không nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp. Thì công ty Keangnam Enterprise tại
Hàn Quốc lại vui mừng vì khoản thu lãi lớn.
Keangnam Vina chỉ phải chịu khoản thuế cho
nhà thầu Việt Nam - mức thuế đó thấp hơn
nhiều so với việc đáng lý công ty phải nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp. Bằng chiêu thức đó thì
công ty Keangnam Vina đã chuyển được khoản
lợi lớn về Hàn Quốc.
Theo số liệu của cơ quan thuế quan, đến
thời điểm năm 2011 khi toà nhà Keangnam
Hanoi Lanmark được vận hành, doanh thu công
ty đạt tới trên 5.200 tỷ đồng nhưng công ty lại
khai báo lỗ đến 140 tỷ đồng. Từ vụ việc này, cơ
quan thuế Việt Nam đã vào cuộc thanh kiểm tra
và xác định hành vi chuyển giá của công ty
Keangnam Vina. Sau hoạt động thanh tra, kiểm
tra cơ quan thuế đã yêu cầu loại trừ đi tất cả
những khoản chi phí bất hợp lý. Do đó, tổng giá
trị EPC từ mức 871 triệu đô đã giảm xuống chỉ
còn 699 triệu đô. Kết quả thanh tra buộc
Keangnam Vina phải thừa nhận hành vi chuyển
giá và phải điều chỉnh giá lên đến 1.220 tỷ
đồng. Bên cạnh đó, Keangnam Vina còn bị truy
C.T. Minh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
69
thu thuế thu nhập doanh nghiệp lên tới 95.2 tỷ
đồng do hoạt động điểu chỉnh lại lợi nhuận.
Việc tránh thuế bằng hình thức chuyển
giá đã gây ra rất nhiều tác động xấu tới nền
kinh tế [10]:
- Làm thất thu ngân sách của nhà nước
Có thể thấy tác động dễ nhận thấy nhất của
việc tận dụng những kẽ hở của chính sách thuế
nhằm thực hiện hành vi tránh thuế bằng chuyển
giá của nhà đầu tư nước ngoài gây ra là làm thất
thu ngân sách nhà nước.Mặc dù nhiều doanh
nghiệp FDI liên tục báo lỗ nhưng lại bổ sung
tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô hoạt động.
Nhiều doanh nghiệp sau khi có sự vào cuộc của
các cơ quan thuế đã cho thấy kết quả từ các
khoản thất thu ngân sách nhà nước liên quan
đến chuyển giá là khá lớn.
- Làm cho doanh nghiệp Việt Nam bị “thôn
tính”, tạo ra môi trường cạnh tranh thiếu lành
mạnh và công bằng
Nhiều doanh nghiệp liên doanh giữa Việt
Nam và nhà đầu tư nước ngoài sau một thời
gian hoạt động thì doanh nghiệp đó trở thành
doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài. Việc
này xảy ra khi phía nhà đầu tư nước ngoài góp
vốn bằng thương hiệu, bí quyết sản xuất, kinh
doanh, cung cấp các nguyên vật liệu đầu vào,...
và khai giá tăng các khoản chi phí đó làm giá
thành đầu vào cao mà giá bán ra lại không
tương xứng khiến doanh nghiệp bị lỗ. Theo giá
trị tỷ lệ góp vốn thì lúc đó bên phía nhà đầu tư
nước ngoài sẽ yêu cầu đề nghị doanh nghiệp
Việt Nam tăng vốn góp để thay đổi công nghệ,
nghiên cứu phát triển sản phẩm,... nếu không
thể tiếp tục góp vốn thì doanh nghiệp Việt Nam
có thể bán phần vốn cho nhà đầu tư nước ngoài
và rút khỏi liên doanh. Từ hình thức trên thì
nhiều doanh nghiệp Việt sau quá trình liên
doanh thì đã trở thành doanh nghiệp có 100%
vốn đầu tư nước ngoài.
- Làm gia tăng thâm hụt thương mại và rủi
ro tài chính
Thay vì sử dụng nguyên liệu, công nghệ và
thiết bị từ các nhà cung cấp nội địa, các nhà đầu
tư nước ngoài thường ưu tiên sử dụng các đối
tác liên kết đến từ quốc gia khác. Kết quả là cầu
nhập khẩu tăng lên gây sức ép lên thâm hụt cán
cân thương mại. Thâm hụt thương mại cũng có
nghĩa là tăng nghĩa vụ nợ nước ngoài của quốc
gia. Các biến động tỷ giá trên thị trường tài
chính quốc tế sẽ đặt quốc gia vay nợ vào tình
trạng rủi ro tỷ giá. Để ổn định tỷ giá chính phủ
thường phải sử dụng dự trữ ngoại tệ để can
thiệp. Điều này có thể làm suy yếu nguồn dự
trữ ngoại tệ của các quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia đang phát triển vốn thường phải rất
chắt chiu từng đồng dự trữ ngoại tệ. Cầu nhập
khẩu và cầu ngoại tệ tăng cũng có nghĩa là sức
ép tăng giá ngoại tệ, ảnh hưởng đến các khu
vực nhập khẩu khác trong nền kinh tế.
4. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính
sách ưu đãi thuế nhằm hạn chế hành vi
tránh thuế của doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài
Quá trình toàn càu hoá không chỉ đem đến
cho Việt Nam những cơ hội góp phần hội nhập,
tăng trưởng kinh tế mà nó cũng đem lại cho
Việt Nam những thách thức lớn. Làm thế nào
để có các chính sách ưu đãi thuế thu hút được
nhà đầu tư bền vững, bên cạnh đó cũng hạn chế
tối đa việc lợi dụng những kẽ hở của các chính
sách ưu đãi thuế để tránh thuế của nhà đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam:
* Nâng cao năng lực cho các cán bộ thuế
Cần có chiến lược nâng cao năng lực cho
các cán bộ thuế để ngăn chặn hành vi tránh thuế
bằng chuyển giá. Cần thường xuyên đào tạo,
trau dồi các kiến thức, mánh khoé của các hành
vi tránh thuế nói chung và chuyển giá nói riêng
một cách định kỳ. Hợp tác với các cơ quan thuế
của các nước, các tổ chức kiểm toán lớn và uy
tín có kinh nghiệm để trao đổi, đào tạo nhằm bổ
sung kiến thức cho cán bộ thuế. Ngoài các
chuyên môn về hoạt động tránh thuế bằng
chuyển giá thì các cán bộ cũng cần được trang
bị những kỹ năng mềm liên quan như khả năng
giao tiếp, đàm phán, thương lượng và giải quyết
các vấn đề, gỉai quyết các tranh chấp, nâng cao
trình độ ngoại ngữ, Cơ quan thuế cũng cần
được trao thêm những thẩm quyền điều tra các
hành vi gian lận thuế ngoài thẩm quyền thanh
kiểm tra thuế như hiện nay. Đi kèm với quyền
được tăng cường thì trách nhiệm gảii trình các
cơ quan thuế cũng sẽ được nâng lên tương xứng
C.T. Minh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
70
để tránh việc lạm dụng quyền hạn nhằm mục
đích trục lợi, làm việc thực thi chính sách thiếu
tính công bằng, minh bạch.
* Không thu hút FDI bằng mọi giá
Trong những năm vừa quá, Việt Nam đã
thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài tới
tới và đầu tư phát triển. Khi nguồn lực đầu tư
nước ngoài ngày càng trở nên khó khăn hơn, thì
cũng đòi hỏi Việt Nam phải có sự chọn lọc hơn
trong việc thu hút đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài. Bên cạnh những ưu đãi về thuế thì Việt
Nam cũng cần đặt ra những điều kiện song
phẳng đối với các nhà đầu tư nước ngoài liên
quan tới nghĩa vụ về thuế khi hoạt động ở Việt
Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại
Việt Nam nhờ tận dụng lợi thế kinh doanh tại
Việt Nam để thu lợi nhuận thì cần có trách
nhiệm nộp thuế đầy đủ.
* Không ban hành chính sách ưu đãi thuế
đại trà
Các chính sách ưu đãi thuế mà chính phủ
ban hành dành cho các nhà đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam được đánh giá là được đưa ra quá
nhiều ưu đãi nhưng thiếu ràng buộc các tiêu chí
để nhận được các ưu đãi đó.Ví dụ trong Luật
khuyến khích đầu tư, việc đầu tư vào địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn mới chỉ
quan tâm các tiêu chí đầu vào thay vì việc sử
dụng các kết quả đầu ra như số lao động sử
dụng thực tế, thu nhập bình quân đầu người,
trình độ sử dụng công nghệ, làm điều kiện để
nhận ưu đãi. Do việc ban hành nhiều chính sách
ưu đãi thuế đại trà cho các nhà đầu tư nước
ngoài dẫn đến việc nhiều địa phương kém phát
triển thu hút được nhiều nhà đầu tư nhưng do
chính sách ưu đãi thuế mà ngân sách trung
ương phải bù lỗ cho những địa phương như vậy
* Hoàn thiện khung khổ pháp lý về
chuyển giá
Khung khổ pháp lý đối với hoạt động tránh
thuế bằng chuyển giá tại Việt Nam còn nhiều
bất cập và thiếu tính pháp lý. Trước mắt, Việt
Nam cần hoàn thiện hành trang pháp lý về
chống chuyển giá và tiến tới ban hành Luật
chống chuyển giá nhằm thiết lập cơ sở pháp lý
đủ mạnh góp phần hỗ trợ công tác đấu tranh
hạn chế chuyển giá. Thu hẹp các ưu đãi về thuế,
cụ thể là hạn chế tối đa các chính sách xã hội
trong ưu đãi thuế. Chuyển giao quyền điều tra
cho cơ quan thuế từ cấp Tổng cục và lâu dài
đến cơ quan thuế cấp tỉnh, thành phố. Hoàn
thiện hệ thống thông tin, dữ liệu về người,
doanh nghiệp nộp thuế để từ đó theo dõi sát sao
những thay đổi về doanh thu, lợi nhuận của các
doanh nghiệp.
* Hợp tác chống chuyển giá
Chính phủ cũng như các cơ quan chức năng
về thuế tại Việt Nam cần hợp tác với Chính phủ
và cơ quan thuế của các nước nhằm phục vụ
công tác chống chuyển giá dựa trên nguyên tắc
góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia và hài hoà lợi
ích của ác bên có liên quan. Bên cạnh việc hợp
tác với các cơ quan thuế các nước thì Chính phủ
và cơ quan thuế của Việt Nam cũng cần chủ
động hợp tác với các chuyên gia có kinh
nghiệm và uy tín, đặc biệt là với các công ty, tổ
chức kiểm toàn lớn trên thế giới.
- Điều chỉnh các chính sách, văn bản có
liên quan
Một là, cần điều chỉnh sửa đổi luật Đầu tư
theo hướng: Hàng hoá do nhà đầu tư nước
ngoài nhập khẩu vào Việt Nam phải phù hợp và
tuân theo giá thị trường; Cần giám định giá trị
của máy móc và trang thiết bị nhập khẩu để tạo
tài sản cố định của cơ quan chuyên môn có
thẩm quyền, tránh việc nhà đầu tư nhập khẩu
các máy móc cũ, lạc hậu nhưng với mức giá
thành cao; Có quy định rõ về trách nhiệm,
nguyên tắc giám định, kiểm tra của các công ty,
đơn vị được phân công nhiệm vụ giám định
Hai là, cần sửa đổi bổ sung Luật Thương
mại theo hướng: Quy định rõ các doanh nghiệp
có quyền thoả thuận về giá nhưng với mức giá
phải phù hợp với mức giá thị trường; Quy định
mức xử lý vi phạm trong quản lý và niêm
yết giá.
5. Kết luận
Trong những năm vừa qua, với tiến trình
quốc tế hoá, Việt Nam cũng đã đạt được những
thành tựu trong việc thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài. Việt Nam đã không ngừng sửa đổi,
bổ sung và ban hành nhiều những chính sách
C.T. Minh / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 62-71
71
trong đó có chính sách ưu đãi thuế phù hợp với
sự vận động của nền kinh tế để thu hút nhà đầu
tư nước ngoài. Tuy nhiên bên cạnh đó, các
chính sách ưu đãi thuế này cũng tồn tại những
kẽ hở, lỗ hổng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư
nước ngoài tận dụng để thực hiện hành vi tránh
thuế. Do vậy, việc hoàn thiện chính sách ưu đãi
thuế cùng với các giải pháp giúp ngăn chặn
hành vi tránh thuế là việc làm hết sức cần thiết
trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo
[1] The Central Propaganda Department of the
Communist Party of Vietnam, The Central
Committee of the Communist Party of Vietnam,
Political report of the 11th Central Committee of
the Party at the 12th National Party Congress of
the Party, 2017. (in Vietnamese).
[2] Goverment, Decision 732/QĐ-TTg, “Tax system
reform strategy for period 2011-2020”, 2011.
(in Vietnamese).
[3] Dinh Trong Thang, Tran Tien Dung, “Situation of
preferential policies to attract FDI into Vietnam”,
Financial Magazine.
trang-chinh-sach-uu-dai-thu-hut-fdi-vao-viet-
nam-hien-nay-308895.html/, 2019 (accessed 04
September 2019).
[4] General Statistics Office of Vietnam, Report of
Foreign Direct Investment in Vietnam by
Economic sectors accumulated to the Third quater
of 2018.
[5] General Statistics Office of Vietnam, Report of
Foreign Direct Investment in Vietnam according
to cumulative partners up to the Third quater
of 2018.
[6] Nguyen Thi Thanh Huong, “Identify tax evasion
behavior and propose some solutions”, Financial
Magazine.
doi/trao-doi-binh-luan/nhan-dien-cac-hanh-vi-tron-
thue-va-de-xuat-mot-so-giai-phap-102002.html/,
2015 (accessed 29 September 2019).
[7] General Statistics Office of Vietnam, Report of
Employed Employment in FDI Sector, 2018.
[8] General Statistics Office of Vietnam, Report of
FDI projects by cumulative region to Quarter
III, 2018.
[9] Ngan Giang, “Classic transfer pricing deals in
Vietnam”, Vietnamnet electronic magazine,
https://infonet.vietnamnet.vn/nhung-phi-vu-chuyen-
gia-kinh-dien-o-viet-nam-post268869.info/, 2018
(accessed 08 October 2019).
[10] Pham Thi Thanh, “Some problems of tax fraud of
bussinessess”, Fianancial Magazine,
so-van-de-ve-gian-lan-thue-cua-cac-doanh-nghiep-
119562.html/, 2017 (accessed 09 October 2019).
h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_uu_dai_thue_va_tranh_thue_duoi_hinh_thuc_chuyen_g.pdf