Đã có nhiều quốc gia có phản ứng tích cực
nhằm làm đảo chiều mức sinh đang giảm xuống
quá nhanh mà kết quả đạt đợc không đáng là
bao. Có thể chia làm 3 nhóm: Nhóm 1 - Không
can thiệp (Thái Lan), Nhóm 2 - Chú trọng phúc
lợi (Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc) và
Nhóm 3 - Khuyến sinh (Singapore).
Uỷ Ban Dân số Liên Hợp Quốc cũng đã tiến
hành nghiên cứu, tính toán số ngời nhập c cần
thiết để ngăn ngừa tình trạng suy thoái dân số
của một số quốc gia, làm chậm tốc độ suy giảm
của tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động so với
dân số già. Theo Huguet, nếu Nhật Bản không
chấp nhận phơng án nhận ngời nhập c thay
thế thì dân số sẽ giảm sau năm 2010. Dân số
Trung Quốc và Hàn Quốc sẽ giảm sau năm
2035. Sử dụng lao động nớc ngoài đã trở thành
thực tế của nhiều quốc gia nh Nhật Bản,
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Thái
Lan nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động,
mặc dù chủ yếu là những hợp đồng lao động có
thời hạn. Mặc dù vậy, các yếu tố kinh tế, xã hội,
môi trờng văn hoá có vai trò ảnh hởng lớn hơn
là yếu tố cơ cấu dân số. Lựa chọn phơng án
nhập c thay thế sẽ đạt hiệu quả cao hơn song là
vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp và nhạy cảm.
Vấn đề này đã từng gây tranh cãi nhiều năm ở
Singapore. Với những quốc gia có nền văn hoá
nho giáo, do mất cân bằng giới tính khi sinh theo
hớng trọng nam trong quá khứ mà vấn đề “cô
dâu” nớc ngoài đã trở thành vấn đề xã hội từ
những năm 1990 đến nay. Đài Loan, Hàn Quốc
đã có những điều chỉnh chính sách để thích ứng
với xã hội đa sắc tộc, đa văn hoá và đa tôn giáo
và xây dựng một xã hội hài hòa.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách và chương trình dân số của một số nước châu Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Thái Lan
Trong suốt những thập niên đầu của thế kỷ
XX, cho tới những năm 60, quan điểm chính
thống của Thái Lan về dân số chủ yếu là khuyến
sinh. Tổng điều tra Dân số đầu tiên năm 1911
cho biết dân số Thái Lan chỉ có 8 triệu người.
Khi thành lập mạng lưới dịch vụ y tế công đầu
tiên vào những năm đầu của thế kỷ XX, một
trong những lý do được đưa ra là nhằm giảm tỷ
lệ tử vong với mục đích tăng quy mô dân số.
Trong suốt thời kỳ Đại chiến thế giới thứ II, Thủ
tướng Thái Lan tuyên bố để trở thành cường
quốc, Thái Lan cần có dân số 100 triệu người.
Chính phủ khuyến khích kết hôn sớm để “đóng
góp vào sự thịnh vượng của đất nước”. Vào cuối
năm 1956, Chính phủ có chính sách khen
thưởng cho những gia đình sinh nhiều con.
Năm 1958-1959 Đoàn Kinh tế của Ngân hàng
thế giới vào Thái Lan đã phải khuyến nghị
Chính phủ Thái Lan nên xem xét thận trọng
những tác động do gia tăng dân số nhanh đối với
phát triển kinh tế. Văn phòng Thủ tướng đã
thành lập một loạt uỷ ban để nghiên cứu vấn đề
này và đưa ra khuyến nghị cho Nội các.
Trong suốt giai đoạn chuẩn bị để ra tuyên bố về
chính sách dân số, Nội các đã đồng tình cho
phép thực hiện kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ)
tự nguyện và năm 1967 Thủ tướng Thái Lan đã
ký kết Bản tuyên bố về Dân số của các nguyên
thủ quốc gia tại Liên Hợp Quốc.
Đầu những năm 70, Bộ Phát triển Kinh Tế Quốc
Dân cùng với Bộ Y tế và Viện nghiên cứu Dân số
của trường Đại học Chulalongkorn đã trình Nội
các bản báo cáo toàn diện về những ảnh hưởng
của gia tăng dân số ở mức cao đối với phát triển
CHíNH SáCH Và CHƯƠNG TRìNH
DÂN Số CủA MộT Số NƯớC CHÂU á
1
TS. Đoàn Minh Lộc
kinh tế-xã hội. Vào tháng 3 cùng năm, Nội các
Thái Lan đã chấp thuận báo cáo và chính thức
tuyên bố rằng Chính phủ Thái Lan có chính sách
ủng hộ KHHGĐ tự nguyện.
Ngoài Bộ Y tế, có hai bộ khác với mạng lưới
hành chính rộng khắp tham gia hỗ trợ thực hiện
Chương trình KHHGĐ quốc gia. Đó là Bộ Giáo
dục và Bộ Nội vụ. Bộ Giáo dục thực hiện giáo
dục dân số trong khi đó Bộ Nội vụ, với tư cách
một cơ quan mới tham gia lĩnh vực này, cung
cấp các dịch vụ KHHGĐ cho một số nhóm đối
tượng được lựa chọn ví dụ như các bộ tộc sống ở
vùng cao, vùng biên giới, vùng nông thôn xa
xôi, hẻo lánh.
Từ năm 1970 đến năm 1999, chính sách dân số
của Chính phủ Thái Lan đã đạt được hai mục
tiêu chính là giảm sinh thông qua Chương trình
KHHGĐ quốc gia và phân bố lại dân cư, chuyển
dân ra khỏi thành phố trung tâm Bangkok. Thái
Lan đã thành công trong việc kiềm chế tốc độ
gia tăng dân số trong suốt 25 năm. Ước tính
giảm 1% mỗi năm tính đến cuối năm 1998. Mức
sinh giảm nhanh chủ yếu do các thành tựu phát
triển kinh tế xã hội và hiệu quả của Chương trình
KHHGĐ quốc gia, cung cấp các dịch vụ tránh
thai được trợ giá.
Tuy nhiên, dân số Thái Lan là 66,1 triệu
người vào năm 2008 và tiếp tục tăng mặc dù
mức sinh đã ở dưới mức thay thế. Đó là hệ quả
của đà tăng dân số do cơ cấu dân số đã hình
thành với mức sinh cao trong thời kỳ đầu của
quá độ dân số. Theo phương án mức sinh thấp
1
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
60
Nhìn ra nước ngoài
nhất tổng dân số có thể đạt đỉnh điểm 70 triệu.
Theo phương án mức sinh cao hơn, tổng dân số
có thể lên đến 80 triệu người hoặc hơn.
2. Hàn Quốc
Quá trình chuyển đổi mức sinh ở Hàn Quốc
bắt đầu từ những năm đầu của thập niên 60 thế
kỷ XX cùng với việc triển khai chương trình
KHHGĐ của Chính phủ. Thực tế này thường
được đưa ra để minh chứng Chính phủ là yếu tố
quyết định nhất của việc chuyển đổi mức sinh.
Chương trình đã nhận được mọi sự hỗ trợ cần
thiết của Chính phủ cho đến cuối những năm 80,
khi mà tổng tỷ suất sinh giảm xuống dưới mức
thay thế. Việc thực hiện chính sách kiểm soát
sinh tại Hàn Quốc đơn giản và minh bạch. Tư
tưởng kiểm soát dân số hay kiểm soát sinh khởi
phát từ Uỷ ban tư vấn xã hội (SAC). Nét đặc
trưng của chương trình KHHGĐ Hàn Quốc
trong thời kỳ sơ khai là thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Biện pháp thực hiện chính sách này là
tuyên truyền vận động. Với cách tiếp cận này,
Bộ trưởng Bộ Y tế và các vấn đề xã hội được giao
đảm nhận nhiệm vụ và Hội KHHGĐ Hàn Quốc
là tổ chức thực hiện các chương trình dân sự.
Với việc ban hành chính sách kiểm soát dân
số, Chính phủ bắt đầu xây dựng cơ cấu tổ chức
cho chương trình KHHGĐ Hàn Quốc. Năm
1962, các phòng cung cấp dịch vụ KHHGĐ
được thiết lập tại 183 trung tâm y tế hạt (gun),
quận (gu), và vào năm 1964 khoảng 1.473 nhân
viên KHHGĐ được tuyển dụng và được cử
xuống các đơn vị hành chính cấp dưới với mục
đích tiếp cận các gia đình. Các hoạt động
KHHGĐ được thực hiện đầy đủ vào năm 1965.
Ban đầu, chương trình tập trung vào các khu vực
nông thôn, nơi mức sinh cao nhất và kiến thức về
KHHGĐ rất hạn chế. Sau đó chương trình vươn
đến các khu vực thành thị.
Năm 1968, Bộ Y tế và các vấn đề xã hội thành
lập Trung tâm KHHGĐ Quốc gia để thực hiện
các nghiên cứu về KHHGĐ (sau đó được đổi
thành Viện KHHGĐ Hàn Quốc, Viện Dân số và
Y tế Hàn Quốc, và sau này là Viện các vấn đề xã
hội và Y tế Hàn Quốc).
Vào đầu những năm 1980, Chính phủ quân sự
do Chung-Đô-Hoan đứng đầu đã tăng cường sự
hỗ trợ của mình đối với chương trình KHHGĐ.
Lý do căn bản của việc này là Chính phủ muốn
kiềm chế cuộc bùng nổ dân số lần thứ hai, do thế
hệ “bùng nổ dân số” sau chiến tranh của Hàn
Quốc bước vào độ tuổi sinh đẻ và thời kỳ này dự
kiến kéo dài đến hết thập niên 80.
Vào giữa thập niên 80, Hàn Quốc đạt dưới
mức thay thế. Chuyển đổi mức sinh diễn ra cùng
với sự hiện diện của phát triển xã hội và được
tiến hành đồng thời với những chuyển đổi kinh
tế-xã hội trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế, công
nghiệp hoá, đô thị hoá, và cải thiện hệ thống
giáo dục.
Nhiều nhà quan sát nhìn nhận những kinh
nghiệm của Hàn Quốc trên quan điểm rằng, một
chương trình KHHGĐ mạnh, cùng với một
chương trình phát triển kinh tế xã hội cao là cần
thiết trong việc đạt được mức sinh thấp tại các
nước đang phát triển.
3. Indonesia
Năm 1971 dân số Indonesia là 119 triệu và
hơn 2/3 dân số sống trên các đảo Jawa, Madura
và Bali. Nhận thấy việc gia tăng nhanh dân số là
một cản trở đối với sự phát triển kinh tế, năm
1970 Chính phủ đã cam kết giảm tổng tỷ suất
sinh 5,8 con xuống còn một nửa vào năm 2005.
Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm giai đoạn
1970 1980 là 2,34%, với tỷ lệ này dân số sẽ tăng
gấp đôi sau 29,6 năm. Năm 1994, tổng tỷ suất
sinh đã giảm xuống còn khoảng 2,86 con (ROI
CBS et al. 1995), và tỷ lệ tăng bình quân hàng
năm đã giảm xuống còn khoảng 1,66%.
Indonesia không chỉ có Uỷ ban điều phối
Quốc gia về KHHGĐ mà còn có cả Bộ Dân số.
Có lẽ chính phủ thấy được những nguy cơ đe dọa
trước mắt như đói nghèo, an ninh lương thực, an
ninh xã hội, tích luỹ huy động vốn để phát
triển... Chính vì thế, chính phủ Indonesia đã tính
đến việc làm thế nào để có một cơ quan chuyên
trách đủ mạnh, đủ năng lực và quan trọng hơn là
phải ổn định mới chuyên tâm quản lý một cách
toàn diện sự phát triển dân số.
61
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
Indonesia là một thí dụ tiêu biểu cho những
thành công của chính sách và các dịch vụ dân số
trong khuôn khổ toàn bộ sự phát triển kinh tế-xã
hội của mình. ở tầm vĩ mô cấp nhà nước, việc
thành lập Bộ Dân số và ủy ban phối hợp Kế
hoạch hoá gia đình Quốc gia (thường gọi là
BKKBN), phản á nh nhận thức của Chính phủ về
tầm quan trọng ngày càng tăng của công tác dân
số trong bối cảnh rộng hơn của các vấn đề kinh
tế-xã hội. ở tầm vi mô, Chính phủ đã lồng ghép
các vấn đề dân số với phát triển vùng thông qua
một trung tâm dịch vụ và có sự tham gia của
cộng đồng các doanh nghiệp. Những kết quả
này cho thấy tầm quan trọng mà Chính phủ đã
đặt ra cho việc tuyên truyền nhanh trong công
chúng về KHHGĐ và về tiêu chuẩn gia đình ít
con. Họ đã đạt được rất nhiều thành tựu từ năm
1970, bao gồm cả việc nhận thức rộng rãi cũng
như am hiểu về các loại phương tiện tránh thai
(PTTT) ở phụ nữ có chồng, tỷ lệ sử dụng biện
pháp tránh thai (BPTT) cao, mức sinh thấp, mức
chết sơ sinh và trẻ em thấp hơn và tốc độ tăng
dân số chậm lại.
BKKBN được giao trách nhiệm điều phối tất
cả các hoạt động KHHGĐ do các tổ chức Chính
phủ và phi chính phủ thực hiện. Nhiệm vụ của
nó là cung cấp phúc lợi xã hội và kinh tế cho
người dân Indonesia thông qua hỗ trợ của kế
hoạch hoá dân số và KHHGĐ.
Tiến trình phát triển thành công của công tác
dân số là do nhiều nguyên nhân. Đó có thể là kết
quả của cam kết chính trị mạnh mẽ. Đó có thể là
do việc triển khai BPTT hiện đại mới cũng như
các nguồn cung ứng mới đáp ứng những nỗ lực
đổi mới. Đó cũng có thể là kết quả của việc tiếp
cận những nhóm đối tượng mới. Hoặc giả đó
cũng là kết quả từ những thay đổi về những
chính sách và điều hành chương trình. Với
trường hợp của Indonesia, yếu tố chủ yếu là sự
cam kết mạnh mẽ của Chính phủ về sự ổn định
kinh tế và chính trị, yếu tố nền tảng làm chỗ dựa
cho chính sách dân số và những nỗ lực của
chương trình. Không có sự ổn định này, chương
trình KHHGĐ khó tránh khỏi những bấp bênh
và rủi ro dẫn đến có thể làm hạn chế thành công
của chương trình.
4. Đài Loan
Trong vòng 50 năm trở lại đây, Đài Loan
không chỉ đạt được những tiến bộ đáng kể về
kinh tế mà còn hoàn tất công cuộc hiện đại hoá
dân số.
Cũng giống như các quốc gia đang phát triển
khác, Đài Loan phải đối mặt với vấn đề gia tăng
dân số sau Đại chiến thế giới thứ II. Vào khoảng
năm 1950, Đài Loan phải chịu áp lực khá lớn
của dân số vì có khoảng 1,3 triệu người di cư từ
Trung Quốc Đại lục tràn lên Đài Loan, một hòn
đảo với diện tích không rộng (36.000 km2) lại bị
chiến tranh tàn phá và dân cư sở tại đã vào
khoảng 6 triệu người đang sinh sống tại đảo.
Đầu năm 1950, John E. Baker, một thành
viên của Uỷ ban Hỗn hợp Tái thiết Nông thôn đã
cảnh báo về độ chênh đến mức nguy hiểm giữa
dân số và sản lượng nông nghiệp. Uỷ ban đã tích
cực phối hợp để in và phát hành hàng triệu cuốn
sách mỏng có tên Gia đình Hạnh Phúc thông
qua mạng lưới y tế nông thôn. Cuốn sách đã giải
thích và khuyến khích sử dụng biện pháp tính
chu kỳ kinh nguyệt để kiểm soát sinh.
Nỗ lực này đã gây phản ứng mạnh mẽ từ các
nhà lập pháp và giới trí thức. Những người này
đã tố cáo biện pháp này như một âm mưu làm
suy giảm sức mạnh quân sự của quốc gia.
Nhằm hiểu biết rõ hơn vấn đề dân số của Đài
Loan và các giải pháp khả thi, năm 1952 Uỷ ban
Hỗn hợp Tái thiết Nông thôn, với sự hỗ trợ từ
Quỹ Rockefeller, đã mời ông George W.
Barclay thuộc Đại học Princeton để thành lập
một tổ nghiên cứu về dân số.
Bất chấp phản ứng mạnh mẽ của phe đối lập,
Uỷ ban Hỗn hợp đã hỗ trợ tài chính cho một
nhóm nhiệt huyết để thành lập Hội KHHGĐ
Trung Hoa vào năm 1954. Nhiệm vụ của Hội là
hỗ trợ tập huấn và cung cấp thông tin về các
BPTT truyền thống.
Năm 1956, các phe đối lập đưa ra ý kiến phản
62
Nhìn ra nước ngoài
bác tại quốc hội. K.C Yen đã thông báo Chính
phủ không có ý định khuyến khích kiểm soát
dân số hay KHHGĐ. Ông tuyên bố rằng một tổ
chức dân sự muốn thực hiện ý tưởng trên bình
diện pháp lý thì không phải là không phù hợp,
nhưng phá thai là bất hợp pháp và phải bị cấm.
Năm 1960, Viện Sức khoẻ Bà mẹ và Trẻ em
Đài Loan, với sự trợ giúp của Uỷ ban Hỗn hợp,
tiến hành thử nghiệm một chương trình chăm sóc
sức khoẻ trước khi mang thai tại 8 trạm y tế thuộc
các khu vực hành chính ở Quận Nantou (Trung
tâm Đài Loan). Tháng 9 năm 1961, Trung tâm
nghiên cứu dân số Đài Loan được thành lập trực
thuộc Bộ Y tế, với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính
từ Trung tâm nghiên cứu dân số thuộc Đại học
Michigan và Hội đồng Dân số thành phố New
York.
Đầu năm 1963, tình hình đòi hỏi Chính phủ
tham gia vào các hoạt động KHHGĐ do khu vực
tư nhân khởi xướng ngày một khẩn thiết khi cơ
quan hỗ trợ phát triển quốc tế của Hoa Kỳ
(USAID) thông báo quyết định chấm dứt viện
trợ cho Đài Loan trong một vài năm tới.
Năm 1964, Bộ Y tế đề xuất Kế hoạch 5 năm
về sức khỏe gia đình giai đoạn 1964-1969, với
mục tiêu cung cấp 600.000 vòng tránh thai, với
giả định rằng mỗi vòng tránh thai sẽ ngăn ngừa
được một trường hợp không sinh con trong 5
năm.
Tuy nhiên, các bên đối lập có ảnh hưởng
trong Nội các, các nhà lập pháp và đại diện một
số cơ quan vẫn chống đối mạnh mẽ việc kiểm
soát sinh.
Tháng 12 năm 1966, Tưởng Giới Thạch đã
ký kết Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về Dân số,
xác nhận các chương trình KHHGĐ và dân số
nhắm tới mục tiêu hạ tỷ lệ gia tăng dân số.
Uỷ ban Chính sách Dân số được thành lập,
trực thuộc Bộ Nội vụ nhằm chuẩn bị và xây
dựng văn kiện chính sách dân số cho Đài Loan
và văn kiện đã được thông qua tại Hội nghị
Trung Hoa Quốc Dân Đảng Toàn quốc lần thứ
sáu, sửa đổi bổ sung hướng dẫn thi hành chính
sách dân số vào năm 1965.
Tháng Tư năm 1969 Chủ tịch cơ quan điều
hành Nội các ra thông báo hướng dẫn về chính
sách dân số của Chính phủ. Nhằm đảm bảo thực
hiện thành công những quy định này, Chính phủ
đã thành lập các văn phòng KHHGĐ gắn với
các cơ sở y tế các cấp.
Để khuyến khích có được tỷ lệ gia tăng dân
số hợp lý thông qua các chương trình KHHGĐ
tự nguyện, các chính sách thưởng phạt là một
trong những giải pháp của Chính phủ trong
chính sách dân số. Ngoài ra còn có những giải
pháp nâng cao chất lượng dân số bằng cách
nâng cao chất lượng giáo dục, dinh dưỡng, tiến
hành các biện pháp bảo vệ ưu sinh và đẩy mạnh
phân bố dân cư hợp lý.
Trên thực tế, vào năm 1983, Đài Loan đã đạt
được mức sinh thay thế và hầu hết các cặp vợ
chồng đã sử dụng các biện pháp tránh thai. Năm
1988, Chính phủ đưa ra mục tiêu mới về tăng
trưởng dân số ở mức 0,8% vào năm 2000, tổng
tỷ suất sinh là 1,8 sau đó tăng dần lên 2,1. Nếu
đạt được mục tiêu mới này, tỷ lệ gia tăng dân số
sẽ ở mức 0% vào năm 2025 (ROC CEPD 1996).
5. Singapore
Thành tựu đạt được của Singapore trong các
chính sách và chương trình tái sinh sản được
chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Chính phủ tham gia gián tiếp.
Nghiêm túc mà nói, Chính phủ Singapore không
có chính sách mang tính chất định chế nhà nước
về KHHGĐ hay kiểm soát sinh cho đến năm
1966. KHHGĐ đã được giới thiệu ở Singapore
từ năm 1949 do một nhóm tình nguyện viên khởi
xướng. Họ thành lập Hội KHHGĐ Singapore,
một tổ chức tình nguyện. Tháng 11 năm 1960,
Chính phủ phối hợp với Hội triển khai chiến dịch
KHHGĐ trong 3 tháng trên quy mô cả nước.
Đây là một phần trong chương trình giáo dục sức
khoẻ cho mọi người của Chính phủ.
Giai đoạn 2: Chính sách hạn chế sinh. Thời
kỳ hạn chế sinh được đánh dấu bằng toàn bộ
những yêu cầu mạnh mẽ và trực tiếp của Chính
63
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
phủ Singapore về trách nhiệm thực hiện
KHHGĐ.
Chính phủ Singapore đã triển khai chương
trình KHHGĐ quốc gia vào tháng 1 năm 1966.
Trách nhiệm thực hiện chương trình thường
xuyên được giao cho Ban Dân số và KHHGĐ
Singapore, một cơ quan chuyên trách thuộc Bộ
Y tế.
Việc thực hiện chương trình đã chấm dứt vào
năm 1980 sau khi tổng tỷ suất sinh tiếp tục giảm
dưới mức sinh thay thế.
Năm 1984, Chính phủ bắt đầu nới lỏng các
rào cản hạn chế sinh và triển khai nhiều biện
pháp để khuyến khích quy mô gia đình lớn hơn
đối với những phụ nữ có trình độ học vấn cao.
Chính phủ đã sửa đổi bổ sung chính sách liên
quan đến đăng ký học tiểu học, ưu tiên trẻ em có
mẹ đã tốt nghiệp đại học và sinh ít nhất 3 con
(chương trình bà mẹ tốt nghiệp đại học). Một cơ
quan chính phủ đã được thành lập để tăng cường
giao lưu, môi giới hôn nhân cho các đối tượng
nam nữ thanh niên đã tốt nghiệp đại học nhằm
mục tiêu tăng tỷ lệ kết hôn ở nhóm đối tượng
này.
Ban Dân số và KHHGĐ được giải thể tháng 6
năm 1986, cán bộ và chức năng được chuyển
giao cho Bộ Y tế, kết thúc chính sách hạn chế
sinh. Tuy nhiên Chính phủ vẫn tiếp tục cung cấp
các dịch vụ KHHGĐ trong các cơ sở y tế chăm
sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em.
Giai đoạn 3: Chính sách khuyến sinh có
chọn lọc. Giai đoạn cuối cùng của chính sách
dân số Singapore chính thức bắt đầu vào tháng 3
năm 1987 khi Chính phủ tuyên bố chính sách
dân số mới, nhấn mạnh người dân Singapore
nếu có đủ khả năng, có thể thực hiện quy mô gia
đình từ 3 con trở lên. Khuyến khích kết hôn là
một cấu phần không tách rời của chính sách mới
này. Cũng như giai đoạn trước, Chính phủ
khuyến khích gia đình nhiều con bằng một loạt
chính sách tài chính và các chính sách khuyến
khích khác.
Chính phủ đã lý giải chính sách dân số mới,
chính sách khuyến sinh dường như ngược lại với
chính sách hạn chế khá mạnh mẽ của giai đoạn
trước, là cần thiết để phát triển đất nước trong
thời gian dài.
Ngay sau đó mối quan tâm của Chính phủ
không chỉ về quy mô dân số hay tỷ lê gia tăng
dân số mà cả về chất lượng dân số. Cả hai chính
sách khuyến sinh và nhập cư đều giữ vị trí quan
trọng trong chiến lược phát triển.
Quan điểm chung hiện nay ở Singapore là
việc giảm sinh đã góp phần hay ít nhất là tạo ra
một không gian dễ thở hơn để phát triển đất
nước Singapore từ những ngày đầu độc lập, cho
phép Singapore dành nguồn lực lẽ ra chỉ đủ để
duy trì và đáp ứng nhu cầu của dân số gia tăng
nhanh để đầu tư cho phát triển sản xuất. Các
chính sách dân số của Singapore đã được điều
chỉnh, sửa đổi bổ sung qua các thời kỳ nhằm giải
quyết những vấn đề mà các nhà lập kế hoạch cho
rằng là những đòi hỏi cấp thiết cho bước phát
triển tiếp theo của nền kinh tế Singapore.
6. Những vấn đề đặt ra
Trong suốt 50 năm cuối của thế kỷ 20, Châu
á đã giảm đáng kể mức sinh và mức chết. Tổng
tỷ suất sinh vào khoảng 6 con (1950 - 1955) đã
giảm hơn một nửa, xuống còn 2,7 (1995 - 2000).
Tại thời điểm năm 2001, đã có 14 quốc gia Châu
á đạt mức sinh dưới mức thay thế trong giai
đoạn 1995 - 2000. Trong số các quốc gia khu
vực Đông á và Đông Nam á, Nhật Bản và
Singapore đạt mức sinh thay thế vào năm 1975.
Cùng thời kỳ đó, tổng tỷ suất sinh của Hàn Quốc
là 3,2, Trung Quốc 3,6 và Thái Lan 4,9. Sau 25
năm, tất cả 5 quốc gia này đều có mức sinh thấp
dưới mức thay thế. Mức sinh thấp nhất thế giới
đã trở thành hiện thực ở Hồng Kông, thành phố
Thượng Hải và thành phố Tokyo và các mô hình
sinh không khác gì mấy so với các mô hình sinh
của các nước có mức sinh thấp nhất ở Châu Âu.
Trong giới chuyên gia nhân khẩu học cũng đã có
ý kiến tranh luận rằng một khi mức sinh đã giảm
xuống quá thấp dưới mức thay thế thì gần như
không có khả năng khôi phục mức sinh thay thế
64
Nhìn ra nước ngoài
2trong một thời gian ngắn .
Duy trì mức sinh thấp dưới mức thay thế
trong nhiều năm sẽ làm thay đổi cơ cấu tuổi, và
phân bố dân số của từng nhóm tuổi của dân số
các quốc gia này. Hệ quả trực tiếp nhất là tỷ
trọng dân số trẻ so với tổng dân số đang giảm rõ
rệt. Đối với những quốc gia đã bước vào dân số
già như Nhật Bản và Singapore, xu thế giảm này
ngày càng làm trầm trọng thêm tình trạng già
hoá. Đối với những quốc gia như Hàn Quốc,
Trung Quốc, Thái Lan, khi tỷ trọng dân số phụ
thuộc già còn ở dưới ngưỡng của dân số già đã
phải đối mặt với 2 thách thức kép: Đó là dân số
tiếp tục tăng trong bối cảnh già hoá với tốc độ
nhanh nhất thế giới hiện nay và áp lực do vừa
phải đảm bảo việc làm và thu nhập cho nhóm
dân số lao động vừa phải chuẩn bị để sẵn sàng
đón đầu dân số già. Cùng với mức sinh thấp, tuổi
thọ không ngừng nâng lên đã đặt những quốc
gia Châu á này vào tình thế tiến thoái lưỡng
nan.
Năm 1958, Coal và Hoover đã đề cập đến tác
động tích cực của thay đổi cơ cấu tuổi do giảm
mức sinh đối với phát triển kinh tế xã hội. Gần
đây có nhiều tác giả (ví dụ như Mason 1988,
Birdsall, Kelley và Sinding 2001) khẳng định cơ
hội “ngàn năm có một” của những quốc gia
bước vào nửa sau của thời kỳ quá độ nhân khẩu
học. Đó chính là cơ hội dân số vàng; các quốc
gia có thể dành đầu tư ở mức cao nhất cho phát
triển nguồn nhân lực, sức khoẻ nhân dân và hạ
tầng cơ sở.
Dân số già hoá và viễn cảnh suy giảm quy mô
dân số đang khiến cho nhiều vấn đề dân số phát
sinh. Các quốc gia đã nhận thức được những
gánh nặng ghê gớm của nền kinh tế và xã hội
trong việc đáp ứng nhu cầu hỗ trợ và chăm sóc
sức khoẻ của dân số già, những thay đổi lớn và
hết sức cần thiết trong công tác giáo dục, chăm
sóc sức khoẻ và bảo trợ xã hội. Ví dụ như người
già có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhiều hơn.
Chi phí chăm sóc sức khoẻ người già cao gấp 7-
8 lần so với chăm sóc sức khoẻ trẻ em. Nhu cầu
cán bộ điều dưỡng chăm sóc người già sẽ tăng
đột biến trong bối cảnh lực lượng lao động giảm
và phụ nữ ngày một tham gia tích cực hơn trong
các hoạt động kinh tế xã hội. Đây sẽ không chỉ
là khó khăn thách thức đối với gia đình mà cả
với xã hội, nhà nước.
Đã có nhiều quốc gia có phản ứng tích cực
nhằm làm đảo chiều mức sinh đang giảm xuống
quá nhanh mà kết quả đạt được không đáng là
bao. Có thể chia làm 3 nhóm: Nhóm 1 - Không
can thiệp (Thái Lan), Nhóm 2 - Chú trọng phúc
lợi (Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc) và
Nhóm 3 - Khuyến sinh (Singapore).
Uỷ Ban Dân số Liên Hợp Quốc cũng đã tiến
hành nghiên cứu, tính toán số người nhập cư cần
thiết để ngăn ngừa tình trạng suy thoái dân số
của một số quốc gia, làm chậm tốc độ suy giảm
của tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động so với
dân số già. Theo Huguet, nếu Nhật Bản không
chấp nhận phương án nhận người nhập cư thay
thế thì dân số sẽ giảm sau năm 2010. Dân số
Trung Quốc và Hàn Quốc sẽ giảm sau năm
2035. Sử dụng lao động nước ngoài đã trở thành
thực tế của nhiều quốc gia như Nhật Bản,
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Thái
Lan nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động,
mặc dù chủ yếu là những hợp đồng lao động có
thời hạn. Mặc dù vậy, các yếu tố kinh tế, xã hội,
môi trường văn hoá có vai trò ảnh hưởng lớn hơn
là yếu tố cơ cấu dân số. Lựa chọn phương án
nhập cư thay thế sẽ đạt hiệu quả cao hơn song là
vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp và nhạy cảm.
Vấn đề này đã từng gây tranh cãi nhiều năm ở
Singapore. Với những quốc gia có nền văn hoá
nho giáo, do mất cân bằng giới tính khi sinh theo
hướng trọng nam trong quá khứ mà vấn đề “cô
dâu” nước ngoài đã trở thành vấn đề xã hội từ
những năm 1990 đến nay. Đài Loan, Hàn Quốc
đã có những điều chỉnh chính sách để thích ứng
với xã hội đa sắc tộc, đa văn hoá và đa tôn giáo
và xây dựng một xã hội hài hòa.
2
Gubhaju và Moriki-Durand, Mức sinh thấp dưới mức thay thế ở
Đông á và Đông Nam á: Hệ quả và các chính sách thích ứng ,
Tạp chí nghiên cứu dân số Vol.20, No 1, 2003
65
Chính sách - Số 7/2011 Y tế
Tạp chí
gày 22 tháng 3 năm 2011, Viện Chiến lược
và Chính sách Y tế đã tổ chức Hội thảo N
"Tổng kết công tác nghiên cứu khoa học năm
2010 và định hướng nghiên cứu năm 2011". Đại
diện các nhà hoạch định chính sách y tế ở các cơ
quan Trung ương, Bộ Y tế và các chuyên gia cao
cấp của ngành y tế đã tham dự Hội thảo.
Thay mặt cho Viện Chiến lược và Chính sách
Y tế, GS.TS. Lê Quang Cường - Viện trưởng đã
trình bày báo cáo “Tổng kết công tác nghiên cứu
khoa học năm 2010 và định hướng nghiên cứu
năm 2011”. Năm 2010, Viện đã tiến hành 25 đề
tài nghiên cứu, trong đó có 10 đề tài do lãnh đạo
Bộ Y tế chỉ định, 6 đề tài cấp Bộ và tương đương,
7 đề tài hợp tác trong nước và quốc tế, 2 đề tài
cấp cơ sở và 2 dự á n nghiên cứu dài hạn hợp tác
với các Trường Đại học/ Viện Nghiên cứu nước
ngoài. Các nghiên cứu tập trung vào việc đánh
giá việc tổ chức thực hiện các chính sách y tế
liên quan đến những vấn đề đang được sự quan
tâm của ngành và dư luận xã hội, đó là các
nghiên cứu về Quản lý nhà nước đối với hệ
thống y tế, Nhân lực y tế, Tài chính y tế và Bảo
hiểm y tế, Chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Xã hội
học Y tế và HIV/AIDS, Chất lượng dân số và
phát triển. Bên cạnh đó, Viện còn tham gia tư
vấn quy hoạch phát triển ngành y tế cho một số
tỉnh/thành phố và tham gia vào các Ban soạn
thảo, biên tập các chiến lược, chính sách của
ngành y tế và dân số Việt Nam.
Các đại biểu đã được nghe báo cáo của một
số nghiên cứu tiêu biểu của Viện như:“Nghiên
cứu 9 tháng triển khai thực hiện nhằm đề xuất
các giải pháp nhằm hoàn thiện đề án 1816”,
HộI THảO TổNG KếT CÔNG TáC NGHIÊN CứU KHOA HọC
NĂM 2010 Và ĐịNH HƯớNG NGHIÊN CứU NĂM 2011
Viện chiến lược và chính sách y tế
1
BS. Nguyễn Thị Nam Liên
“Tình hình thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ
CP trong hệ thống bệnh viện công lập”, “Đánh
giá tình trạng quá tải và dưới tải của hệ thống
bệnh viện các tuyến và đề xuất các giải pháp
khắc phục”, “Phân tích thực trạng và đề xuất
sửa đổi bổ sung một số chế độ phụ cấp đối với
cán bộ, viên chức ngành y tế”, Với đội ngũ
cán bộ nghiên cứu có trình độ, năng lực, nhiệt
tình cùng với sự hợp tác chặt chẽ và có hiệu quả
của các Vụ/Cục - Bộ Y tế, các cơ quan trong và
ngoài ngành y tế cũng như các tổ chức trong và
ngoài nước, các nghiên cứu của Viện đã đưa ra
những bằng chứng quan trọng cho việc hoạch
định chính sách y tế.
Năm 2011, Viện tiếp tục nghiên cứu đánh giá
việc thực hiện một số chính sách hiện có về (1)
Cung ứng dịch vụ y tế, thuốc và trang thiết bị y
tế; (2) Tài chính y tế và Bảo hiểm y tế, (3) Nhân
lực y tế, (4) Chăm sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt
là y tế cơ sở; (5) Nghiên cứu dư luận xã hội với
các chính sách y tế, (6) Dân số phát triển: nhân
khẩu học xã hội, các vấn đề kinh tế - xã hội liên
quan đến dân số phát triển; (7) Chất lượng dân
số và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Đồng thời, trong thời gian tới Viện cũng sẽ tiến
hành nghiên cứu những vấn đề mang tính dự báo
trong lĩnh vực y tế nhằm kịp thời đóng góp
những bằng chứng khoa học cho quá trình
hoạch định chính sách y tế ở Việt Nam theo mục
tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển.
1
Phòng Quản lý khoa học - Đào tạo - Hợp tác quốc tế, Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế.
66
Tin Hoạt động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
chinh_sach_va_chuong_trinh_dan_so_cua_mot_so_nuoc_chau_a.pdf