Về vốn đầu tư: Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, kết hợp sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn Nhà nước, vốn hỗ trợ từ các Chương trình mục tiêu và đặc biệt
là nguồn vốn xã hội hóa: (i) Tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương từ các chương trình,
dự án để lồng ghép, hỗ trợ đầu tư phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn; (ii) Hàng năm,
ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện cân đối bố trí để hỗ trợ đầu tư xây dựng, nâng cấp các
chợ khu vực miền núi, nông thôn đã xuống cấp, không đảm bảo an toàn nhưng chưa
thu hút được tổ chức, cá nhân đầu tư, kinh doanh khai thác và quản lý theo quy định,
ưu tiên bố trí nguồn thu từ hoạt động kinh doanh chợ để đầu tư phát triển mạng lưới
chợ trên địa bàn. (iii) Kêu gọi, thu hút nguồn vốn của các tổ chức cá nhân tham gia đầu
tư phát triển, quản lý chợ trên địa bàn tỉnh theo quy định. (iv) Ngoài nguồn vốn của
các nhà đầu tư, chính quyền địa phương (theo phân cấp quản lý chợ) chủ động triển
khai các giải pháp, phương án huy động vốn góp từ các hộ kinh doanh tại chợ để đầu
tư nâng cấp mạng lưới chợ trên địa bàn.
Về cơ chế, chính sách: Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng chợ (ưu
đãi về đất đai, thuế ) và các hỗ trợ khác trong quá trình triển khai thực hiện dự án đầu
tư chợ trên địa bàn tỉnh. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung
cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển chợ phù hợp với điều kiện của tỉnh. Đối với
các hộ kinh doanh có đóng góp vốn đầu tư xây dựng chợ theo chủ trương, phương án
huy động vốn của chính quyền địa phương sẽ được ưu tiên trong bố trí, sắp xếp điểm
kinh doanh tại chợ. Số tiền đóng góp đầu tư xây dựng, nâng cấp chợ của các hộ kinh
doanh sẽ được trừ dần vào tiền dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ (tiền thuê
mặt bằng) theo quy định.
Về công tác thông tin, tuyên truyền, vận động: Tổ chức công bố rộng rãi về quy
hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh; chủ trương xã hội
hóa đầu tư xây dựng chợ; danh mục các dự án chợ kêu gọi đầu tư; phương án huy
động vốn đầu tư chợ và các chính sách có liên quan; phương án đầu tư, kinh doanh và
quản lý chợ; kế hoạch đóng cửa, di dời chợ, đưa chợ mới vào hoạt động (trong trường
hợp di dời từ chợ cũ sang chợ mới) Tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động
để nhân dân, các hộ kinh doanh tại chợ biết, đồng thuận trong việc triển khai các dự án
đầu tư chợ trên địa bàn các tỉnh, thành phố.
Về công tác quản lý nhà nước: Quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch phát
triển mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh đã được phê duyệt; không để tình trạng hình
thành chợ tự phát, chợ cóc, chợ lấn chiếm lòng đường làm mất an toàn giao thông, mỹ
quan, vệ sinh môi trường,. Tăng cường công tác quản lý đầu tư xây dựng và kinh
doanh khai thác, quản lý chợ; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định. Có kế
hoạch đào tạo và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý chợ (bao gồm: Ban quản lý,
Tổ quản lý chợ và doanh nghiệp, Hợp tác xã kinh doanh khai thác và quản lý chợ) để
nâng cao kiến thức về quản lý chợ, đảm bảo an toàn phòng chống cháy nổ, vệ sinh môi
trường, an toàn thực phẩm /.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chợ nông thôn - Điểm nhấn của phát triển cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
79
BỘ CÔNG THƢƠNG
CHỢ NÔNG THÔN - ĐIỂM NHẤN CỦA PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG
THƢƠNG MẠI NÔNG THÔN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới là chủ trương đúng đắn, kịp thời
của Đảng và Chính phủ. Qua 10 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông
thôn mới, với sự chỉ đạo quyết liệt, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ Trung
ương tới địa phương và sự hưởng ứng tích cực của nhân dân, Chương trình đã trở
thành một phong trào sôi nổi, rộng khắp trên cả nước và đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể như: Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn phát triển nhanh, đặc
biệt là hệ thống đường giao thông, hạ tầng điện, cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn,
trường học.., tạo ra diện mạo mới cho khu vực nông thôn của các địa phương; thu nhập
và đời sống của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao; cơ cấu kinh tế nông
thôn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ, nâng
cao chất lượng - hiệu quả sản xuất...
Phát triển cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, 1 trong 19 tiêu chí của Bộ tiêu
chí quốc gia nông thôn mới là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển, nâng cao đời sống người dân, góp phần quan trọng vào công cuộc xây
dựng nông thôn mới đối với các xã trên địa bàn khu vực ĐBSCL nói riêng và cả nước
nói chung.
1. Khái quát vùng đồng bằng sông Cửu Long
Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng cực Nam của Việt Nam, bao gồm 1
thành phố trực thuộc trung ương là thành phố Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An, Tiền
Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang,
Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm
2019, tổng diện tích các tỉnh, thành thuộc Đồng bằng sông Cửu Long là 40.548,2 km²
và tổng dân số của các tỉnh trong vùng là 17.273.630 người, trong đó số lượng người
sống ở địa bàn nông thôn chiếm khoảng 75%. Vùng ĐBSCL là trung tâm lớn về sản
xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản. Diện tích trồng lúa chiếm 47%
diện tích và 56% sản lượng lúa cả nước, xuất khẩu gạo toàn vùng chiếm tới 90% sản
lượng; thủy sản chiếm 70% diện tích, 40% sản lượng và 60% xuất khẩu cả nước,...
Tuy nhiên, Đồng bằng sông Cửu Long đứng về phương diện thu nhập vẫn còn thấp
hơn so với cả nước: Thu nhập bình quân đầu người với mức 2.217 USD/người/năm (cả
nước là 2.587 USD/người/năm).
Cùng với những tiềm năng lợi thế về phát triển nông nghiệp, vùng ĐSCL còn
có vị trí thuận lợi đối với giao lưu, buôn bán, trao đổi hàng hóa. Vùng ĐBSCL có
đường biên giới giáp Campuchia dài khoảng 330km, trong đó có 4 tỉnh chung đường
biên giới với Vương quốc Campuchia, bao gồm: Long An, Đồng Tháp, An Giang và
Kiên Giang; có 3 cửa khẩu quốc tế và bốn cửa khẩu quốc gia. Cùng với đó là hệ thống
các cầu vượt sông lớn từng bước thay thế các bến phà như cầu Mỹ Thuận, Cần Thơ,
Rạch Miễu, Cổ Chiên, Vàm Cống; đã hình thành các tuyến đường huyết mạch như:
Quốc lộ 1A, 57, 60, 61, 63, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương kết
nối giữa thành phố Hồ Chí Minh với ĐBSCL, các trung tâm logistic, Những điều
80
kiện thuận lợi đó đã tác động tích cực đối với việc, trao đổi lưu thông hàng hóa, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Vùng.
2. Cơ sở hạ tầng thƣơng mại nông thôn vùng ĐBSCL
Xác định được tầm quan trọng của việc thực hiện tiêu chí số 7 về phát triển cơ
sở hạ tầng thương mại nông thôn trong bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn
mới, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày
04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình MTQG về
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020; để địa phương có được sơ sở và
phương pháp đánh giá thống nhất để thẩm định và xét công nhận cho các xã đạt tiêu
chí cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, Bộ Công Thương đã ban hành các văn bản:
Quyết định số 6286/QĐ-BCT ngày 30 tháng 11 năm 2011 của Bộ Công Thương về Kế
hoạch triển khai thực hiện tiêu chí số 4 (điện nông thôn) và tiêu chí số 7 (chợ nông
thôn) thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2011 - 2020 của Bộ Công Thương; Quyết định số 12151/QĐ-BCT ngày 31 tháng 12
năm 2014 của Bộ Công Thương về việc hướng dẫn thực hiện tiêu chí số 7 về chợ trong
Bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới; Quyết định số 4800/QĐ-TTg ngày 08
tháng 12 năm 2016 về việc hướng dẫn thực hiện và xét công nhận Tiêu chí cơ sở hạ
tầng thương mại nông thôn trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn
2016 - 2020.
Về phía địa phương, công tác phát triển và quản lý cơ sở hạ tầng thương mại
nông thôn tại các địa phương đã nhận được sự quan tâm đúng mức của chính quyền,
việc đầu tư xây dựng, nâng cấp về cơ bản đáp ứng được nhu cầu mua bán trao đổi
hàng hóa phục vụ đời sống cho nhân dân vùng nông thôn. Bên cạnh đó, Quyết định số
4800/QĐ-BCT ngày 08 tháng 12 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Công Thương đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương đánh giá xã đạt
tiêu chí một cách cụ thể và rõ ràng hơn. Theo đó, một số Sở Công Thương đã tham
mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết các
xã trên địa bàn thực hiện tiêu chí số 7, rà soát lại toàn bộ hệ thống chợ, siêu thị mini,
cửa hàng tiện lợiđảm bảo cho việc thẩm định, xét công nhận được chính xác và
khách quan. Một số địa phương đã có cơ chế hỗ trợ một phần vốn nhất định để đầu tư
cho chợ được xây mới nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư xây
dựng chợ trên địa bàn nông thôn. Đến hết tháng 6 năm 2019, vùng ĐBSCL có khoảng
1.093 xã đạt tiêu chí số 7 về cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn trong tổng số 1.286
xã của toàn vùng, chiếm 85,6%, cao hơn mức bình quân của cả nước (cả nước là
85,5%). Các tỉnh có tỷ lệ các xã đạt tiêu chí số 7 về cơ sở hạ tầng thương mại cao như:
Bạc Liêu, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long
3. Chợ nông thôn vùng ĐBSCL
Trong những năm qua, mạng lưới chợ ở nước ta đóng vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là từ thập niên 80 và những năm đầu của
thập niên 90. Đây là giai đoạn mà mạng lưới siêu thị và trung tâm thương mại chưa
hình thành và phát triển, chợ vẫn là nơi tiêu thụ hàng hóa chủ yếu của các doanh
nghiệp sản xuất cũng như là nơi mua sắm chủ yếu của người dân. Tuy nhiên, hiện nay
chợ vẫn giữ một vai trò rất quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
(i) Về mặt kinh tế: Chợ là một bộ phận quan trọng trong cấu thành mạng lưới
thương nghiệp xã hội. Chợ vừa là nơi tiêu thụ nông sản hàng hoá, tập trung thu gom
các sản phẩm, hàng hoá phân tán, nhỏ lẻ để cung ứng cho các thị trường tiêu thụ. Hoạt
81
động của các chợ làm tăng ý thức về kinh tế hàng hoá của người dân, rõ nét nhất là ở
miền núi, vùng cao từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần tích cực vào công
cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, miền núi.
(ii) Về giải quyết việc làm: Chợ ở nước ta đã giải quyết được một số lượng lớn
việc làm cho người lao động. Hiện nay trên toàn quốc có hơn 2,3 triệu người lao động
buôn bán trong các chợ và số người tăng thêm có thể tới 10%/năm.
(iii) Về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc: Có thể nói, chợ là một bộ mặt
kinh tế - xã hội của một địa phương và là nơi phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, phong tục tập quán của một vùng dân cư. Tính văn hoá ở chợ được thể hiện rõ
nhất là ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Ở vùng ĐBSCL, chợ truyền thống được đánh giá vẫn là hình thức tổ chức
thương mại phổ biến nhất. Do vậy, tại các địa phương, mặc dù ngân sách của nhiều
tỉnh còn hạn chế nhưng phần lớn UBND các tỉnh đã quan tâm chỉ đạo và dành ngân
sách xây dựng chợ nói chung và chợ trên địa bàn nông thôn nói riêng.
Theo báo cáo của các địa phương, tính đến cuối năm 2017, cả nước có khoảng
8.513 chợ; trong đó có 238 chợ hạng I, chiếm tỷ lệ 2,8%; 902 chợ hạng II chiếm tỷ lệ
10,6%; 7.373 chợ hạng III (trong đó có khoảng 1.395 chợ tạm) chiếm tỷ lệ 86,6% và
có 94 chợ đầu mối nông sản cấp vùng và cấp tỉnh chiếm tỷ lệ 1,1%. Trong đó, hệ
thống chợ ở ĐBSCL là 1.653 chợ, chiếm khoảng 19,4% tổng số chợ trên cả nước
(trong đó có 36 chợ hạng I, 176 chợ hạng 2, 1.393 chợ hạng 3 và 48 chợ chưa được
phân hạng).
Trong thời gian qua, xác định tầm quan trọng của hệ thống chợ truyền thống
trong chuỗi phát triển thương mại, các địa phương trong khu vực đã chủ động xây
dựng đề án, kế hoạch, quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển mạng lưới chợ, siêu
thị, trung tâm thương mại:
Tỉnh Đồng Tháp quy hoạch đến năm 2020, hệ thống chợ trên địa bàn tỉnh phát
triển từ 201 đến 220 chợ (trong đó 17 chợ loại I, 5 chợ đầu mối chuyên doanh, 03 chợ
chuyên doanh và 01 trung tâm giao dịch cá giống). Tuy nhiên, đến nay, tỉnh Đồng
Tháp đã có 230 chợ truyền thống, chiếm trên 13% hệ thống chợ toàn vùng, trở thành
địa phương có số lượng chợ truyền thống nhiều nhất.
Theo định hướng của tỉnh An Giang, chiến lược phát triển chợ truyền thống là
mục tiêu cơ bản của tỉnh trong định hướng phát triển hạ tầng thương mại của tỉnh
nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng, nâng cao mức sống của
người dân, đảm bảo cho các thị trường hàng hóa phát triển ổn định, góp phần nâng cao
hiệu quả lưu thông hàng hóa trên địa bàn tỉnh, với các tỉnh trong vùng và với thị
trường Campuchia. Các mục tiêu cụ thể đến năm 2020, tổng số chợ trên địa bàn tỉnh sẽ
tăng thêm 34 chợ (xây mới 81 chợ, di dời, giải tỏa 47 chợ; hình thành 3 chợ đầu mối
chuyên doanh bao gồm: 01 chợ đầu mối lúa gạo, 01 chợ đầu mối thủy sản và 01 chợ
đầu mối rau, đậu.Đến nay, tỉnh Anh Giang đã có 205 chợ truyền thống, chiếm
khoảng 12,4% tổng số chợ vùng ĐBSCL và xếp thứ 2 toàn vùng.
Tỉnh Tiền Giang đã định hướng: “Lấy các chợ xã làm hạt nhân phát triển, kết
hợp với cá cửa hàng, điểm bán hàng tạo thành khu thương mại, dịch vụ tổng hợp phục
vụ trực tiếp nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các tầng lớp dân cư trong khu vực xã.
Loại hình thương mại truyền thống vẫn sẽ được chú trọng phát triển như: Xây mới chợ
ở những nơi nhân dân có nhu cầu, nâng cấp, cải tạo những chợ đã xuống cấp, đảm bảo
82
đến năm 2015, cơ bản có đủ chợ phục vụ nhu cầu mua bán của nhân dân trên địa bàn”.
Đến nay, tỉnh Tiền Giang có 203 chợ truyền thống, chiếm 12,3%/tổng số chợ của toàn
vùng ĐBSCL.
Tại Long An, do vị trí địa lý đặc biệt, tiếp giáp giữa ĐBSCL với vùng Đông
Nam Bộ và biến giới Campuchia, hệ thống chợ nông thôn trở thành mắt xích quan
trọng đối với luân chuyển, tiêu thụ, trao đổi hàng hóa giữa nông thôn với thành thị,
giữa vùng ĐBSCL với vùng Đông Nam Bộ, giữa Việt Nam với biên giới Campuchia.
Đến nay, toàn tỉnh có 156 chợ, trong đó có 2 chợ hạng 1, 12 hạng 2 và 119 chợ hạng 3.
Để hàng hóa lưu thông đến người tiêu dùng thuận lợi, đáp ứng nhu cầu của thị
trường, các địa phương trong vùng ĐBSCL đang đã đưa ra nhiều biện pháp đẩy mạnh
phát triển mạng lưới chợ nông thôn và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ:
Tại Hậu Giang, trong số 72 chợ thì có tới 59 chợ hạng 3 và chợ tạm nên Tỉnh
đang từng bước nâng cấp các chợ hạng 3 bằng việc thực hiện nghiêm túc 10 tiêu chuẩn
về xây dựng hình ảnh chợ văn minh. Các tiêu chí được ban quản lý chợ và tiểu thương
đặc biệt quan tâm là: phòng cháy chữa cháy, an ninh; tinh thần đoàn kết; bán hàng uy
tín, chất lượng, thái độ phục vụ tận tình, thân thiện; vệ sinh môi trường.
Tại An Giang, hiện nay toàn tỉnh có 205 chợ truyền thống, trong đó các chợ
hạng 3 và chợ vùng biên giới đang từng bước được nâng cấp sạch đẹp, văn minh hơn.
Đặc biệt, 6 tháng đầu năm 2019, tỉnh đã đưa vào hoạt động 4 chợ vệ sinh an toàn thực
phẩm nhằm thay đổi tư duy của người sản xuất và người tiêu dùng khi kinh doanh,
mua bán các sản phẩm tại chợ truyền thống.
Tại các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Đồng Tháp cũng đang đẩy mạnh cải thiện
hoạt động kinh doanh tại các chợ truyền thống qua việc tuyên truyền, vận động và phổ
biến những kiến thức về an toàn vệ sinh tại chợ; đồng thời phân bổ ngân sách để làm
mới một số chợ điển hìnhViệc phát triển nhanh và đồng bộ mạng lưới chợ, nhất là
các chợ nông thôn sẽ là đòn bẩy phát huy tối đa vai trò thúc đẩy quá trình lưu thông,
tiêu thụ hàng hóa cho người sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân.
Về mô hình hoạt động, hiện nay đang có các mô hình quản lý chợ nông thôn
như Ban quản lý chợ, Doanh nghiệp đầu tư xây dựng và khai thác quản lý chợ, khoán
cho Tổ quản lý chợ theo dõi và quản lý thu phí chợ, v.v. Tuy nhiên chợ nông thôn
cũng gặp một số khó khăn trong xây dựng phát triển vì hầu hết chợ nông thôn quy mô
nhỏ, còn một số chợ tạm chưa có nhà lồng; điều kiện cơ sở vật chất và vệ sinh môi
trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng cháy chữa cháy chưa được chú trọng.
Phần lớn các chợ chưa có quỹ đất công nên việc thu hồi đất, thực hiện chính sách bồi
hoàn, giải tỏa tốn nhiều thời gian, ảnh hưởng đến công tác xây dựng phát triển chợ;
v.v.
Để chợ nông thôn mới vùng ĐBSCL trở nên sạch đẹp, văn minh, hiện đại, thực
sự trở góp phần thay đổi diện mạo nông thôn trong tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế
cần quan tâm đến một số giải pháp sau:
Về công tác quy hoạch, kế hoạch: Triển khai thực hiện và kịp thời cập nhật bổ
sung các dự án đầu tư chợ phù hợp theo Quy hoạch, Kế hoạch phát triển mạng lưới
chợ trên địa giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến 2025; phù hợp với quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Căn cứ quy hoạch, kế hoạch phát triển chợ được
83
duyệt, các cấp, các ngành thực hiện rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất để đảm bảo quỹ đất cho phát triển chợ trước mắt và trong tương lai.
Về vốn đầu tư: Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, kết hợp sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn Nhà nước, vốn hỗ trợ từ các Chương trình mục tiêu và đặc biệt
là nguồn vốn xã hội hóa: (i) Tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương từ các chương trình,
dự án để lồng ghép, hỗ trợ đầu tư phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn; (ii) Hàng năm,
ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện cân đối bố trí để hỗ trợ đầu tư xây dựng, nâng cấp các
chợ khu vực miền núi, nông thôn đã xuống cấp, không đảm bảo an toàn nhưng chưa
thu hút được tổ chức, cá nhân đầu tư, kinh doanh khai thác và quản lý theo quy định,
ưu tiên bố trí nguồn thu từ hoạt động kinh doanh chợ để đầu tư phát triển mạng lưới
chợ trên địa bàn. (iii) Kêu gọi, thu hút nguồn vốn của các tổ chức cá nhân tham gia đầu
tư phát triển, quản lý chợ trên địa bàn tỉnh theo quy định. (iv) Ngoài nguồn vốn của
các nhà đầu tư, chính quyền địa phương (theo phân cấp quản lý chợ) chủ động triển
khai các giải pháp, phương án huy động vốn góp từ các hộ kinh doanh tại chợ để đầu
tư nâng cấp mạng lưới chợ trên địa bàn.
Về cơ chế, chính sách: Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng chợ (ưu
đãi về đất đai, thuế) và các hỗ trợ khác trong quá trình triển khai thực hiện dự án đầu
tư chợ trên địa bàn tỉnh. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung
cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển chợ phù hợp với điều kiện của tỉnh. Đối với
các hộ kinh doanh có đóng góp vốn đầu tư xây dựng chợ theo chủ trương, phương án
huy động vốn của chính quyền địa phương sẽ được ưu tiên trong bố trí, sắp xếp điểm
kinh doanh tại chợ. Số tiền đóng góp đầu tư xây dựng, nâng cấp chợ của các hộ kinh
doanh sẽ được trừ dần vào tiền dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ (tiền thuê
mặt bằng) theo quy định.
Về công tác thông tin, tuyên truyền, vận động: Tổ chức công bố rộng rãi về quy
hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh; chủ trương xã hội
hóa đầu tư xây dựng chợ; danh mục các dự án chợ kêu gọi đầu tư; phương án huy
động vốn đầu tư chợ và các chính sách có liên quan; phương án đầu tư, kinh doanh và
quản lý chợ; kế hoạch đóng cửa, di dời chợ, đưa chợ mới vào hoạt động (trong trường
hợp di dời từ chợ cũ sang chợ mới) Tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động
để nhân dân, các hộ kinh doanh tại chợ biết, đồng thuận trong việc triển khai các dự án
đầu tư chợ trên địa bàn các tỉnh, thành phố.
Về công tác quản lý nhà nước: Quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch phát
triển mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh đã được phê duyệt; không để tình trạng hình
thành chợ tự phát, chợ cóc, chợ lấn chiếm lòng đường làm mất an toàn giao thông, mỹ
quan, vệ sinh môi trường,... Tăng cường công tác quản lý đầu tư xây dựng và kinh
doanh khai thác, quản lý chợ; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định. Có kế
hoạch đào tạo và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý chợ (bao gồm: Ban quản lý,
Tổ quản lý chợ và doanh nghiệp, Hợp tác xã kinh doanh khai thác và quản lý chợ) để
nâng cao kiến thức về quản lý chợ, đảm bảo an toàn phòng chống cháy nổ, vệ sinh môi
trường, an toàn thực phẩm/.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cho_nong_thon_diem_nhan_cua_phat_trien_co_so_ha_tang_thuong.pdf