KẾT LUẬN
Chợ vùng cao là một trong những hợp phần cầu thành nên nền tảng của xã hội, là động
lực phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, chứa đựng những giá trị văn hoá tộc người tiêu
biểu. Văn hoá tộc người được bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị trong phát triển kinh
tế - xã hội của các tộc người ở vùng cao. Trên thực tế, chợ vùng cao và những đặc trưng văn
hoá của các tộc người trong vùng luôn vận động và phát triển không ngừng, dưới góc nhìn
văn hoá du lịch, việc khai thác các giá trị văn hoá phục vụ phát triển du lịch là việc làm cấp
thiết, không chỉ trong phát triển kinh tế mà còn liên quan trực tiếp tới sự phát triển văn hoá
tộc người bởi yêu cầu nội tại và giao thoa văn hoá. Để làm được điều đó, cần phải giải quyết
hài hoà mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, giữa truyền thống và biến đổi trong giao thoa
văn hoá mà không làm mờ nhạt bản sắc văn hoá tộc người trước yêu cầu hội nhập và phát
triển ở vùng cao.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chợ vùng cao từ góc nhìn văn hoá du lịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
18 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
CHỢ VÙNG CAO TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ DU LỊCH
Nguyễn Thị Kim Thìn
Đại học Văn hoá Hà Nội
Tóm tắt: Chợ vùng cao không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi hàng hoá và sinh
hoạt văn hoá mà còn là nơi thu hút khách du lịch trong và ngoài nước khám phá văn hoá
tộc người. Trong bối cảnh phát triển vùng cao, chợ không chỉ là nhân tố then chốt mà còn
là động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng cao. Chợ vùng cao phát triển gắn
với các hoạt động du lịch không chỉ có giá trị trong phát triển kinh tế mà còn góp phần bảo
tồn các giá trị văn hoá tộc người, đồng thời, quảng bá, giới thiệu những đặc trưng này với
các tộc người trong vùng, trong nước và khách quốc tế.
Từ khoá: Chợ vùng cao, văn hoá, du lịch.
Nhận bài ngày 25.6.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 20.7.2020
Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Kim Thìn; Email: minhchau253@gmail.com
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chợ vùng biên còn hàm chứa những giá trị văn hóa tộc người độc đáo, là trung tâm văn
hóa ở vùng cao, với nhu cầu và hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống của các tộc người ở
chợ (Lý Hải, 1995). Nghiên cứu của Lê Đức Hùng tiêu biểu cho mô hình văn hóa chợ vùng
cao với các nhu cầu về văn hóa của đồng bào vùng cao mà các nhu cầu này được thể hiện ở
chợ, đây không chỉ là trung tâm kinh tế mà là một không gian sinh hoạt văn hóa của các tộc
người trong vùng (Lê Đức Hùng, 2000). Chợ ở các tỉnh miền núi phía Bắc còn có sự giao thoa
giữa kinh tế và văn hóa với nét đặc thù rất riêng so với nhiều vùng văn hóa khác, đi chợ như
đi hội, không chỉ thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt của cá nhân, gia đình, cộng đồng mà còn là nơi
gặp gỡ nhau để trao đổi thông tin, tình cảm và thỏa mãn nhu cầu giao tiếp của con người (Phan
Thị Đém, 2002). Hơn nữa, từ lễ hội đến chợ hội không chỉ thoả mãn nhu cầu sinh hoạt văn hóa
như vui chơi, gặp gỡ, làm quen, thăm hỏi mà còn đáp ứng được nhu cầu mua bán hàng hóa
(Hoàng Nam, 2003). Chợ vùng cao còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cả vùng, với các thực
hành văn hóa vật chất và tinh thần rất phong phú, đây là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống
của các tộc người ở trong vùng (Trần Hữu Sơn, 2004).
Chợ vùng cao không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa mà
còn là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa của các tộc người thiểu số (TNTS) ở vùng núi cao
phía Bắc Việt Nam. Chợ họp theo phiên, đây là nơi tụ hội các dân tộc Dao, Hmông, Nùng,
Tày,... ở quanh vùng, thậm chí cả các tộc người bên kia biên giới cũng sang giao lưu. Các
tộc người vùng cao đến chợ ngoài mục đích trao đổi hàng hóa còn để giao lưu văn hóa.
TẠP CHÍ KHOA HỌC - SỐ 42/2020 19
Đặc biệt, chợ vùng cao nhìn từ góc nhìn văn hoá du lịch với các đặc điểm về bản sắc dân
tộc, nét đẹp truyền thống, sự đa dạng của các mặt hàng, là yếu tố quan trọng thu hút
khách du lịch trong và ngoài nước. Nghiên cứu này đề cập đến các hoạt động trao đổi hàng
hoá cũng như giao lưu văn hoá - xã hội của các tộc người ở chợ vùng cao phía Bắc Việt
Nam từ góc nhìn văn hoá du lịch.
2. NỘI DUNG
2.1. Các yếu tố tác động tới sự phát triển của chợ vùng cao
2.1.1. Sự hình thành và phát triển của hệ thống giao thông vận tải
Ở vùng cao phía Bắc, nhiều tuyến đường giao thông, đường cao tốc, được cải tạo và
nâng ở từng địa phương, hệ thống giao thông đường bộ huyết mạch nối liền các tỉnh, thành
phố khu vực phía Bắc và cả nước như Quốc lộ 1A, đặc biệt, tuyến đường cao tốc Nội Bài -
Lào Cai dài 245km, đây là tuyến đường huyết mạch của tỉnh Lào Cai với các tỉnh đồng bằng
Bắc Bộ. Bên cạnh đó, tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296km, đoạn qua địa phận tỉnh
Lào Cai dài 62km, được nối với đường sắt Trung Quốc, năng lực vận tải khoảng 1 triệu
tấn/năm và hàng nghìn lượt khách/ngày đêm. Sự phát triển của các hãng xe vận tải liên doanh
như Hà Sơn - Hải Vân, Sao Việt, Ka Long ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Quảng Ninh và các
nhà xe tư nhân ở các huyện, tỉnh trong vùng, nhất là dịch vụ xe khách đón trả tận nơi giúp
cho hoạt động đi lại, vận chuyện hàng hoá thuận tiện. Trong vùng có 2 tuyến đường sắt: Hà
Nội - Lào Cai, dài 296km là tuyến đường liên vận quốc tế nối Hà Nội với các tỉnh trung du
và miền núi Tây Bắc, có điểm đầu là ga Hà Nội và điểm cuối là ga Lào Cai tại TP. Lào Cai,
với lịch trình đi qua các tỉnh, thành như Hà Nội - Vĩnh Phúc - Phú Thọ - Yên Bái - Lào Cai.
Đây là tuyến đường hiện đại thứ hai sau tuyến đường sắt Bắc - Nam. Mỗi ngày có 16 đôi tàu
(32 chuyến) ngược xuôi. Tuyến đường này được Chính phủ cho phép xây dựng và nâng cấp
đạt tiêu chuẩn và chất lượng quốc tế vào tháng 6/2008 (giá trị đầu tư khoảng 160 triệu USD).
Đến năm 2011 đã hoàn thành, đảm bảo vận tải từ 5 đến 8 triệu tấn hàng hóa và 2 đến 3 triệu
lượt hành khách/năm. Bên cạnh đó, tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn cũng được nâng cấp,
đặc biệt đoạn đường trên Quốc lộ 1A.
2.1.2. Sự phát triển của hệ thống dịch vụ, du lịch ở vùng cao
Cùng với sự phát triển của giao lưu hàng hoá, ngành dịch vụ ở các tỉnh vùng cao có nhiều
khởi sắc. Du lịch là một hoạt động kinh tế quan trọng thúc đẩy giao lưu kinh tế với bên ngoài
và đang trở thành một thế mạnh của nền kinh tế các tỉnh này. Với vai trò là “ngành công nghiệp
không khói”, du lịch các tỉnh vùng cao đã phát huy những lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự
nhiên và tài nguyên. Hơn nữa, đây còn là địa bàn cư trú của nhiều tộc người, có những phong
tục tập quán, lễ hội mang bản sắc văn hoá phong phú và đa dạng. Nơi đây có nhiều tiềm năng
phát triển du lịch, thu hút không chỉ đối với du khách trong nước mà cả du khách nước ngoài,
trước hết là du khách Trung Quốc.
Năm 1996, số khách du lịch vào Việt Nam qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc đạt tới
375 nghìn lượt người, năm 1999 lên đến 460 nghìn lượt người. Để đảm bảo nhu cầu ăn, ở,
đi lại cho khách du lịch, tại các thị xã đã có hệ thống các cơ sở lưu trú tương đối khang trang
20 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
với hàng trăm khách sạn, nhà hàng. Riêng tỉnh Quảng Ninh năm 1999 có 156 khách sạn với
3000 phòng ngủ. Tại các tỉnh vùng biên giới này có 40 đơn vị kinh doanh lữ hành. Các hoạt
động du lịch ở vùng biên này không chỉ làm tăng thêm thu nhập quốc dân mà còn góp phần
tạo việc làm, cải thiện đời sống cho một bộ phận cư dân vùng cao (Nguyễn Minh Hằng,
2003, tr.153-154). Trong những năm qua, du lịch ở các tỉnh vùng cao tăng trưởng nhanh về
mạng lưới kinh doanh dịch vụ, sản phẩm về du lịch, về lao động trình độ kinh doanh phục
vụ, về số lượng khách du lịch trong nước và ngoài nước, về uy tín và kết quả doanh thu. Với
các hoạt động du lịch ở vùng biên giới này, người Việt đều nắm vai trò chủ đạo riêng.
Khi điều kiện kinh tế phát triển, nhu cầu văn hóa tâm linh của người Việt ở mọi miền
đất nước được phục hồi trở lại. Hàng năm, tỉnh Lào Cai đón số lượng người Việt thường đi
du lịch kết hợp với các cuộc hành hương tôn giáo về các đền như đền ông Hoàng Bảy, đền
Cô Đôi Cam Đường, đền Thượng, đền Mẫu, Đặc biệt là hệ thống đền thờ ở mẫu ở biên
giới. Từ năm 2000 trở lại đây, sự bùng nổ của du lịch tâm linh, du khách đi du lịch gắn với
hành hương, nhiều tuyến du lịch đường dài từ Đông Hưng, Trung Quốc đến Đền Mẫu (thành
phố Lào Cai và thành phố Móng Cái), Du lịch vùng biên có sức hút lớn đối với du khách
ở mọi miền đất nước. Một đặc điểm nổi bật là khi đi hành hương du khách thường gắn với
mua sắm hàng hóa, đồ dùng gia đình, đồ điện, Đặc điểm này làm cho số lượng người đến
thành phố Lào Cai, thành phố Móng Cái, càng tăng lên. Chính những yếu tố trên là tác
nhân tích cực trong việc thúc đẩy thị trường mua bán trao đổi ở thành phố Lào Cai càng trở
nên sôi động hơn. Kể từ năm 2000 đến nay, số lượng khách du lịch đến thành phố Lào Cai
tăng lên đáng kể. Dòng người đến đây thỏa mãn 3 mục đích: Mục đích tâm linh, đáp ứng
nhu cầu du lịch nghỉ dưỡng và mua bán hàng hóa. Thêm vào đó, hệ thống giao thông đến
thành phố Lào Cai rất tiện lợi, hơn nữa, chợ có nhiều thay đổi lớn và hấp dẫn khách hàng
bởi sự đa dạng của hàng hóa và giá thành hợp với túi tiền của du khách. Hàng ngày, chợ Cốc
Lếu đón một lượng lớn khách du lịch tới thăm quan cửa khẩu, sau đó tới chơi chợ, mua đồ
lưu niệm hoặc khách du lịch từ Sa Pa xuống thành phố Lào Cai, tranh thủ thời gian chờ tàu
vào buổi tối, họ thường vào chơi chợ Cốc Lếu. Hàng hóa ở chợ Cốc Lếu rất đa dạng, phong
phú, nhiều mặt hàng khác nhau, với mục đích chính là phục vụ khách du lịch trong nước,
khách du lịch nước ngoài, khách địa phương, khách du lịch Trung Quốc. Các dịch vụ du lịch
hiện nay ở các tỉnh vùng cao là các khách sạn, nhà hàng, các hoạt động tham quan, du lịch rất
đa dạng gắn với các cảnh quan thiên nhiên, các món ăn đặc sản ở từng vùng, các dịch vụ văn
hoá, vui chơi giải trí, đều do người Việt nắm giữ. Điều đáng lưu ý là sự phát triển du lịch
của người Việt đã có tác động đến các TNTS sở tại. Một là, nhiều bản làng của các TNTS sở
tại đã tổ chức làm du lịch bằng vốn tài nguyên của mình. Ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang,
đã có hơn 10 làng du lịch văn hoá của các TNTS, trong đó có 8 làng đã đi vào khai thác. Hai
là, các nghề thủ công truyền thống như dệt, nấu rượu, chế biến món ăn đặc sản ở từng địa
phương được phục hồi để phục vụ du lịch.
2.2. Hệ thống chợ và sự đa dạng của các mặt hàng ở chợ vùng cao
Ở các tỉnh vùng cao phía Bắc, hệ thống chợ khá dày đặc và phong phú, với 866 chợ, bao
gồm các loại hình chợ (chợ xã, huyện, tỉnh), trung bình cứ 10km là có một chợ (Phan Thị Đém,
TẠP CHÍ KHOA HỌC - SỐ 42/2020 21
2002). Đến nay, số lượng chợ vùng cao tăng lên nhanh chóng dưới tác động của Chương trình
Nông thôn mới. Đáp ứng tiêu chí chương trình này, hầu hết các xã vùng cao đều có chợ, với
hệ thống hạ tầng kiên cố và hoàn thiện về cơ bản không chỉ đáp ứng nhu cầu trao đổi mua bán
hàng hoá và sinh hoạt văn hoá của các tộc người tại địa phương mà còn là địa chỉ thu hút khách
du lịch trong và ngoài nước đến khám phá văn hoá tộc người vùng cao. Các mặt hàng ở chợ
vùng cao rất phong phú, đa dạng, mang tính đặc trưng tộc người và địa phương rõ rệt như:
- Hàng hóa địa phương: Phổ biến nhất là hàng nông - lâm - thổ - sản do người dân trong
vùng sản xuất. Tuy nhiên, ở các chợ có mặt hàng đặc trưng của vùng cao như các loại gạo,
ngô, sắn, nhất là khoai lang Lộc Bình ngon nức tiếng ở miền Bắc; các loại hoa quả và đặc
sản mang tính riêng của vùng (thuốc lá, hồi ở Lạng Sơn; mận, lê, mắc - coọc ở Lạng Sơn,
Cao Bằng; cam, quýt ở Hà Giang). Trong vùng còn có các sản vật thu hái từ tự nhiên như
mật ong rừng, nấm hương, mộc nhĩ, các loại lan rừng trở thành thứ hàng hóa nổi bật ở chợ
cao. Một số loại cây thuốc quý cũng đang được trồng và trở thành thứ hàng hóa giá trị như
sa nhân, tam thất,... Bên cạnh các sản phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi gia súc gia cầm khá phát
triển như trâu, bò ở tỉnh Lai Châu, Cao Bằng, Điện Biên, Lào Cai - không chỉ là phương tiện
lấy sức kéo và vận chuyển trong sản xuất mà còn là hàng hóa có giá trị cao đối với các tộc
người trong vùng. Nhiều mặt hàng nổi tiếng cả nước như lợn quay, vịt quay, khâu nhục ở
Lạng Sơn, Cao Bằng; sản phẩm từ rèn ở Phúc Sen, Quảng Uyên, Cao Bằng; giấy ở huyện
Nguyên Bình, Thông Nông; hương ở Lộc Bình, Cao Lộc (Lạng Sơn), Quảng Uyên (Cao
Bằng). Các sản phẩm thủ công được bán ở chợ khá phong phú, đa dạng gồm các mặt hàng
phục vụ sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của người dân như cày, cuốc, rổ, rá, gùi, đồ bếp
(chõ), dao đi rừng, dao phát nương, rượu men lá, hương thông, miến dong,... Rượu men lá
là đặc sản rất phổ biến ở khắp các chợ vùng cao. Các mặt hàng trên không chỉ phục vụ cư
dân địa phương mà còn là mặt hàng ưa chuộng của nhiều du khách trong nước. Hàng điện
tử và đồ dân dụng rất dồi dào ở chợ Cốc Lếu và Móng Cái, còn ở chợ Lộc Bình mặt hàng
này hạn chế hơn. Điều đó có thể được lý giải rằng vị trí của chợ Cốc Lếu và Móng Cái nằm
đối diện với các trung tâm sản xuất đồ điện tử như Hà Khẩu và Đông Hưng bên Trung Quốc.
Tại một phiên chợ Cán Cấu vào năm 1999, có 35/50 sạp hàng quần áo, vật liệu may là của
phụ nữ Hmông. Họ là những người qua cửa khẩu Si Ma Cai sang huyện Mã Quan, tỉnh Vân
Nam, Trung Quốc mua hàng hóa, vận chuyển về bán tại chợ Cán Cấu và các chợ khác trong
vùng (Vương Duy Quang, 2005, tr.59). Phiên chợ Cán Cấu tháng 4/2018, ở khu vực bán váy
áo, quần áo, vật liệu may mặc có 300/335 sạp hàng, trong đó 2501 phụ nữ là người Hmông
ở xã Cán Cấu. Họ mua váy áo, vật liệu may mặc từ chợ Vềnh Sáng và chợ Seo Pào Chư bên
huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc về bán tại chợ Cá Cấu và các chợ trong vùng
như Bắc Hà, Sín Chéng, Si Ma Cai, Pha Long,... Họ vừa bán hàng nhập từ Trung Quốc vừa
bán hàng do chính mình sản xuất.
1 Số người bán ở khu hàng váy áo luôn có sự thay đổi theo mùa vụ, số lượng người bán có quầy cố định khoảng
180 người, còn số người bán không cố định từ 80-100 người mỗi phiên.
22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Mỗi phiên chợ Cán Cấu có từ vài trăm đến hàng nghìn người đến chợ. Theo thói quen
của các tộc người ở trong vùng, khi xuống chợ, mọi người đều đem theo gùi rau, mớ ớt tươi,
xâu ớt khô, khoai, ngô, thóc hay con chó, gà,... do gia đình nuôi trồng hoặc kiếm từ rừng để
bán lấy tiền mua nhu yếu phẩm cần thiết cho gia đình và thưởng thức ẩm thực tại chợ. Những
người nông dân bán các loại rau củ quả như cải làn, bắp cải, đậu bắp, dưa chuột, chuối, dứa,
hồng, mận, đào, gừng, ớt khô, hạt mắc khén, mật ong, thú rừng,... bày hàng khắp hai bên
đường trước chợ Cán Cấu và hai bên lối rẽ xuống khu hàng ăn. Số lượng người nông dân
bán nông thổ sản ở chợ từ 700-800 người/phiên,có sự tăng giảm tùy theo mùa vụ. Thời điểm
giáp tết lượng người đi chợ và mang đồ đến chợ bán nhiều hơn. Sau tết âm lịch, do người đi làm
thuê bên Trung Quốc nhiều, người đến chợ thưa vắng hơn. Bên cạnh đó còn có 80-90 người
Hmông bán mèn mén, mèn mén trộn cơm, canh đậu, phở gà, lợn, xôi ngũ sắc, rượu,... Nguyên
liệu làm các món ăn này do người Hmông trồng trên nương như ngô, lúa nương, đậu tương.
Nhóm gia súc gia cầm rất đa dạng, với nhiều chủng loại khác nhau, nổi bật là giống gà
đen của người Hmông (gà H’mông) là giống gà quý hiếm, chất lượng bậc nhất ở nước ta, phù
hợp với khí hậu và cách chăn thả của người H’mông. Gà đen của người H’mông có đặc điểm:
lông, da, thịt, xương màu đen, mào đen, chân nhỏ chỉ có 4 ngón, thịt thơm ngọt và chắc, nhiều
chất dinh dưỡng, được nuôi nhiều nhất ở các xã Lùng Sui, Cán Cấu, Sán Chải (huyện Si Ma
Cai). Ngoài phục vụ nhu cầu của gia đình, gà Hmông được bán từ 180-200 nghìn đồng/1kg.
Mỗi phiên chợ Cán Cấu chỉ có vài chục con mang bán ở chợ để làm phở gà đen và một số
thương nhân mua về bán cho các nhà hàng đặc sản dưới xuôi.
Trong khi, gà, vịt, ngan bản ở chợ Lộc Bình lại có đặc điểm như chân nhỏ, thịt vàng
chắc, ngọt, chủ yếu bán cho khách quen quanh thị trấn; còn gà Trung Quốc (còn gọi gà Hoa
lông phượng) nhập lậu từ Trung Quốc về với số lượng lớn (mỗi phiên 200-300 con) được
trộn lẫn vào hàng gà có nguồn gốc tại địa phương, khiến người mua hàng khó nhận biết. Ở
chợ Lộc Bình, phổ biến việc người dân trong huyện qua cửa khẩu Chi Ma mua về giống gà
Hoa lông phượng với giá rẻ 50-60 nghìn đồng/kg (nhiều thời điểm mức giá còn thấp hơn
như vậy), để chuyển về bán tại các chợ miền xuôi. Ngoài ra, chợ Lộc Bình còn có gà sống
thiến, là mặt hàng rất đặc biệt vào phiên chợ cuối năm. Gà to gấp 3-4 lần gà thường, thịt
mềm nhưng ngọt và săn chắc, có nhiều mỡ, da dày và giòn, sau khi luộc gà ngả vàng óng rất
đẹp. Thịt gà trống thiến rất ngon nên người dân địa phương thường để ăn vào dịp Tết Nguyên
đán hoặc đem biếu, tặng. Bên cạnh đó, lợn cắp nách ở chợ Cán Cấu cũng là đặc sản nổi tiếng
vùng biên bởi vị ngọt, thơm khác lạ. Đây là những món ăn đặc trưng mà du khách muốn
thưởng thức, khám phá khi tới các phiên chợ vùng cao.
- Hàng ăn: Hàng ăn bao gồm các món đặc sản, độc đáo, lạ và phổ biến do chính người
địa phương chế biến tại chợ. Tại mỗi chợ, các mặt hàng ăn uống có đặc sắc riêng. Ở chợ Cán
Cấu, thắng cố là món ăn truyền thống của người Hmông được nấu bằng thịt và nội tạng ngựa
làm sạch rồi ướp với gia vị như muối, thảo quả, địa liền, húng quế, hồi, lá thắng cố, lá chanh
thái nhỏ rồi xào chín, cho nước vào chảo hầm nhừ. Thưởng thức thắng cố với rượu ngô là
món đặc trưng của người Hmông mỗi khi xuống chợ. Ngoài ra, còn món mèn mén làm từ
ngô, nhất là ngô nếp hoặc ngô trắng đồ lẫn với gạo nương tạo thành món ăn rất lạ, độc đáo,
TẠP CHÍ KHOA HỌC - SỐ 42/2020 23
dễ ăn, vị ngọt, thơm, hấp dẫn. Bên cạnh đó là phở gà, phở lợn đen do chính người Hmông
tráng bánh phở từ gạo tẻ nương cùng với vị thanh ngọt, thơm, mềm của gà đen, lợn cắp nách.
Món ăn này không thể thiếu cải mèo muối chua và ớt muối, tạo ra dư vị rất riêng của món
phở. Còn canh đậu được làm từ đậu xay nghiền chắt nước thật trong rồi đun sôi cho lẫn rau
cải tạo thành món canh rất mát, ngọt, chan với mèn mén hoặc cơm trắng rất dễ ăn. Ngoài ra,
còn có xôi ngũ sắc nấu từ gạo nếp nương kết hợp với sự hòa quện của các loại màu tự nhiên
từ nghệ, lá cẩm và các loại lá rừng khác.
2.3. Văn hoá tộc người ở chợ vùng biên từ góc nhìn văn hoá du lịch
Bức tranh tộc người ở chợ vùng biên rất phong phú và đa dạng. Mỗi tộc người ở mỗi
chợ có đặc điểm nổi bật về hàng hóa khác nhau. Khu hàng thổ cẩm của người Hmông ở các
chợ vùng cao là nơi thu hút rất đông khách nước ngoài “khách tây”. Họ ngắm nhìn, quan sát
rồi mua đồ thổ cẩm về làm quà như con thú, con giống, ví, túi xách, tranh thêu, bãt đĩa, cốc
chén, bát dừa, gáo dừa, tấm lót kê đồ, khăn. Những người bán hàng này đều đi bán vào các
chợ phiên ở vùng cao này. Mặt hàng này có nguồn gốc từ Trung Quốc. Các gian hàng thổ
cẩm được ngăn cách bởi khung tre và những hàng khăn thổ cẩm dài. Các mặt hàng này được
xếp ngay ngắn theo từng loại hàng trên các sạp hàng.
Ở chợ Cán Cấu, có 320 gian hàng bán đồ váy áo thổ cẩm, quần áo và đồ lưu niệm, trong
đó 50 quầy bán hàng văn hóa phẩm, chủ yếu phục vụ khách du lịch của người Kinh từ Bắc
Hà, còn 270 gian hàng váy áo do người Hmông trong xã và các xã lân cận bán. Song, hầu
hết chủ quầy là người Kinh, chỉ có số ít là TNTS. Một số hàng có nguồn gốc địa phương,
một số khác lại được nhập về từ Trung Quốc. Các mặt hàng được du khách ưa chuộng nhất
là túi, mũ, thắt lưng,... đều có thêu dệt hoa văn thổ cẩm. Ngoài ra, ở phiên chợ Cán Cấu còn
xuất hiện những người phụ nữ trung tuổi bán hàng thổ cẩm lưu động. Số lượng người bán
hàng rong này đang có xu hướng tăng lên. Họ là phụ nữ dân tộc Hmông trong các thôn bản
ở xã và một số xã lân cận đem sản phẩm thêu thùa dệt in hoa văn bán tại chợ và các điểm
tập trung đông khách du lịch. Ở chợ Cán Cấu, 1/3 số gian hàng trong chợ là bán quần áo thổ
cẩm và nguyên liệu để may thêu quần áo truyền thống. Một số phụ nữ trong vùng thường
lựa chọn mua nguyên liệu về tự cắt may theo mẫu truyền thống cho riêng mình, ngoài ra họ
còn cắt may thêm để bán ở chợ. Số phụ nữ khác lại chọn mua những bộ trang phục may sẵn.
Họ thường đến chợ trong những bộ trang phục đẹp nhất kèm theo trang sức như vòng cổ,
vòng tay, khuyên tai,... Ở người Tày, Nùng vẫn duy trì mặc trang phục truyền thống trong
các dịp đi chơi chợ hay lễ hội hàng năm, sắc áo chàm của hai tộc người này vẫn thấp thoáng,
tô điểm cho khung cảnh náo nhiệt của chợ.
2.4. Ẩm thực chợ vùng cao từ góc nhìn văn hoá du lịch
Thắng cố là món ăn không thể bỏ qua khi đến chợ phiên Bắc Hà, Cán Cấu, Lùng Phình,
Sín chéng, Đây là món ăn đặc trưng của người Hmông, Dao, Tày, Thịt nấu thắng cố
theo truyền thống là ngựa, sau là trâu, bò, với những cách nấu khác nhau. Xưa tất cả thịt và
nội tạng ngựa được làm sạch sẽ rồi cho vào luộc chín rồi thái viên, sau đó cho vào chảo rồi
cho các loại gia vị vào. Ngày nay, tất cả thịt, và nội tạng của ngựa được làm sạch sẽ rồi ướp
24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
gia vị khoảng 15-30 phút gồm muối, thảo quả, địa liền, húng quế, hồi, lá thắng cố, lá chanh
thái nhỏ rồi xào chín, cho nước vào hầm nhừ. Thắng cố ngựa đặc trưng nhất. Gia vị thắng
cố ngựa với trâu giống như nhau. Khi ăn thắng cố chảo thịt vẫn bắc trên bếp nóng bốc hơi,
ăn đến đâu múc ra đến đó.
Phở ở chợ vùng cao có nhiều loại như phở gà, phở lợn đen, phở chua. Bánh phở ở đây
có đặc trưng riêng, sợi phở mềm, có mầu hơi nâu nâu do được tráng từ bột của gạo nương
đỏ trồng ở nương, không có chất bảo quản chỉ được dùng trong ngày. Phở chua có hương vị
đặc trưng, nước chua làm bằng nước của các loại dưa muối, ăn có vị thanh nhẹ dễ ăn. Ngoài
ra, sợi phở có sự khác biệt lớn mềm, thơm, ngậy, phở trộn với lạc, dễ ăn. Gạo ngâm sạch
sạch rồi xay bột tráng, Nước chua làm từ ngâm trộn rau cải với nước đường chắt lọc thành
nước chua. Chất lượng nước chua phụ thuộc vào tay nghề người làm. Nước chua làm từ nước
hoa quả. Loại phở nổi tiếng ở chợ Bắc Hà làm nao lòng du khách. Ngoài ra, ở chợ còn bánh
đúc ngô ăn với thắng cố mát, cung cấp tinh bột và giải rượu. Bánh đúc ngô ăn với nước chua
thêm gia vị rau thơm rất ngon.
Bánh chưng đen là đặc sản của người Giáy ở Lào Cai, làm bằng gạo và nước cây lúc
lác, vỏ cây đốt thành trò ngâm với gạo. Chợ là điểm thu hút các dân tộc trong vùng, khách
du lịch trong nước đi để trải nghiệm, thử các món ăn ngon, độc đáo. May mắn du khách có
thể gặp những sản vật đặc trưng của núi rừng như chuột rừng thui, được chiên lẫn với gừng
củ xả và hạt dổi rất ngon, thơm, thịt ngon. Chuột xấy cho gừng, xả rán vàng ăn thơm ngon,
dai, chắc chấm với nước chấm làm từ muối với lá chanh, ớt. Nổi bật nhất là những chảo
thắng cố nghi ngút khói, những chiếc nồi luộc thịt lợn, gà, những tảng thịt lợn đen được làm
sạch thả vào nồi luộc chín rồi móc lên mâm bằng thanh sắt nhỏ, Phần thịt đầu, thịt má
được làm sạch qua nước sôi rồi luộc chín, thái mỏng rồi trần qua nước sôi một lần nữa, thịt
có thể ăn riêng hoặc ăn lẫn với phở. Thịt lợn hay thịt gà đều được luộc hai lần, lần một chín
tới sau đó thái mỏng rồi lại trần lại lần thứ 2. Phần thịt ngon nhất là má lợn và thịt ở đầu lợn
được mọi người yêu thích nhất, vừa mềm, mừa thơm.
Các quán phở đều làm thịt lợn đen, gà bản. Theo lời kể của chủ quán, người dân ở đây
chỉ thích ăn lợn đen, gà bản. Thịt làm phở thường chọn phần thịt ngon nhất gồm thịt má,
lưỡi, thủ lợn, chân giò, Các loại thịt đều luộc chín tới rồi bỏ ra bóc xương, nghi ngút khỏi,
nóng hổi, những món ngon không thể cưỡng nổi, Khu hàng ăn đông khách đến nhất, một
vài người đàn ông sau khi ăn mèn mén xong mua thêm 1 bát mèn mén và canh đậu mang về.
Dưới góc nhìn văn hoá du lịch, các món ăn tại chợ vùng cao không chỉ đáp ứng nhu cầu
thưởng thức ẩm thực của người địa phương khi đến chợ mà còn là những đặc trưng văn hoá
địa phương mà khách du lịch trong và ngoài nước cần khám phá, thưởng thức khi đến chợ.
2.5. “Chợ tình” từ góc nhìn văn hoá du lịch
Đến chợ tình Sa Pa vào cuối chiều thứ Bảy hàng tuần, du khách sẽ bắt gặp hình ảnh các
cô gái Hmông đầu quấn khăn đỏ cùng với trang phục lộng lẫy thêu hoa văn sặc sỡ, đính cúc
bạc, khuy bạc trên áo. Những chàng trai mang trang phục H’mông, đeo khèn, thổi và hát
những khúc hát bằng tiếng dân tộc. Hình ảnh người con gái bẽn lẽn xẩu hổ lấy tay che mặt
TẠP CHÍ KHOA HỌC - SỐ 42/2020 25
vẫn hát, vẫn múa cùng bạn tình. Chợ tình Sa Pa càng về đêm càng ấn tượng, trai gái tìm bạn
như quên lối về. Trong không gian văn hoá đặc trưng, chợ tình thể hiện sắc màu văn hoá độc
đáo, thể hiện sinh hoạt văn hoá của thanh niên dân tộc Hmông. Đồng bào đến chợ tình còn
mang sản phẩm đến bán và mua những vật dụng cần thiết cho gia đình. Không khí nhộn
nhịp, cuốn hút khách du lịch.
Chợ tình Sa Pa đi vào đời sống như một phạm trù xã hội về tình yêu và hôn nhân. Có
thể giải thích, song không có định nghĩa thấu đáo về hai cụm từ này, chợ phải có người mua,
người bán nhưng cái tình ở đây không ai mua, ai bán. Vậy sao gọi là chợ tình? Chợ tình là
nơi hẹn hò, trao gửi tình cảm, có những cứ chỉ yêu thương diễn ra theo phong tục, tập quán
tuỳ từng địa phương, cũng đương nhiên dễ hiểu vì chợ là đầu mút của những sinh hoạt văn
hoá của đồng bào vùng cao. Các đôi nam nữ hẹn hò tại chợ tình, điểm hẹn hấp dẫn không
chỉ bởi đặc trưng văn hoá mà còn được hội tụ những nét kỹ vỹ huyền ảo của thiên nhiên
vùng cao này. Mỗi tuần chợ họp một lần vào tối thứ Bảy. Từ chiều ở cuối những con đường
nhỏ, từng góc phố đến khu nhà thờ đã thấy rất nhiều phụ nữ đầu quấn khăn đỏ, mặc trang
phục thêu hoa lộng lẫy cùng những đồng tiền bạc, khuy bạc đính trên vai áo, hấp dẫn hơn
nữa là tiếng reo từ chùm lục lạc đồng dưới chân. Đối tượng của họ là những chàng trai trong
trang phục áo chàm, khăn cùng màu tay đeo đồng hồ và khoác theo chiếc đài. Ở một góc phố
nhỏ, dăm bảy chàng trai đứng quanh một cô gái họ đưa những máy cát sét của họ để ghi âm
những khúc hát tỏ tình bằng tiếng dân tộc, thấy có người lạ cô gái vẫn hát, tay run, mặt đỏ.
Màn đêm buông núi hay trên những triền đồi cao những âm thanh mời gọi lúc trầm lúc bổng
từ tiếng đàn vẫn vang lên. Phong tục của người H’mông không ngăn cản người có vợ, có
chồng đi tìm bạn trong phiên chợ này, các cô gái trẻ đẹp thường được nhiều chàng trai để ý
hoặc vây quanh, cô gái không ưng thì bỏ chạy, động tác này, đến lúc chấm được một chàng
trai ưng ý, cô gái dúi vào tay người đó một vật đính ước, vật đó có thể là một chiếc nhẫn,
vòng, lược,... Chợ tình Sa Pa, ngôi chợ rất đặc biệt, rất lạ. Họ đến đó giao lưu văn hóa và gửi
gắm tình cảm. Do môi trường cư trú xa cách nhau, họ đến chợ trước 1 đêm, các đôi trai gái
có điều kiện gặp nhau, những chàng trai với điệu khèn cuốn hút các cô gái. Đôi vợ chồng
cùng đến chợ, người vợ có thể đi với bạn cũ của mình, người chồng có một bạn khác. Sáng
hôm sau hai vợ chồng gặp nhau mà không có điều gì xảy ra. Hiện nay, chợ tình Sa Pa nguyên
gốc không còn nữa mà chỉ là tái hiện nhằm bảo tồn nét văn hoá độc đáo này. Ở nước ta còn
có chợ tình Khâu Vai, được tổ chức 1 năm 1 phiên vào ngày 27 tháng 3 âm lịch, những cặp
tình nhân cũ gặp nhau lại trên núi Khâu Vai ôn lại kỷ niệm xưa, đây là phiên chợ truyền
thống, chỉ họp một lần tại xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Đây là một trong
những đặc trưng văn hoá vùng cao và là yếu tố thu hút khách du lịch trong và ngoài nước
khi đến du lịch và khám phá văn hoá các tộc người ở vùng cao.
3. KẾT LUẬN
Chợ vùng cao là một trong những hợp phần cầu thành nên nền tảng của xã hội, là động
lực phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, chứa đựng những giá trị văn hoá tộc người tiêu
biểu. Văn hoá tộc người được bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị trong phát triển kinh
tế - xã hội của các tộc người ở vùng cao. Trên thực tế, chợ vùng cao và những đặc trưng văn
26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
hoá của các tộc người trong vùng luôn vận động và phát triển không ngừng, dưới góc nhìn
văn hoá du lịch, việc khai thác các giá trị văn hoá phục vụ phát triển du lịch là việc làm cấp
thiết, không chỉ trong phát triển kinh tế mà còn liên quan trực tiếp tới sự phát triển văn hoá
tộc người bởi yêu cầu nội tại và giao thoa văn hoá. Để làm được điều đó, cần phải giải quyết
hài hoà mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, giữa truyền thống và biến đổi trong giao thoa
văn hoá mà không làm mờ nhạt bản sắc văn hoá tộc người trước yêu cầu hội nhập và phát
triển ở vùng cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thị Đém (2002), Chợ các tỉnh miền núi phía Bắc-trung tâm sinh hoạt văn hoá toàn vùng, Đề
tài cấp Bộ, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội.
2. Lý Hải (1995), “Chợ - một trung tâm văn hóa ở vùng cao”, Tạp chí Văn hóa Dân gian (4), tr. 21-24.
3. Lê Đức Hùng (2000), Chợ vùng cao Bắc Hà - Lào Cai, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
4. Hoàng Nam (2003), “Từ lễ hội đến chợ hội - một giải pháp bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa của
hai dân tộc Tày, Nùng ở Lạng Sơn”, Tạp chí Dân tộc học (6), tr.11-15.
5. Trần Hữu Sơn (2005), Xây dựng đời sống văn hoá ở vùng cao, Nxb. Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
HIGHLAND MARKET FROM THE VIEW OF CULTURAL TOURISM
Abstract: The highland market is a place not only for exchanging goods and cultural
activities but also attract domestic and foreign tourists to explore ethnic culture. In the
context of highland development, markets are not only a key factor but also a driving force
of the upland socio-economic development process. The development of highland markets
associated with tourism activities is not only valuable in economic development but also
contributes to the preservation of ethnic cultural values, and at the same time, promotes
and introduces these characteristics to the ethnic groups in the region, in the country and
international guests.
Keywords: Highland market, culture, tourism.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cho_vung_cao_tu_goc_nhin_van_hoa_du_lich.pdf