Thứ nhất, khó khăn lớn nhất, có tính chất
bao trùm, là bộ máy nhà nước ở Việt Nam
không được tổ chức theo nguyên tắc phân
quyền, mà theo nguyên tắc tập quyền, với một
đảng cầm quyền lãnh đạo, không có đảng đối
lập để có thể thường xuyên thực hiện chức
năng giám sát của Quốc hội. Hơn nữa, chức
năng này được Hiến pháp Việt Nam quy định
là giám sát tối cao, đối với hoạt động của toàn
bộ bộ máy nhà nước, từ Chính phủ, cho đến
nguyên thủ quốc gia, rồi Viện kiểm sát cho
đến Tòa án nhân dân tối cao. Việc giám sát
như vậy là quá nhiều các đối tượng, chủ thể
bị giám sát, phạm vi giám sát quá rộng, không
thấy trọng tâm của việc giám sát Chính phủ -
hành pháp. Giám sát của Quốc hội Việt Nam
còn được quy định cho cả giám sát hoạt động
xét xử của Tòa án, nên Quốc hội càng ngày
càng có xu hướng can thiệp vào từng vụ án cụ
thể. Đây là một loại hình giám sát không có ở
các Nhà nước hiện đại.
Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam
mặc dù đã có những thành công nhất định, nhất
là qua các hoạt động chất vấn sôi động trong
những năm vừa qua, nhưng hoạt động chất vấn
cũng như các hoạt động khác của chức năng
giám sát của Quốc hội Việt Nam mới chỉ dừng
lại ở những cảnh báo, không có khả năng áp
dụng chế tài của giám sát, làm cho hiệu quả
hoạt động giám sát không cao. Người có trách
nhiệm thường chỉ hứa hẹn nhiều, thậm chí còn
có hiện tượng đổ lỗi cho nhau với lý do trách
nhiệm không được phân định rõ ràng, chồng
chéo lên nhau, nên công tác quản lý bộ, ngành
vẫn ít biến chuyển. Cho đến nay, Quốc hội
Việt Nam chưa bỏ phiếu bất tín nhiệm được
một ai trong thành viên của Chính phủ hành
pháp, vì thay đổi nhân sự cơ bản là công việc
của Đảng cầm quyền. Nguyên tắc của chúng
ta là trong mọi trường hợp phải bảo vệ sự lãnh
đạo cao nhất của Đảng cầm quyền. Thực hiện
tốt nguyên tắc này thì dễ có nguy cơ đánh mất
tính hiệu quả của giám sát và ngược lại. Đảng
cầm quyền vừa lãnh đạo để thông qua các chủ
trương, lại vừa lãnh đạo việc giám sát thực hiện
chủ trương đã được thông qua, nên thực hiện
việc giám sát theo đúng tính chất của giám sát
là việc làm không dễ dàng.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 511
2010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Sự xuất hiện chức năng giám sát của
Quốc hội
Thuở mới ra đời, Quốc hội/Nghị viện của
các nước trên thế giới gắn liền với chức năng
lập pháp, chứ chưa có chức năng giám sát. Đó
cũng là sự đáp ứng một trong những yêu cầu
của học thuyết phân quyền của Montesquieu.
Nhưng trải qua một thời gian hoạt động,
người ta đã phát hiện ra rằng, ngay cả chức
năng quan trọng nhất là lập pháp, tức là làm
luật, nghị viện cũng khó đảm đương được.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Chính thể đại diện”
(Repesentative government), nhà triết học
người Anh - J. S. Mill - ngay từ thời kỳ cách
mạng tư sản đã viết: “Công việc lập pháp cần
thiết phải được thực hiện bởi các trí tuệ, không
những phải được rèn luyện và kinh qua thử
thách mà còn phải được huấn luyện làm nhiệm
vụ nghiên cứu dài lâu và cần cù; khó mà tìm
thấy loại công việc vận dụng trí óc nào khác
có sự đòi hỏi nhiều đến như vậy đối với những
người thực hiện. Giá mà không có một lý do
nào khác nữa, thì đây chính là lý do vừa đủ
giải thích tại sao công việc ấy không bao giờ
thực hiện tốt được, trừ phi có một tiểu ban rất
ít người đảm nhiệm nó. Một lý do nữa không
kém phần thuyết phục, một điều khoản của
một bộ luật cần phải đặt trong khuôn khổ của
sự nhận thức chính xác, có tầm nhìn xa, thấy rõ
được tác động của nó lên tất cả các điều khoản
khác; bộ luật khi đã được làm ra, phải có khả
năng ăn khớp với vào trong toàn thể hòa hợp
với những bộ luật đã làm ra trước đó. Những
điều kiện như thế không sao có thể đáp ứng
được ở bất cứ mức độ nào, khi người ta bỏ
phiếu thông qua các bộ luật từng điều khoản
một tại một hội đồng hỗn tạp.
Thay cho chức năng cai trị không thích
hợp, chức năng đích thực Quốc hội là giám
sát và kiểm soát Chính phủ, soi lên ánh sáng
công khai các hành vi cai trị, buộc Chính phủ
phải giải trình, khi bất cứ ai đó thấy chúng
đáng nghi ngờ, đáng lên án, và cảnh báo
những thành viên Chính phủ lạm dụng sự
tín nhiệm trong các công việc được giao hay
thực hiện xung đột với lợi ích quốc gia, thì
phải đuổi họ ra khỏi nhiệm sở và bổ nhiệm
những người kế nhiệm. Rõ ràng đây là quyền
lực dư dật và đủ an toàn cho một nền an ninh
tự do của quốc gia”1.
Nhưng những nhận định sắc sảo trên vẫn
chưa thành hiện thực. Trên thực tế gần 100
NGUYễN ĐăNG DUNG *
Chức năng giám sát của Quốc hội
trong Nhà nước pháp quyền
(*) GS, TS, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
(1) J. S. Mill, Chính thể đại diện (Repesentative government) Nxb. Tri thức, H. 2007, tr. 171-172.
KỶ NIỆM 65 NĂM QUỐC HỘI VIỆT NAM
6 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
năm sau, người ta vẫn tiếp tục tranh luận về
chức năng lập pháp, chức năng cai trị/quản lý
của cơ quan đại diện. Cho đến cuối thế kỷ XIX
và sang thế kỷ XX, với sự hiện diện của các
đảng phái, sự nhận định về chức năng giám sát
của cơ quan đại diện mới càng ngày càng rõ
dần ra. Theo cách thức tổ chức của nhà nước
đại nghị, như Anh quốc là điển hình, Chính
phủ - hành pháp và Quốc hội/Hạ nghị viện -
lập pháp đều cùng phản ánh ý chí của đảng
cầm quyền. Đảng cầm quyền là đảng chiếm
đa số ghế thông qua một cuộc đầu phiếu phổ
thông bầu ra các Nghị sĩ Quốc hội, có quyền
đứng ra thành lập Chính phủ. Vì lẽ đó, thủ lĩnh
của Đảng cầm quyền sẽ là Thủ tướng Chính
phủ. Các thành viên của Chính phủ về nguyên
tắc đều là những người trong Ban lãnh đạo của
Đảng cầm quyền. Với nguyên tắc nghị sĩ của
đảng nào chỉ được bỏ phiếu cho ý chí của đảng
đó, cộng với quyền trình dự án luật trước Quốc
hội, nên gần như một nguyên tắc, mọi dự luật
đều xuất phát từ Chính phủ - hành pháp. Các
hoạt động của Quốc hội - lập pháp và Chính
phủ - hành pháp đều do đảng cầm quyền quyết
định. Theo con số thống kê của nhiều nghị
viện, có tới hơn 90% tổng số các dự án luật
được Quốc Hội/Nghị viện thông qua là dự án
đệ trình từ Chính phủ.
Giữa Quốc hội và Chính phủ phải có sự tín
nhiệm lẫn nhau, tạo nên tính thống nhất của
quyền lực nhà nước. Quốc hội chỉ còn lại nhiệm
vụ kiểm soát Chính phủ và sẵn sàng thay đổi
Chính phủ đang cầm quyền. Hoạt động giám
sát của Quốc hội cũng như thực hiện chức năng
của Quốc hội nói chung hoàn toàn do đảng đối
lập thực hiện. Đối lập này được người gọi là
đối lập có trách nhiệm. Thay cho các cuộc đấu
tranh đổ máu, người ta giải quyết bằng con
đường tranh luận, thỏa thuận, thậm chí có thể
là những cuộc mặc cả, tạo nên một thứ văn hóa
được gọi là văn hóa nghị trường.
Việc chấp nhận chính sách cũng đồng thời
hình thành dần dần trên cùng một cấp độ và
cùng một lúc với việc thành lập ra Chính phủ.
“Các ông đã chấp nhận chúng tôi, thì cũng phải
chấp nhận luôn cả chính sách của chúng tôi.
Các ông không thể chỉ chọn lựa chính sách của
chúng tôi mà lại không có chúng tôi, không chỉ
lấy một cái này, mà lại bỏ cả cái kia kèm theo
được”. Herbert Morrison, cựu Phó Thủ tướng
Anh đã tuyên bố như vậy vào năm 1946. Và
chính ông cũng tự nhận thấy trách nhiệm cai
trị thường xuyên của Chính phủ đối với đất
nước, mà không phải Quốc hội, Nghị viện.
Ông cho rằng: “Ai chịu trách nhiệm về việc
cai trị thường xuyên, Chính phủ hay là Quốc
hội? Tôi xin nói các ngài rằng, Chính phủ phải
chịu trách nhiệm... Công việc của Quốc hội là
kiểm soát Chính phủ, hất bỏ nó đi nếu muốn,
cứ việc tấn công nó, phê bình nó. Vì Quốc hội
không phải là cơ quan được tổ chức ra để coi
việc cai trị thường xuyên, nếu có, thì không ở
xứ này2”.
Đó là những nét sơ lược hình thành nên
chức năng giám sát của Quốc hội Anh quốc,
một Quốc hội cổ điển của nền dân chủ tư sản.
Nhưng cần phải chú ý rằng, sự hình thành ra
chức năng giám sát này của Quốc hội không
phải theo bất cứ một lý thuyết nào có trước, kể
cả học thuyết phân quyền của S. Montesquieu
cũng như của J. Locke, mà do yêu cầu của hoạt
đông thực tế.
Chế định chịu trách nhiệm này được hình
thành trong lịch sử của Quốc hội Anh cũng
không được một đạo luật nào của họ ghi nhận.
Mãi về sau này, chế định quan trọng nói trên
mới được các Hiến pháp của nhiều nước ghi
nhận, và chính nó trở thành một nguyên tắc quan
trọng bậc nhất của mô hình chính thể đại nghị,
kể cả của các nền cộng hoà hay quân chủ lập
hiến. Chính phủ do Quốc hội bầu ra, và chính
Chính phủ - hành pháp phải chịu trách nhiệm
trước Quốc hội, đây là nguyên tắc cơ bản hình
thành nên chức năng giám sát của Quốc hội của
các nhà nước theo chế độ đại nghị.
Dần dần trong chế độ chính trị đại nghị, chức
(2) Robert E. Ward and Roy C. Macridis, Modern Political Systems Europe, Prentic, Hall Inc, Englewood Cliffs, New Jersey Library of
Congress catalog No 63, 11095, p.156.
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 711
2010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
năng giám sát được quy định rõ trong hiến pháp.
Logic của quy định chức năng này là, thực hiện
quyền lực nhà nước thuộc về mình, nhân dân
bầu ra Quốc hội; Quốc hội thay mặt cho nhân
dân không những có chức năng lập pháp, làm
luật, mà còn phải có trách nhiệm nặng nề trong
việc thành lập ra Chính phủ - hành pháp. Hơn
nữa, trong việc thực hiện chức năng lập pháp,
Quốc hội/Nghị viện lại còn nhường nốt hoạt
động trình dự án luật cho Chính phủ. Chính
vì vậy, Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước
Quốc hội, chính bởi sự chịu trách nhiệm này, mà
Quốc hội có chức năng giám sát Chính phủ.
Đối với các nhà nước được tổ chức theo
mô hình tổng thống, thì sự hình thành ra
chức năng giám sát cũng xuất phát từ thực
tế, nhưng nhiều khi Quốc hội lại không thực
hiện được quyền này. Khi áp dụng học thuyết
phân quyền “cứng rắn”, thì ở một số chính
thể Tổng thống, Tổng thống là người không
những đứng đầu nhà nước, là nguyên thủ
quốc gia, mà còn là người đứng đầu cơ quan
hành pháp, do nhân dân trực tiếp hoặc gián
tiếp bầu ra; Quốc hội cũng do nhân dân trực
tiếp bầu ra, nhưng Quốc hội chỉ có chức năng
lập pháp. Chính phủ - mà người đứng đầu là
Tổng thống - có chức năng hành pháp, nhưng
không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Do vậy, về nguyên tắc, Quốc hội lập pháp này
không có chức năng giám sát các hoạt động
của Chính phủ. Nếu có chăng nữa, thì sự biểu
hiện của chức năng này là do cơ chế kìm chế
và đối trọng đem lại, chứ không phải do chức
năng vốn có của lập pháp.
Nhưng trải qua một thời gian thực hiện
Hiến pháp, người ta đã yêu cầu một khi đã
có chức năng lập pháp, thì Quốc hội phải biết
được kết quả thi hành của các đạo luật, để điều
chỉnh lại hoạt động lập pháp của mình trong
tương lai. Trong khi việc tổ chức thực thi và
trách nhiệm thực thi luật pháp lại thuộc chức
năng của Chính phủ - hành pháp, nên không
còn một cách nào khác, lập pháp phải tiến
hành giám sát các hoạt động của hành pháp.
Hơn nữa, sau nhiều năm thực hiện sự phân
quyền của hiến pháp, người ta nhận ra rằng,
trong quá trình thực thi pháp luật, quản lý nhà
nước theo quy định của lập pháp, Chính phủ
- hành pháp không thể thực thi quyền hành
pháp mà lại không can thiệp sang các lĩnh vực
lập pháp. Chính phủ - hành pháp dần dần có
quyền can thiệp sang các lĩnh vực hoạt động
của lập pháp, như việc gợi ý cho chương trình
lập pháp của Quốc hội thông qua các thông
điệp hàng năm của Tổng thống trước Quốc hội
và nhất là việc ban hành các văn bản dưới luật
của hành pháp để thực thi các đạo luật, như là
một lẽ đòi hỏi đương nhiên. Phía hành pháp đã
là như vậy, thì lẽ đương nhiên, Quốc hội cũng
có sự can thiệp ngược lại để tạo ra một sự cần
bằng cần có trong cơ cấu tổ chức nhà nước dân
chủ. Vì những lẽ đó, nên “nếu Quốc hội từ bỏ
trách nhiệm giám sát thì có thể dẫn đến hai kết
quả. Các cơ quan, các bộ, có thể cứ làm tới mà
không bị giám sát; hoặc ai đó có thể nắm dây
cương mà Quốc hội đã thả lỏng. Điều thứ hai
xảy ra, nghĩa là nhân viên Tổng thống đã ngồi
vào tay lái”3.
Qua những điều đã phân tích ở trên, chúng
ta nhận thấy rằng, cho dù được tổ chức theo mô
hình đại nghị, hay được tổ chức theo mô hình
của chế độ tổng thống, thì lập pháp và hành
pháp vẫn không có sự phân chia tuyệt đối với
nhau. Mặc dù có sự phân quyền, nhưng hành
pháp vẫn can thiệp sang lĩnh vực lập pháp,
thậm chí các hoạt động lập pháp lại còn là nhu
cầu của hành pháp. Bản thân Quốc hội không
có nhu cầu của sự lập pháp.
2. Phạm vi và các hình thức thực hiện chức
năng giám sát
Giám sát dần dần trở thành chức năng
chính của Quốc hội hiện nay, như là một đòi
hỏi của thực tế mà không tuân thủ lý thuyết
phân quyền. Dù nhà nước được tổ chức theo
mô hình chính thể đại nghị hay chính thể
cộng hòa tổng thống, Quốc hội - lập pháp
(3) Ann Seidman, Robert Seidman và Nailin Abeysekere, Soạn thảo luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ (Sổ tay cho nhà soạn thảo luật)
Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 2003 tr. 57 – 58.
8 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
đều phải có chức năng giám sát hoạt động
của Chính phủ.
Chức năng giám sát được sinh ra một cách
muộn mằn so với chức năng lập pháp, nhưng
càng ngày càng có xu hướng lấn át, thậm chí
thay thế cả chức năng lập pháp. Giám sát của
Quốc hội lập pháp mang tính chất chính trị, thể
hiện ý chí của cử tri; không giám sát tư pháp,
không giám sát nguyên thủ quốc gia, không
giám sát cả chính quyền địa phương. Giám sát
của Quốc hội lập pháp chỉ tập trung vào giám
sát Chính phủ hành pháp, không giám sát các
hoạt động của các cơ quan tư pháp, xét xử. Sở
dĩ như vậy, vì tòa án là một tổ chức độc lập, là
cơ quan có chức năng xét xử cao nhất của mỗi
quốc gia. Các vụ việc được giải quyết theo các
vòng tố tụng của tòa án khi và chỉ khi có người
nại ra, khi có quyền hoặc lợi ích của họ bị xâm
phạm. Hoạt động xét xử mang tính chuyên
môn, không mang tính chính trị. Không những
thế, bản thân tòa án còn có nhiệm vụ xét xử cả
lập pháp và hành pháp. Mục tiêu là cảnh báo,
trì hoãn và thay đổi hành pháp do các đảng
phái đối lập thực hiện.
Quốc hội các nước trên thế giới thực hiện
chức năng giám sát rất đa dạng. Hình thức thực
hiện chức năng giám sát phụ thuộc rất nhiều
vào chính thể nhà nước. Như đã phân tích ở
chính thể đại nghị, Quốc hội có thể thực hiện
chức năng này bằng các hình thức rất khác nhau
như: nghe báo cáo ở phiên toàn thể, chất vấn,
lập các đoàn kiểm tra, bỏ phiếu bất tín nhiệm,
thay đổi các thành viên của Chính phủ cho đến
lật đổ cả Chính phủ - hành pháp... Nhưng ở các
nhà nước theo chế độ này, chức năng giám sát
có một sự biến dạng rất lớn. Với sự hiện diện
của đảng cầm quyền - hoặc liên minh của các
đảng cầm quyền - chiếm đa số ghế ở Quốc hội,
đảng cầm quyền có thể sử dụng thế đa số để
giám sát ngay chính Quốc hội, bắt Quốc hội
phải phụ thuộc vào Chính phủ. Sự hình thức
và sự phụ thuộc của Quốc hội vào Chính phủ -
hành pháp gần như là một quy luật khách quan
của loại hình tổ chức nhà nước này. Thủ tướng
- người đứng đầu Chính phủ có thể sử dụng
chế định bỏ phiếu tín nhiệm, một hình thức
biểu hiện của chức năng giám sát của Quốc
hội trong mô hình chính thể này, để đe dọa hay
thực hiện việc giải tán Quốc hội, nhằm mục
đích kéo dài nhiệm kỳ của mình, hoặc tăng
cường thêm quyền lực của mình. Ví dụ rõ
nhất là hai lần giải tán Quốc hội Nhật Bản của
Thủ tướng Koizumi những năm gần đây. Việc
lật đổ Chính phủ hay giải tán Quốc hội luôn
không phải là điều tốt, vì nó phá vỡ tính thống
nhất vốn có và cần có của quyền lực nhà nước.
Hiện trạng này có thể gây nên tình trạng bất
ổn chính trị, tác động không lường được cho
tình trạng xã hội, thậm chí có thể nảy sinh tình
trạng nội chiến, tranh chấp giữa các phe phái
lẫn nhau mà không có chính quyền. Đây là liệu
pháp cực chẳng đã của các quốc gia.
Ngược lại, ở nhà nước được tổ chức theo
mô hình chế định cộng hòa Tổng thống, chức
năng giám sát của lập pháp đối với hành pháp
chỉ như là một chức năng phụ kèm theo, thậm
chí không được quy định trong Hiến pháp, và
các hình thức biểu hiện cũng hết sức đơn giản,
không đa dạng như chế định đại nghị, nhưng
hiệu quả lại rất cao. Ngoài việc Quốc hội có
quyền luận tội và buộc tội các quan chức cao
cấp của nhà nước, kể cả đối với chức vị cao
nhất là Tổng thống, các ủy ban của Quốc hội
Mỹ có quyền yêu cầu các bộ trưởng đến điều
trần tại các phiên họp của ủy ban. Phiên điều
trần có sự hiện diện của các luật sư của cả bên
nguyên và bên bị, thể hiện sự công bằng rõ
ràng hơn cho việc tiến hành buộc tội và luận
tội. Nếu có vấn đề thực sự có liên quan thì các
quan chức khó thoát khỏi sự buộc tội và luận
tội tại các phiên họp toàn thể của Quốc hội hai
viện (như vụ Tổng thống B.Cliton bị điều trần
tại Ủy ban Tư pháp của Thượng viện Mỹ trong
vụ quấy rối tình dục tại Nhà trắng với cô thực
tập sinh Monica Lewinsky). Ngoài thủ tục
điều trần tại các ủy ban, Quốc hội trong chế độ
Tổng thống Cộng hòa còn có thủ tục luận tội
các quan chức cao cấp. Thông thường, thủ tục
này được bắt đầu bằng sự buộc tội của Hạ nghị
viện và luận tội, kết tội ở Thượng nghị viện.
Chế tài được áp dụng là bãi chức vụ.
Chức năng giám sát đã trở thành một chức
Số 22(183) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 911
2010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
năng chính của Quốc hội - lập pháp của các
nhà nước phát triển vào những năm gần đây,
kể cả các nhà nước theo chế định chính thể đại
nghị hay cộng hòa tổng thống. Nhưng điểm
đáng phải quan tâm là chức năng giám sát chỉ
được tiến hành với hoạt động của các cơ quan
hành pháp, mà không tiến hành đối với các cơ
quan tư pháp. Sở dĩ như vậy, vì tư pháp là hoạt
động độc lập, là cái khiên đỡ cuối cùng cho
sự nghiệp bảo vệ tự do của người dân. Các vụ
việc đều có thể được xem xét và giải quyết qua
các vòng tố tụng từ sơ thẩm cho đến giám đốc
thẩm, cho đến khi các chủ thể có quyền lợi liên
quan không thể nại ra được nữa, với sự hoạt
động tranh tụng thông qua của các luật sư cân
sức, cân tài với nhau về mặt trình độ. Một khi
các luật sư của các bên không nại ra theo con
đường tố tụng, thì lẽ đương nhiên vấn đề giám
sát của Quốc hội – lập pháp của các nước này
cũng không được đặt ra.
Chức năng giám sát của Quốc hội thể hiện
những yêu cầu tiến triển của nhà nước pháp
quyền. Vì mục tiêu của nhà nước pháp quyền
là quyền lực nhà nước phải bị kiểm soát bằng
các quy định của pháp luật, mà trước hết là
bằng quy định của Hiến pháp. Vì vậy, quyền
lực của nhà nước càng được kiểm soát bao
nhiêu thì càng đáp ứng yêu cầu của nhà nước
pháp quyền bấy nhiêu. Trong nhà nước pháp
quyền, chức năng giám sát của Quốc hội càng
ngày càng phải nâng cao như một tiêu chí đánh
giá. Quyền giám sát và điều tra cho phép các
nhà làm luật chất vấn quan chức Chính phủ
về những hành động và quyết định của họ; là
phương tiện kiểm soát quyền lực các bộ trong
Chính phủ; các nghị sĩ phê chuẩn ngân sách, đề
xướng chính sách, tiến hành điều trần những
vấn đề bức xúc và chấp thuận chỉ định người
vào tòa án, các bộ...
3. Chức năng giám sát của Quốc hội
Việt Nam
Các bản Hiến pháp của Việt Nam trước
đây và bản hiện hành dành rất nhiều sự quan
tâm đến việc quy định chức năng giám sát của
Quốc hội. Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm
1980 và hiện nay Hiến pháp năm 1992 đều quy
định chức năng này là giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước từ lập
pháp hành pháp, tư pháp ở trung ương đến các
cơ quan nhà nước ở địa phương, thậm chí cho
đến tận các hành vi của mọi công dân. Sự quy
định quá nhiều chủ thể bị Quốc hội giám sát,
làm cho công việc giám sát của Quốc hội Việt
Nam thiếu đi một trọng tâm cần phải giám sát
là hoạt động của Chính phủ - hành pháp. Trong
khi đó, chức năng giám sát của lập pháp các
nước trên thế giới chỉ tập trung vào công việc
của hành pháp.
Cũng như các nước tư sản thuộc chế độ đại
nghị, Quốc hội Việt Nam thực hiện chức năng
giám sát bằng các hình thức: Nghe báo cáo của
các cơ quan nhà nước tại các kỳ họp; các đại
biểu có thể thực hiện quyền chất vấn của mình
tại kỳ họp hoặc ngoài kỳ họp, và cuối cùng,
các đại biểu Quốc hội thực hiện chức năng
giám sát bằng các đoàn kiểm tra, thường là các
đoàn kiểm tra của các Ủy ban và Hội đồng dân
tộc của Quốc hội.
Hoạt động giám sát có những đặc thù gần
tương tự như hoạt động của cơ quan xét xử,
cần phải có thời gian, cần phải có thủ tục như
một phiên xét xử, thậm chí cũng có thể cần đến
cả luật sư bào chữa của các bên, vì vậy, phiên
họp toàn thể - hình thức hoạt động cơ bản của
Quốc hội - nhiều khi không đáp ứng được các
yêu cầu này, nên hoạt động giám sát khó có
hiệu quả. Do đó, cũng như chức năng lập pháp,
Quốc hội cần phải thực hiện chức năng giám
sát này tại các phiên họp tương ứng của các
Ủy ban.
Hoạt động của Quốc hội tập trung vào các
Ủy ban bởi những lẽ sau đây: i) các quyết định
của Quốc hội ngày càng mang tính chuyên môn
mà không thể tất cả các đại biểu đều có đầy đủ
khả năng giải quyết; ii) với thành phần khoảng
trên dưới 500 người, không cho phép Quốc hội
giải quyết các nhiệm vụ phức tạp, lại mang cả
tính chuyên môn “một đại biểu thì quá ít, mà
cả Quốc hội thì lại quá nhiều. Đó là nguyên
nhân vì sao các Uỷ ban là hình thức hoạt động
hiệu quả ở Quốc hội trong trường hợp cần phải
10 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 22(183) 112010
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
điều tra, làm rõ một vấn đề nào đó liên quan
đến chuyên môn”;4 iii) các đại biểu Quốc hội
do dân bầu ra với những trình độ chuyên môn
đa dạng, không phải đại biểu nào cũng có thể
có chuyên môn đáp ứng giải quyết những vấn
đề mà Quốc hội cần quyết định.
Giám sát trở thành chức năng chính của
Quốc hội, thì giám sát cũng là chức năng chính
của Hội đồng và các Ủy ban. Muốn thực hiện
tốt chức năng giám sát, chỉ có một cách là phải
có kỹ năng thực hiện chức năng giám sát của
các Ủy ban của Quốc hội.
4. Những khó khăn và thách thức trong
thực hiện chức năng giám sát của Quốc
hội Việt Nam
Như đã nói, Hiến pháp đầu tiên của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946
đã quy định Quốc hội có chức năng giám sát.
Những quy định về chức năng giám sát của
Quốc hội qua các lần thay đổi Hiến pháp vẫn
được giữ nguyên. Nguyên lý cũng như các
hình thức thực hiện chức năng giám sát của
Quốc hội Việt Nam cũng gần giống như của
Quốc hội các nước theo chế định đại nghị:
Chính phủ do Quốc hội thành lập, Chính phủ
phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội, có thể
bị Quốc hội giám sát bằng các hình thức như
nghe báo cáo, chất vấn, thành lập các đoàn
kiểm tra, bỏ phiếu bất tín nhiệm các thành
viên của Chính phủ. Nhưng so với chức năng
giám sát của các chế độ chính trị phương tây,
thì chức năng giám sát Quốc hội Việt Nam có
nhiều điểm khác biệt. Những điểm khác biệt
này cũng chính là những biểu hiện về các khó
khăn, thách thức khi thực hiện chức năng giám
sát của Quốc hội Việt Nam:
- Thứ nhất, khó khăn lớn nhất, có tính chất
bao trùm, là bộ máy nhà nước ở Việt Nam
không được tổ chức theo nguyên tắc phân
quyền, mà theo nguyên tắc tập quyền, với một
đảng cầm quyền lãnh đạo, không có đảng đối
lập để có thể thường xuyên thực hiện chức
năng giám sát của Quốc hội. Hơn nữa, chức
(4) Văn phòng Quốc hội, Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội. Nxb Tư pháp, H. 2006, tr. 162.
năng này được Hiến pháp Việt Nam quy định
là giám sát tối cao, đối với hoạt động của toàn
bộ bộ máy nhà nước, từ Chính phủ, cho đến
nguyên thủ quốc gia, rồi Viện kiểm sát cho
đến Tòa án nhân dân tối cao. Việc giám sát
như vậy là quá nhiều các đối tượng, chủ thể
bị giám sát, phạm vi giám sát quá rộng, không
thấy trọng tâm của việc giám sát Chính phủ -
hành pháp. Giám sát của Quốc hội Việt Nam
còn được quy định cho cả giám sát hoạt động
xét xử của Tòa án, nên Quốc hội càng ngày
càng có xu hướng can thiệp vào từng vụ án cụ
thể. Đây là một loại hình giám sát không có ở
các Nhà nước hiện đại.
Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam
mặc dù đã có những thành công nhất định, nhất
là qua các hoạt động chất vấn sôi động trong
những năm vừa qua, nhưng hoạt động chất vấn
cũng như các hoạt động khác của chức năng
giám sát của Quốc hội Việt Nam mới chỉ dừng
lại ở những cảnh báo, không có khả năng áp
dụng chế tài của giám sát, làm cho hiệu quả
hoạt động giám sát không cao. Người có trách
nhiệm thường chỉ hứa hẹn nhiều, thậm chí còn
có hiện tượng đổ lỗi cho nhau với lý do trách
nhiệm không được phân định rõ ràng, chồng
chéo lên nhau, nên công tác quản lý bộ, ngành
vẫn ít biến chuyển. Cho đến nay, Quốc hội
Việt Nam chưa bỏ phiếu bất tín nhiệm được
một ai trong thành viên của Chính phủ hành
pháp, vì thay đổi nhân sự cơ bản là công việc
của Đảng cầm quyền. Nguyên tắc của chúng
ta là trong mọi trường hợp phải bảo vệ sự lãnh
đạo cao nhất của Đảng cầm quyền. Thực hiện
tốt nguyên tắc này thì dễ có nguy cơ đánh mất
tính hiệu quả của giám sát và ngược lại. Đảng
cầm quyền vừa lãnh đạo để thông qua các chủ
trương, lại vừa lãnh đạo việc giám sát thực hiện
chủ trương đã được thông qua, nên thực hiện
việc giám sát theo đúng tính chất của giám sát
là việc làm không dễ dàng.
- Thứ hai, kỹ năng, nguồn lực, phương
tiện hỗ trợ cho hoạt động giám sát còn yếu
(Xem tiếp trang 19)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuc_nang_giam_sat_cua_quoc_hoi_trong_nha_nuoc_phap_quyen.pdf