Một số định hướng về việc thực hiện quy
định lộ trình ghi âm, ghi hình trong Bộ luật tố
tụng hình sự
Để thực hiện tốt quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 về ghi âm ghi hình có âm thanh
không phải chỉ trong một thời gian ngắn là tổ chức
thực hiện được ngay mà cần phải có lộ trình nhất
định đó là cần có hướng dẫn thống nhất của liên
bộ có liên quan và phải có thời gian để đầu tư đồng
bộ về cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ
thuật có am hiểu và xử lý tốt các tình huống có thể
xảy ra để kết quả việc ghi âm ghi hình có âm thanh
mang lại hiệu quả thiết thực tránh xảy ra sự cố
ngoài ý muốn như ghi âm hoặc ghi hình bị lỗi
không sử dụng được, việc tổ chức xây dựng các cơ
sở tổ chức ghi âm ghi hình phải đồng bộ trong các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, để cho
công tác điều tra, truy tố và xét xử được thống nhất
từ trung ương đến địa phương.
Sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra
đời, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
110/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 về
vệc thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự, trong đó đã
chỉ rõ nhiệm vụ của các cơ quan, Bộ, Ngành. Cụ
thể như sau:
Về kinh phí: Giao cho Chính phủ đầu tư kinh
phí để bảo đảm việc thực hiện các quy định về
chỉ định người bào chữa, ghi âm hoăc ghi hình có ̣
âm thanh việc hỏi cung bị can, sao chép, số hóa
tài liệu trong hồ sơ vụ án hình sự, giám định tư
pháp và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án.
Về các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện
nhiệm vụ ghi âm, ghi hình có ân thanh: Quốc hội
giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn trình tự, thủ tục thực
hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi
cung bị can; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung
bị can trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Quốc hội giao cho Bộ trưởng Bộ Công an
chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính và
Bộ trưởng Bộ Nội vụ xây dựng đề án về cơ sở
vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực
hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc
hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tô tụng ́
Hình sự năm 2015.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chứng cứ về ghi âm, ghi hình có âm thanh trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
30
CHỨNG CỨ VỀ GHI ÂM, GHI HÌNH CÓ ÂM THANH
TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
Nguyễn Việt Hà1
Quách Đình Lực2
Tóm tắt: Việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh lần đầu tiên được đề cập trong Bộ luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, đây là một bước tiến lớn trong quá trình lập pháp. Các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng thực hiện tốt việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và sử dụng kết quả này là
nguồn chứng cứ quan trọng trong suốt tiến trình tố tụng, thực hiện tốt việc công khai minh bạch trong
hoạt động tố tụng hình sự, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm nguyên tắc suy đoán
vô tội và bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử nhằm mục đích hoạt động điều tra, truy tố và xét xử
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm cũng không làm oan người vô tội.
Từ khóa: Bộ luật Tố tụng hình sự; chứng cứ; ghi âm; ghi hình.
Ngày nhận bài: 10/01/2018; Ngày hoàn thành biên tập: 18/01/2018 ; Ngày duyệt đăng:
30/1/2018.
Abstract: Sound recording or video recording was first mentioned in the Vietnamese Criminal
Code, which is a big step forward in the legislative process. The competent authorities conducts
sound proceedings or sound recording and uses the results as important sources of evidence
throughout the course of the proceedings is good implementation of publicity and transparency in
criminal procedure activity, protecting human’s rights, citizen’s rights, ensuring the principle of
presumption of innocence and ensuring the litigation in adjudication for the purpose of investigation,
prosecution and trial of the right person, proper crime and law, not missing criminals and not making
wrongful sentence for innocent people.
Keywords:Criminal procedure code; evidence; sound recording; video recording.
Date of receipt: 10/01/2018; Date of revision:18/01/2018 ; Date of approval: 30/1/2018.
Việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hoạt
động điều tra đối với nhiều nước văn minh trên
thế giới đã được áp dụng từ lâu và khá phổ biến,
điều đó đáp ứng yêu cầu công khai minh bạch và
bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự.
Đối với Việt Nam qua quá trình xây dựng Bộ luật
Tố tụng hình sự, đây là lần đầu tiên trong trong
lịch sử lập pháp của Nhà nước ta Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 ghi nhận việc ghi âm, ghi hình
có âm thanh.
1. Vấn đề ghi âm, ghi hình có âm thanh
trong hoạt động điều tra
Đối với quá trình điều tra, Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 quy định các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng bên cạnh việc ghi biên
bản hoạt động điều tra thì trong những trường
hợp cụ thể bắt buộc người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra phải tiến hành đồng thời giữa việc lập
biên bản với việc ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh, đây là yêu cầu bắt buộc theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đồng thời
cũng quy định việc sử dụng nó là nguồn chứng
cứ trong một số trường hợp cần thiết của quá
trình điều tra, truy tố, xét xử. Theo chúng tôi đây
là một bước tiến lớn trong quá trình xây dựng Bộ
luật Tố tụng hình sự, để từng bước hòa mình vào
xu hướng chung của các nước văn minh trên thế
giới về việc áp dụng các tiến bộ trong khoa học
công nghệ hiện đại phục vụ công tác điều tra,
truy tố và xét xử. Đáp ứng yêu cầu của hệ thống
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối
với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nhằm bảo
1 Thạc sỹ, Học viện Cảnh sát nhân dân
2 Thạc sỹ, Học viện Tư pháp
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
31
đảm mọi hoạt động tố tụng phải bảo đảm tính
khách quan, toàn diện và đầy đủ, đồng thời bảo
đảm tính công khai minh bạch trong các hoạt
động tố tụng hình sự, góp phần bảo đảm tính
thượng tôn pháp luật để việc điều tra, truy tố, xét
xử đúng người đúng tội và đúng pháp luật, tránh
bức cung, dùng nhục hình, không bỏ lọt tội phạm
và không làm oan người vô tội, tránh oan sai xảy
ra. Đồng thời tránh được những tai tiếng mà bấy
lâu nay ở đâu đó vẫn nghi ngờ về việc một số bị
can, bị cáo khi phản cung chối tội đều nại ra lý do
trong quá trình điều tra bị Điều tra viên bức cung
hoặc dùng nhục hình.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
rất chặt chẽ việc Cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng tổ chức ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh cho đến khi các cơ quan có thẩm quyền sử
dụng nguồn chứng cứ đã ghi âm hoặc ghi hình
có âm thanh kết hợp với các nguồn chứng cứ
khác trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để
chứng minh hành vi phạm tội và khẳng định có
hay không có việc bức cung hoặc dùng nhục hình
trong quá trình điều tra nhằm giải quyết vụ án
bảo đảm tính khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Về việc tổ chức ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh, Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 quy định bắt buộc về việc hỏi cung bị can
tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh. Điều luật cũng quy định rất
chặt chẽ việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác
được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu
cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng.
Quá trình ghi âm, ghi hình có âm thanh còn
nhằm mục đích tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô
tội như Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 quy định: Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn
cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết
luận người bị buộc tội không có tội.
Tổ chức ghi âm ghi hình có âm thanh góp
phần không nhỏ vào việc xác định sự thật khách
quan của vụ án, đó là những vấn đề cần phải
chứng minh trong vụ án hình sự, như Điều 85 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định, cụ thể
đó là:
- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành
vi phạm tội;
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có
lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng
lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích,
động cơ phạm tội;
- Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về
nhân thân của bị can, bị cáo;
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra;
- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
- Những tình tiết khác liên quan đến việc loại
trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt.
Việc tiến hành tổ chức thực hiện quá trình ghi
âm, ghi hình có âm thanh tại cơ sở giam giữ đối
với bị can đang bị tạm giam hoặc đối với bị can
được tại ngoại hoặc khi có yêu cầu của bị can ở
ngoài cơ sở giam giữ là việc làm đòi hỏi có tính
đồng bộ và tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục
giữa cán bộ kỹ thuật hình sự có chuyên môn trực
tiếp quản lý hệ thống thiết bị kỹ thuật ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh với Điều tra viên và
cán bộ điều tra, bởi vì chỉ cần một sơ suất nhỏ
trong trường hợp đang hỏi cung, lấy lời khai
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân mà
thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh xảy ra
sự cố kỹ thuật không thể thực hiện việc ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh thì phải phải kịp thời
xử lý dừng ngay buổi hỏi cung, lấy lời khai. Việc
này ghi rõ trong biên bản, có xác nhận của cán bộ
chuyên môn. Rồi việc sử dụng, bảo quản, chuyển
giao, lưu trữ dữ liệu ghi âm, ghi hình có âm thanh
phải tuân theo quy trình chặt chẽ để phục vụ tốt
việc điều tra, truy tố, xét xử.
Sau khi có kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh khi hỏi cung bị can, hay lấy lời khai người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân thì cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng bên cạnh việc sử
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
32
dụng các biên bản hoạt động điều tra đã được lập
theo đúng quy định tại Điều 133 Bộ luật Tố tụng
hình sự để phục vụ cho việc giải quyết vụ án, đồng
thời cũng có thể còn sử dụng các tài liệu này để
phục vụ cho công tác điều tra, khám phá tội phạm,
chẳng hạn có thể sử dụng dữ liệu ghi âm có âm
thanh phục vụ cho hoạt động nhận biết giọng nói
theo quy định tại Điều 191 Bộ luật Tố tụng hình
sự, hoặc sử dụng dữ liệu dã được ghi bằng hình
ảnh phục vụ cho hoạt động nhận dạng như Điều
190 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
Khi việc điều tra của Cơ quan điều tra hoặc
cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra đã hoàn tất phần việc của
mình, thì Cơ quan điều tra sẽ ban hành bản kết
luận điều tra kèm theo hồ sơ vụ án chuyển sang
Viện kiểm sát đề nghị truy tố. Trong khái niệm
hồ sơ theo Điều 131 Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định bao gồm có: Lệnh, quyết định, yêu cầu của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Các biên bản tố
tụng do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát lập; Các
chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án; Các chứng
cứ, tài liệu do Viện kiểm sát, Tòa án thu thập
trong giai đoạn truy tố, xét xử phải đưa vào hồ sơ
vụ án. Hồ sơ vụ án phải có thống kê tài liệu kèm
theo. Thống kê tài liệu ghi rõ tên tài liệu, số bút
lục và đặc điểm của tài liệu (nếu có). Trường hợp
có bổ sung tài liệu vào hồ sơ vụ án thì phải có
thống kê tài liệu bổ sung. Hồ sơ vụ án phải được
quản lý, lưu giữ, sử dụng theo quy định của pháp
luật. Như vậy nội dung ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh được hiểu là một trong các tài liệu liên
quan trong hồ sơ vụ án.
2. Sử dụng kết quả ghi âm, ghi hình và tổ
chức ghi âm ghi hình của Viện Kiểm sát
Sau khi Viện kiểm sát nhận hồ sơ của Cơ quan
điều tra và lập biên bản giao, nhận hồ sơ theo đúng
trình tự thủ tục, cũng là lúc Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
khi được phân công, đó là kiểm tra hồ sơ tài liệu
liên quan đến vụ án, trong đó có nội dung liên
quan đến việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Công việc của Viện kiểm sát thực hiện các hoạt
động để bảo đảm tính khách quan của các chứng
cứ đã thu thập được bằng cách đối chiếu so sánh
các biên bản hoạt động điều tra với nội dung đã
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, một mặt kiểm
tra tính chính xác trung thực của thông tin có đúng
như nội dung đã ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
hay không, mặt khác kiểm tra xem trong quá trình
lấy lời khai của Điều tra viên, cán bộ điều tra đối
với bị can, người đại diện thep pháp luật của pháp
nhân có bức cung hoặc dùng nhục hình hay không
để từ đó có hướng xử lý kịp thời đáp ứng yêu cầu
giải quyết đối với vụ án và xử lý khi có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình hỏi
cung bị can, hỏi người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân. Làm tốt điều này giúp Kiểm sát viên
vững tin hơn khi thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử tại Tòa án. Bởi lẽ trong quá trình tranh
tụng tại phiên tòa giữa Kiểm sát viên với bị cáo,
người bào chữa hoặc với những người tham gia tố
tụng khác cũng là lúc Hội đồng xét xử kiểm tra,
đánh giá quá trình thu thập chứng cứ có bảo đảm
tính khách quan tính liên quan và tính hợp pháp
hay không.
Trong quá trình thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động điều tra, Kiểm sát viên khi thực
hiện việc hỏi cung bị can khi hồ sơ Cơ quan điều
tra đã hoàn tất chuyển sang Viện kiểm sát cũng
phải tuân thủ theo đúng quy định về việc ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự, nhất là đối với những trường
hợp khi hỏi cung bị can tại ngoại, với đòi hỏi về kỹ
thuật cũng tương tự như đối với hoạt động ghi âm,
ghi hình nói chung, nếu được thực hiện tại phòng
hỏi cung của trụ sở Viện kiểm sát và tài liệu về ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh của Kiểm sát viên
phải được đưa vào hồ sơ trong quá trình giải quyết
vụ án theo quy định
3. Kiểm tra kết quả ghi âm, ghi hình và tổ
chức ghi âm ghi hình của Thẩm phán
Khi hồ sơ Viện kiểm sát chuyển sang Tòa án,
thì điều bắt buộc đối với Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa cũng phải nghiên cứu kỹ
hồ sơ, trong đó có nội dung ghi âm hoặc ghi h́nh
có âm thanh. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự thì quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội
đồng xét xử lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến
của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người
tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá
khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường
hợp không chấp nhận ý kiến của những người
tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
33
rõ lý do và được ghi trong bản án. Vì vậy những
chứng cứ tài liệu trong quá trình điều tra đều phải
được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa
Quá trình tranh luận tại phiên tòa thì bị cáo,
người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có
quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu
và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên
về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác
định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi
phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo
trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm
dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp;
nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình
tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Bị cáo, người
bào chữa, người tham gia tố tụng khác có quyền
đưa ra đề nghị của mình. Do đó Kiểm sát viên
phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối
đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào
chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, căn
cứ vào diễn biến thực tế ngoài những tài liệu đã
được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, có
thể có những tài liệu chứng cứ mới mà bị cáo,
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân,
người bào chữa hoặc những người tham gia tố
tụng xuất trình. Kiểm sát viên có thể đề nghị Hội
đồng xét xử công bố các tài liệu liên quan đến
việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh tại phiên
tòa khi bị cáo kêu oan nói rằng bị bức cung, bị
dùng nhục hình, bằng cách đề nghị Hội đồng xét
xử quyết định việc cho nghe, xem nội dung được
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên quan tại
phiên tòa như quy định tại Điều 313 Bộ luật Tố
tụng hình sự để khẳng định việc hỏi cung của
Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên có bức cung hoặc dùng nhục hình
hay không. Qua việc nghe hoặc xem nội dung ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh mà Kiểm sát viên
bác bỏ lời chối tội không có căn cứ của bị cáo
hoặc người bào chữa cho bị cáo nêu ra và khẳng
định việc hỏi cung bị can tuân thủ theo đúng trình
tự, thủ tục tố tụng không có bức cung hoặc dùng
nhục hình đối với bị can, để từ đó khẳng định
việc truy tố bị can là có căn cứ, đúng người, đúng
tội và đúng pháp luật.
Nếu quá trình tranh tụng khi có đầy đủ căn
cứ để buộc tội như bản cáo trạng đã truy tố thì
Kiểm sát viên trong lời luận tội của mình mới đề
nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo
trạng, ngược lại nếu quá trình diễn biến tại phiên
tòa có phát sinh những tình tiết mới thì tùy theo
từng vụ án cụ thể với diễn biến cụ thể của vụ án
mà sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên có
thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố
hoặc kết luận về tội nhẹ hơn như quy định tại
Điều 319 Bộ luật Tố tụng hình sự, hoặc sau khi
kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận
tội; trong trường hợp nếu thấy không có căn cứ
để kết tội thì Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định
truy tố và đề nghị Tòa án tuyên bố bị cáo không
có tội như quy định tại Điều 320 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Trong quá trình kiểm tra đánh giá chứng cứ
của Hội đồng xét xử đối với trường hợp khi bị cáo
tố cáo bị bức cung, dùng nhục hình, thì Hội đồng
xét xử có quyền quyết định việc cho nghe, xem
nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
liên quan tại phiên tòa, như Điều 313 Bộ luật Tố
tụng hình sự đã quy định, để từ đó có thể quyết
định việc triệu tập và yêu cầu Điều tra viên, Kiểm
sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng đến phiên tòa trình
bày ý kiến để làm rõ những quyết định, hành vi tố
tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, như
Điều 317 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhằm
bảo đảm xét xử vô tư, khách quan, công bằng và
nghiêm minh, đồng thời trong quá trình xét xử nếu
có đầy đủ căn cứ về việc dùng nhục hình hoặc bức
cung đối với bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố
thì Hội đồng xét xử khởi tố vụ án hoặc yêu cầu
Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự để điều tra
theo các tội danh tương ứng được quy định tại
Điều 373, 374 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi
bổ sung năm 2017.
Trong quá trình xét xử thì“Tòa án ghi âm,
ghi hình, ghi hình có âm thanh về diễn biến phiên
tòa được thực hiện theo quy định của pháp luật
tố tụng” như quy định tại Quy chế tổ chức phiên
tòa ban hành kèm theo Thông tư số 02/2017/TT-
TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao (có hiệu lực kể từ
ngày 01/01/2018) để bảo đảm sự công khai minh
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
34
bạch và phục vụ cho việc lưu trữ và phục vụ việc
xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
đối với vụ án (nếu có). Tài liệu ghi âm, ghi hình
có âm thanh tại phiên tòa sơ thẩm lại trở thành
nguồn chứng cứ và được sử dụng trong quá trình
xét xử theo quy định tại Điều 313, 317 Bộ luật Tố
tụng hình sự của phiên tòa phúc thẩm, giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm (nếu có).
Như vậy trong suốt tiến trình tố tụng từ việc
tổ chức ghi âm ghi hình có âm thanh đến việc
bảo quản, lưu trữ dữ liệu của các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng đều theo trình tự,
thủ tục rất chặt chẽ. Việc công khai sử dụng kết
quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi nó bảo
đảm tính khách quan, tính liên quan và tính hợp
pháp sẽ là chứng cứ quan trọng phục vụ đắc lực
cho công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
đảm tính tranh tụng công khai tại phiên tòa giữa
Kiểm sát viên với luật sư, bị cáo, người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân và những người
tham gia tố tụng khác, đồng thời những thông tin
thu thập từ quá trình ghi âm, ghi hình có âm
thanh là những chứng cứ quan trọng để giúp cho
luật sư trong việc bào chữa cho bị can, bị cáo.
4. Một số định hướng về việc thực hiện quy
định lộ trình ghi âm, ghi hình trong Bộ luật tố
tụng hình sự
Để thực hiện tốt quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 về ghi âm ghi hình có âm thanh
không phải chỉ trong một thời gian ngắn là tổ chức
thực hiện được ngay mà cần phải có lộ trình nhất
định đó là cần có hướng dẫn thống nhất của liên
bộ có liên quan và phải có thời gian để đầu tư đồng
bộ về cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ
thuật có am hiểu và xử lý tốt các tình huống có thể
xảy ra để kết quả việc ghi âm ghi hình có âm thanh
mang lại hiệu quả thiết thực tránh xảy ra sự cố
ngoài ý muốn như ghi âm hoặc ghi hình bị lỗi
không sử dụng được, việc tổ chức xây dựng các cơ
sở tổ chức ghi âm ghi hình phải đồng bộ trong các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, để cho
công tác điều tra, truy tố và xét xử được thống nhất
từ trung ương đến địa phương.
Sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra
đời, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
110/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 về
vệc thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự, trong đó đã
chỉ rõ nhiệm vụ của các cơ quan, Bộ, Ngành. Cụ
thể như sau:
Về kinh phí: Giao cho Chính phủ đầu tư kinh
phí để bảo đảm việc thực hiện các quy định về
chỉ định người bào chữa, ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh việc hỏi cung bị can, sao chép, số hóa
tài liệu trong hồ sơ vụ án hình sự, giám định tư
pháp và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án.
Về các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện
nhiệm vụ ghi âm, ghi hình có ân thanh: Quốc hội
giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn trình tự, thủ tục thực
hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi
cung bị can; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung
bị can trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Quốc hội giao cho Bộ trưởng Bộ Công an
chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính và
Bộ trưởng Bộ Nội vụ xây dựng đề án về cơ sở
vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực
hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc
hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng
Hình sự năm 2015.
Về lộ trình thực hiện: Nghị quyết Quốc hội
đã giao Bộ trưởng Bộ Công an quyết định cụ thể
nơi có điều kiện để thực hiện việc ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh hoạt động hỏi cung bị can
kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Chậm nhất đến
ngày 01 tháng 01 năm 2019 thì thực hiện thống
nhất việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc
hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ ghi âm, ghi hình
có âm thanh và để bảo đảm là nguồn chúng cứ
quan trọng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử, trước mắt cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng xây dựng
Thông tư liên tịch hướng dẫn về trình tự, thủ tục
thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, sử
dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi
Soá 1/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
35
hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử.
Chúng tôi hy vọng trong tương lai, theo đúng
lộ trình hoặc có thể sớm hơn chúng ta sẽ thực
hiện và đáp ứng tốt yêu cầu của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 về việc ghi âm, ghi hình có âm
thanh phục vụ tốt công cuộc cải cách tư pháp góp
phần thiết thực vào cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm, thiết thực bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo đảm việc điều tra, truy tố
và xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp
luật, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
nhằm không để lọt tội phạm, người phạm tội,
đồng thời không làm oan người vô tội./.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
2. Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày 27
tháng 11 năm 2015 về vệc thi hành Bộ luật Tố
tụng hình sự
3. Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày
28 tháng 7 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 BLTTHS
năm 2015 thì người bị bắt bao gồm: người bị bắt
trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt
theo quyết định truy nã. Đây là người bị áp dụng
các biện pháp ngăn chặn bắt người trong trường
hợp phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn
người đó tiếp tục phạm tội, tiếp tục bỏ trốn hoặc
cản trở việc điều tra. Họ cũng có quyền tự bào chữa
và nhờ người khác bào chữa. Đồng thời, người bị
bắt có nghĩa vụ chấp hành lệnh bắt người và yêu
cầu của cơ quan, người có thẩm quyền bắt người
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
3.3. Người bào chữa
Dựa trên nguyên tắc chung là người nào bị
buộc tội thì người đó có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa, BLTTHS quy định
người bào chữa là người được người bị buộc tội
nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng
ký bào chữa. Ngươi bào chữa tham gia tố tụng với
mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến
sự thật vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc
tội và giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý.
Người bào chữa có thể tham gia tố tụng trong vụ
án hình sự trong các trường hợp sau đây: (1)
Người bào chữa được người bị buộc tội, bị can, bị
cáo hoặc người thân thích của họ mời bào chữa;
(2) Người bào chữa tham gia bào chữa trong
trường hợp bào chữa chỉ định.
So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm
2015 có một số thay đổi về người bào chữa.
BLTTHS năm 2003 chỉ quy định ba diện người
bào chữa, đó là: Luật sư, Bào chữa viên nhân dân,
người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo. Điều 72 BLTTHS năm 2015 quy định
người bào chữa có thể là: Luật sư: Người đại diện
của người bị buộc tội: Bào chữa viên nhân dân:
Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị
buộc tội là đối tượng được trợ giúp pháp lý./.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015.
2. Từ điển Tiếng Việt (1996), NXB Đà Nẵng.
3. Ngô Thị Ngọc Vân (2015), Luận văn tiến
sĩ luật học “Hoạt động bào chữa của luật sư
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”.
4. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Luận án tiến
sỹ luật học “Các chức năng của Tố tụng hình sự
Việt Nam”.
5. Hoàng Thị Sơn (2000),“Về khái niệm
quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học số 5/2000.
6. Hoàng Thị Minh Sơn (2015), “Khái niệm, vị
trí, vai trò, ý nghĩa của các chức năng trách nhiệm
hình sự”, “ Hội thảo khoa học “Các chức năng của
tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội
7. Trần Hoài Lâm (2007),“Chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự”, Luận văn thạc sỹ luật học
8. Phạm Hồng Hải (1999), “Bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội”, NXB CAND.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
( Tiếp theo trang 29)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chung_cu_ve_ghi_am_ghi_hinh_co_am_thanh_trong_bo_luat_to_tun.pdf