Chuyên đề Bàn về cách tính khấu hao TSCĐ và phương pháp kế toán khấu hao TSCĐ theo chế độ hiện hành trong các doanh nghiệp

Sau khi trình bày về vấn đề khấu hao và kế toán khấu hao theo chế độ hiện hành ở các doanh nghiệp Việt Nam, em muốn khẳng định một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp là có một sách lược khấu hao hợp lý. Tính hợp lý đó được thể hiện qua việc tổ chức hạch toán kế toán khấu hao TSCĐ và lựa chọn phương pháp trích khấu hao phù hợp với điều kiện riêng của doanh nghiệp, đồng thời phải tuân theo quy định của Nhà Nước. Do có những hạn chế về hiểu biết đối với kế toán Việt Nam, đồng thời không có điều kiện tìm hiểu thực tế nên đề án của em chỉ đi sâu vào trình bày và phân tích lý luận chung về khấu hao TSCĐ. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng đề án của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong với sự nỗ lực của mình cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, kiến thức của em về vấn đề kế toán khấu hao sẽ được củng cố và nâng cao, phục vụ cho công việc trong tương lai.

doc29 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bàn về cách tính khấu hao TSCĐ và phương pháp kế toán khấu hao TSCĐ theo chế độ hiện hành trong các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Quản lý tốt và nâng cao hiệu quả sử dụng Tài Sản Cố Định (TSCĐ) là một đòi hỏi thiết yếu đối với mọi Doanh Nghiệp nhằm tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị Doanh Nghiệp. Trong điều kiện hiện nay khi mà khoa học kỹ thuật và công nghệ trở thành một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp có tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp , thì Doanh nghiệp nào sử dụng TSCĐ có hàm lượng khoa học kỹ thuật càng cao thì càng có điều kiện để thành công. Trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn dần, phần giá trị hao mòn này được chuyển dần vào giá trị Sản Phẩm làm ra dưới hình thức trích khấu hao. Như vậy, hao mòn là một hiện tượng khách quan làm giảm giá trị và giá trị sử dụng của TSCĐ, còn khấu hao là một biện pháp chủ quan trong quản lý nhằm thu hồi lại giá trị đã hao mòn của TSCĐ. Về phương diện kinh tế , khấu hao cho phép Doanh nghiệp phản ánh được giá trị thực của tài sản, đồng thời làm giảm lãi ròng của Danh nghiệp, về phương diện tài chính, khấu hao là một phương tiện tài trợ giúp cho doanh nghiệp thu được bộ phận giá trị đã mất của TSCĐ , về phương diện thuế khoá, khấu hao là một khoản chi phí được trừ vào lợi tức chịu thuế, tức là được trừ vào chi phí kinh doanh hợp lệ, và phương diện kế toán , khấu hao là sự ghi nhận giảm giá của TSCĐ. Việc tính khấu hao có thể tiến hành theo những phương pháp khác nhau.Việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao nào là tuỳ thuộc vào quyết định của Nhà Nước về chế độ quản lý tổ chức đối với doanh nghiệp và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp ,phương pháp khấu hao được lựa chọn phải bảo đảm thu hồi vốn nhanh ,đầy đủ và phù hợp với khả năng trang trải chi phí của doanh nghiệp. Xác định rõ tầm quan trọng của việc trính khấu hao và phương pháp kế toán khấu hao TSCĐ trong việc quản lý và sử dụng TSCĐ ở doanh nghiệp. Em quyết định chọn đề tài :” Bàn về cách tính khấu hao TSCĐ và phương pháp kế toán khấu hao TSCĐ theo chế độ hiện hành trong các doanh nghiệp”. Hy vọng với sự nỗ lực hết mình của em cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Trần Quý Liên , đề án này sẽ góp phần hoàn thiện hiểu biết của em về vấn đề khấu hao và kế toán khấu hao TSCĐ. PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN KHẤU HAO TSCĐ I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHẤU HAO TSCĐ Khái niệm về khấu hao TSCĐ - Khấu hao tài sản cố định: là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của tài sản cố định vào chi phí kinh doanh qua thời gian sử dụng của tài sản cố định. - Hao mòn tài sản cố định: là sự giảm dần giá trị sử dụng và giá trị của tài sản cố định do tham gia vào hoạt động kinh doanh, do bào mòn của tự nhiên, do tiến bộ kỹ thuật... trong quá trình hoạt động của tài sản cố định. - Kế toán khấu hao là một hệ thống kế toán nhằm phân bổ giá hoặc giá trị cơ bản khác của một tài sản đầu tư hữu hình, trừ đi giá trị phế liệu (nếu có) trong một thời hạn sử dụng của một thiết bị (mà có thể là của một nhóm các tài sản) theo một phương thức hệ thống hợp lý. Như vậy , khấu hao TSCĐ chính là sự biểu hiện bằng tiền của phần giá trị TSCĐ đã hao mòn. Hao mòn TSCĐ là hiện tượng khách quan làm giảm giá trị và giá trị sử dụng của TSCĐ ; còn mục đích của trích khấu hao TSCĐ là biện pháp chủ quan nhằm thu hồi vốn đầu tư để tái tạo lại TSCĐ khi nó bị hư hỏng.Khấu hao là một loại chi phí đặc biệt, khác với các loại chi phí khác ở chỗ nó không liên quan đến chi phí tiền mặt .Bút toán kép đối với khấu hao không ảnh hưởng gì tới tài sản lưu động và các khoản phải trả .Trong sổ sách kế toán, các chi phí khác làm giảm tiền mặt còn chi phí khấu hao làm giảm gía trị tài sản ghi trong sổ sách. Bởi vậy, khấu hao còn được gọi là khoản chi phí “phi tiền tệ”. Tại sao phải trích khấu hao TSCĐ Chúng ta có thể đưa ra bốn lý do chủ yếu đó là: -Hao mòn vật chất -Tác nhân kinh tế -Tác nhân thời gian -Sự hao cạn SỰ HAO MÒN VẬT CHẤT :Sau nhiều năm sử dụng ,nhà cửa, mắy móc, xe cộ và các trang thiết bị nội thất đều sẽ hư hỏng dần đến ngày nào đó không còn dùng được nữa. Các yếu tố tự nhiên cũng như sự thiếu chăm sóc của con người có thể làm cho đồ đạc , đất đai bị ăn mòn, gỉ sét hay bị mục nát dần. TÁC NHÂN KINH TẾ: Tác nhân kinh tế cũng là một trong những yếu tố làm cho tài sản có thể bị thải hồi sau một thời gian sử dụng. Sự lỗi thời: Một thí dụ cho sự lỗi thời là những chiếc máy bay cánh quạt tuy máy móc vẫn hoạt động tốt nhưng đã trở thành lạc hậu khi những phi cơ phản lực ra đời, Chúng bị loại khỏi những đương bay lớn mặc dù vẫn có thể sử dụng trong nhiều năm nữa. Sự bất tương xứng: Sự bất tương xứng xẩy ra khi một tài sản không được sử dụng đến nữa do quy mô của công ty phát triển và biến đổi . Thí dụ một chiếc phà nhỏ do một hãng vận hành ở một khu nghỉ mát trên bờ biển sẽ trở nên không phù hợp nữa khi khu nghỉ mát đó đông khách hơn. Lúc đó người ta nhận thấy việc sử dụng một cái phà lớn sẽ có hiệu quả kinh tế hơn. Do vậy , chiếc phà nhỏ không còn được sử dụng nữa. TÁC NHÂN THỜI GIAN: Rõ ràng là thời gian có liên quan tới việc hư hỏng, hao mòn hay lỗi thời và bất tương xứng của TSCĐ . Tuy nhiên có những loại TSCĐ mà thời gian lại tác động tới một cách khác. Thí dụ bạn thuê một ngôi nhà trong vòng mười năm. khi thời hạn kết thúc thì thời gian thuê nhà không còn hiệu lực tức là số tiền bạn trả cho toà nhà đó không còn giá trị nữa. Tương tự khi bạn mua một bằng phát minh với toàn quyền sử dụng thì chỉ mình bạn mới có quyền sản xuất mặt hàng do bằng phát minh đó sáng chế .Nhưng khi thời hạn của bằng phát minh này kết thúc thì bạn không còn được toàn quyền sử dụng nữa. SỰ HAO CẠN: Những tài sản thường được xếp vào loại bị hao cạn là các nguồn tài nguyên thiên nhiên như mỏ quặng vỉa đá quý và giếng dầu. Trong quá trình bị khai thác , những nguồn tài nguyên này sẽ bị cạn dần .Vì vậy ,Đối với các tài sản này ,người ta còn tính dự trù số hao cạn. Từ những điều phân tích trên , ta có thể chia ra hai loại hao mòn đó là: -Hao mòn hữu hình là sự hao mòn vật lý trong quá trình sử dụng do bị cọ xát, bị ăn mòn, bị hư hỏng từng bộ phận. Hao mòn hữu hình của TSCĐ có thể diễn ra hai dạng dưới đây: + Hao mòn dưới dạng kỹ thuật xẩy ra trong quá trình sử dụng . + Hao mòn do tác động của thiên nhiên (độ ẩm, hơi nước, không khí...) không phụ thuộc vào việc sử dụng. Do có sự hao mòn hưũ hình nên TSCĐ mất dần giá trị và giá trị sử dụng lúc ban đầu , cuối cùng phải thay thế bằng một tài sản khác. -Hao mòn vô hình là sự giảm giá trị của TSCĐ do tiến bộ khoa học -kỹ thuật. Nhờ tiến bộ của khoa học-kỹ thuật mà TSCĐ được sản xuất ra càng ngày càng có nhiều tính năng với năng suất cao hơn và với chi phí ít hơn. Như vậy, một đặc điểm vô hình của TSCĐ là đến một lúc chúng sẽ không còn hữu ích nữa do bị xuống cấp hoặc mất tính năng sử dụng do bị lạc hậu. Vì những tài sản đó có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận thu được và đến các số liệu trên sổ kế toán , việc xem xét một cách đúng đắn những đặc điểm này là điều cốt lõi trong khi lập báo cáo tài chính của một công ty. Nhìn chung việc xử lý chúng có liên quan đến khấu hao. Sự cần thiết phải trích khấu hao một cách hợp lý Trước hết, khấu hao về cốt lõi là một quá trình phân bổ giá trị, chứ không phải là quá trình đánh giá ,tái đánh giá TSCĐ theo “giá trị” hiện hành của chúng. Trong thực tiễn kế toán khấu hao không tập trung vào việc đo mức giảm giá trị của một TSCĐ. Thay vì đó ,khấu hao là một quá trình theo đó gía trị của một TSCĐ được phân bổ một cách hợp lỷtong thời hạn sử dụng TSCĐ đó . tính hợp lý của điều đó được diễn giải như sau. Các phương pháp hợp lý cần được sử dụng để khấu trừ dần giá của TSCĐ trong quá trình thời hạn sử dụng của chúng giảm dần. Nếu thời hạn của một tài khoá kế toán dài hơn hoặc ít nhất bằng thời gian sử dụng của TSCĐ thì sẽ không nảy sinh sự cần thiết phải tính giá khấu hao. Nhưng do tài khoá kế toán thường là một thời hạn ngắn (một năm) mỗi tài khoá kế toán phải được tính giá theo phần tỷ lệ giá trị của TSCĐ sao cho giá tài sản được phân bổ hợp lý và được coi như một khoản phí tổn trong mỗi tài khoá kế toán trong suốt thời gian sử dụng tài sản. Về bản chất, giá trị của mỗi tài sản là một khoản phí tổn được trả trước cho một thời hạn dài và sau đó ta cần dựa vào một phương pháp hợp lý để phân bổ lại phí tổn đó trong suốt thời gian sử dụng tài sản sao cho số phí tổn được cân đối với lợi nhuận trong từng thời hạn . Hai là, việc xác định giá trị của một TSCĐ để tính thành một khoá phí tổn (khấu hao) trong từng tài khoá kế toán phụ thuộc vào ba yếu tố :(1) giá (2) giá trị phế liệu và (3) thời hạn sử dụng ước tính. Việc bàn luận những yếu tố mà cần được xem xét khi ta phải ra các quyết định liên quan tới từng yếu tố là một phần quan trọng của quan niệm khấu hao . 4. Những yếu tố liên quan đến trích khấu hao TSCĐ Nguyên giá Thuật ngữ “Nguyên giá” ở đây được dùng để chỉ tổng chi phí thực tế bỏ ra để mua sắm và đưa một TSCĐ vào hoạt động . Theo định nghĩa đó, ngoài giá phải trả cho người bán những khoản chi phí như vận chuyển, lắp đặt và các phụ phí khác cũng cần được tính . Trong trường hợp công ty tự mình tạo ra TSCĐ , thì giá của tài sản đó sẽ bao gồm giá vật liệu cọng với giá nhân công và một phần hợp tý các chi phí gián tiếp mà không dễ dàng tính toán một cách chính xác. Trong một số hoàn cảnh nhất định giá trị của TSCĐ được xác định trên một cơ sở khác, tức là trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm mua. Ví dụ , đất đai nhà xưởng được biếu không cho một công ty để khuyến khích công ty này xây dựng một nhà máy ở một thời điểm nào đó. Có thể nhận thấy “Nguyên giá” không phải lúc nào cũng dễ xác định, và xác định nó một cách chính xác lại càng khó. Tuy nhiên, việc xác định giá cần được thực hiện theo phương thức càng hợp lý càng tốt. Giá trị phế liệu Số lượng khấu hao là mức chênh lệch giữa giá và giá trị phế liệu của tài sản. Giá trị phế liệu là số tiền ước tính thu được do bán lại TSCĐ hoặc xử lý tài sản theo một cách khác ở cuối thời hạn sử dụng của tài sản đó. Mặc dù giá trị phế liệu chỉ có thể được xác định một cách chính xác ở thời điểm sau này, giá trị này cũng cần được xác định ước tính ở thời điểm mua tậu TSCĐ.Tuỳ thuộc vào bản chất và hoàn cảnh số tiền thu được do bán phế liệu có thể rất nhỏ (bằng không) hoặc đáng kể (tác động của các thay đổi về công nghệ, mẫu mã ). Kinh nghiệm và khả năng xét đoán chính là cơ sở quan trọng cho việc ước tính giá trị phế liệu . Một khái niệm nữa là khái niệm về giá trị phế liệu ròng (bằng giá trị phế liệu trừ đi chi phí ước tính cho việc di chuyển, tháo dỡ tài sản). Dù theo phương thức nào , công ty phải nhất quán sử dụng phương thức đó để xác định khấu hao. Thời hạn sử dụng Yếu tố thứ ba cần xác định trước để phân bổ các chi phí khấu hao một cách hợp lý là ước tính thời gian sử dụng của tài sản. Thời hạn sử dụng ước tính là khoảng thời gian mà tài sản được coi là mang lại lợi ích cho các hoạt động kinh doanh của công ty. Thời hạn này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sửa chữa, bảo dưỡng, hao mòn trong quá trình hoạt động , điều kiện khí hậu và các điều kiện tại chỗ, kỹ năng vận hành của con người những biến đổi về kinh tế , những phát minh và sự lỗi thời tất yếu. Như vậy thời hạn sử dụng ước tính của cùng một tài sản có thể khác nhau tuỳ thuộc vào từng công ty. Hơn nữa, nó còn là vấn đề của sự suy xét và cần được xác định dựa trên kinh nghiệm và các thông tin liên quan khác. Nếu cần thiết thời gian sử dụng của một tài sản có thể được xem xét lại một cách định kỳ. Như vậy , rõ ràng là dựa vào ba yếu tố nói trên ta cũng không thể xác định chính xác thời hạn sử dụng của một tài sản tại thời điểm mua tậu nó. Theo các mức độ khác, việc xác định chúng là vấn đề suy đoán , kinh nghiệm, các yếu tố thực tế và sự suy xét có cơ sở. 5. Các loại TSCĐ được sử dụng để trích khấu hao và không được trích khấu hao Theo điều 20 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính “Về ban hành Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định” ngày 30-12-1999 ta có: 5.1. Mọi tài sản cố định của doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều phải trích khấu hao, mức trích khấu hao tài sản cố định được hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ. 5.2. Những tài sản cố định không tham gia vào hoạt động kinh doanh thì không phải trích khấu hao, bao gồm: - Tài sản cố định không cần dùng, chưa cần dùng đã có quyết định của Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị) hoặc cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) cho phép doanh nghiệp được đưa vào cất giữ, bảo quản, điều động cho doanh nghiệp khác. - Tài sản cố định thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý hộ, giữ hộ. - Tài sản cố định phục vụ các hoạt động phúc lợi trong doanh nghiệp như nhà trẻ, câu lạc bộ, nhà truyền thống, nhà ăn,... - Những tài sản cố định phục vụ nhu cầu chung toàn xã hội, không phục vụ cho hoạt động kinh doanh của riêng doanh nghiệp như đê đập, cầu cống, đường xá,... mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý. - Tài sản cố định khác không tham gia vào hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, theo dõi các tài sản cố định trên đây như đối với các tài sản cố định dùng trong hoạt động kinh doanh và tính mức hao mòn của các tài sản cố định này (nếu có); mức hao mòn hàng năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá chia (:) cho thời gian sử dụng của tài sản cố định xác định theo quy định tại khoản 1, Điều 18 của Chế độ Quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ- Bộ Tài Chính ban hành ngày 30-12-1999. Nếu các tài sản cố định này có tham gia vào hoạt động kinh doanh thì trong thời gian tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện tính và trích khấu hao vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Tiền khấu hao được phân bổ theo nguồn gốc tài sản cố định. 5.3. Doanh nghiệp không được tính và trích khấu hao đối với những tài sản cố định đã khấu hao hết nhưng vẫn sử dụng vào hoạt động kinh doanh. Đối với những tài sản cố định chưa khấu hao hết đã hỏng, doanh nghiệp phải xác định nguyên nhân, quy trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt hại... và xử lý tổn thất theo các quy định hiện hành. Đối với những tài sản cố định đang chờ quyết định thanh lý, tính từ thời điểm tài sản cố định ngừng tham gia vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thôi trích khấu hao theo các quy định trong chế độ này. II. CÁC PHƯƠNG PHÁP TRÍCH KHẤU HAO TSCĐ Như chúng ta đã biết, cũng như phí tổn, khấu hao cần được dàn trải một cách hợp lý trong suốt thời gian sử dụng của một TSCĐ. Điều đó có nghĩa , nó là các phương pháp phân bổ các chi phí . Chính vì vậy, việc bàn luận về các phương pháp khấu hao sẽ cung cấp thông tin cơ sở, giúp cho các nhà quản lý lựa chọn một phương pháp thích hợp tuỳ theo hoàn cảnh thực tế của mỗi trường hợp. Chúng ta có thể chia các phương pháp khấu hao ra làm hai loại : 1.a. Phương pháp đường thẳng b. Phương pháp đơn vị sản phẩm 2. Các phương pháp khấu hao nhanh bao gồm : Phương pháp cân đối giảm dần Phương pháp số của tổng số năm 1.a. Phương pháp đường thẳng Giả định cơ bản của phương pháp đường thẳng (SL) là quá trình khấu hao là một hàm số của thời gian . Như vậy phí tổn khấu hao được phân bổ đồng đều cho mỗi năm trong thời hạn sử dụng của một TSCĐ. Nói cách khác, phương pháp đường thẳng tạo ra mức khấu hao thống nhất cho mỗi năm trong cả thời hạn sử dụng của TSCĐ. Ta có thể xác định khấu hao năm bằng cách lấy số tiền cần khấu hao (phí tổn ) trừ đi giá trị phế liệu sau Đó chia cho số năm của thời hạn sử dụng ước tính . Ta có thể biểu diễn cách tính trên bằng công thức : Khấu hao năm Số tiền phải khấu hao - Giá trị phế liệu Thời hạn sử dụng(số năm) Ngoài ra thời hạn sử dụng có thể được thể hiện bằng tỷ lệ pgần trăm thay vì bằng số năm . Nếu thời hạn sử dụng của một tài sản cố định là 5 năm, thì ta có thể tính được khấu hao năm bằng cách hoặc chia phí tổn khấu hao trừ đi giá trị phế liệu cho 5 hoặc tính số phần trăm, tức là 20%(=100:5). Những ưu điểm của phương pháp đường thắng (SL) là tương đối đơn giản trong tính toán và dễ hiểu. Tuy nhiên , nó cũng có những hạn chế nghiêm trọng. Trước hết, phương pháp này không hợp lý, vì nó dựa trên giả định là khấu hao liên quan tới thời gian, cho nên cách tính này chỉ phù hợp khi tài sản được sử dụng với cường độ đồng đều . Nhưng cường độ sử dụng tài sản có thể rất không đồng đều và như vậy năng suất của nó cũng biến đổi. Ví dụ , một xe tải có thể được sử dụng để chạy 40.000 km trong một năm nhưng lại để chạy 10.000 km trong một năm khác. Trong những trường hợp mà cường độ sử dụng một TSCĐ biến đổi mạnh theo thời gian, thì phương pháp đường thẳng có thể không hiện thực và hợp lý. Hơn nữa, phương pháp đường thẳng thường dẫn đến chi phí vận hành quá cao liên quan đến sửa chữa bảo dưỡng và khấu hao ở các năm cuối của thời hạn sử dụng một TSCĐ. Sở dĩ như vậy là vì ở những năm sau hiệu suất sử dụng của các tài sản giảm đi dẫn tới những chi phí lớn hơn về sửa chữa và bảo dưỡng và đối chiếu với lượng khấu hao không đổi, tổng chi phí vận hành sẽ tăng lên nhiều. Nói tóm lại phương pháp đường thẳng không cân đối giữa chi phí với hiệu quả vận hành của một tài sản. 1.b. Phương pháp đơn vị sản phẩm Phương pháp này phần nào khắc phục được yếu điểm của phương pháp đường thẳng ở chỗ là nó cân đối được số khấu hao năm với mức độ sử dụng tài sản trong mỗi giai đoạn .Theo phương pháp này, khấu hao được tính theo tỷ lệ thuận với mức độ hoạt động của mỗi tài sản cụ thể .Tiêu chuẩn để xác định khấu hao ở đây không phải là số lượng thời gian mà là cường độ sử dụng trong một thời hạn cụ thể . Mức độ sử dụng có thể được tính một trong hai cách (1) số lượng giờ vận hành ước tính và (2) số lượng đơn vị sản phẩm tạo ra. Khấu hao theo đơn vị sản phẩm được tính bằng cách chia thời hạn hoạt động của tài sản cố định ( được thể hiện bằng số đơn vị sản phẩm) cho giá mua tài sản trừ đi giá phế liệu dự đoán của tài sản đó . Ưu điển của phương pháp này là giá của tài sản được phân bổ thành các khoản chi phí tỷ lệ thuận với mức độ sử dụng. Phương pháp này có thể áp dụng khi ta dễ dàng tính được sản lượng vật chất của tài sản trong mỗi tài khoá kế toán và khi ta ước tính được một cách khá chính xác tổng sản lượng vật chất do tài sản đó tạo ra trong thời hạn sử dụng tài sản đó . Phương pháp khấu hao theo đơn vị sản lượng còn có thể được áp dụng trong các trường hợp liên quan tới kinh doanh phát triển một số loại tài nguyên thiên nhiên ,ví dụ như ngành công nghiệp khai thác .Phương pháp này còn áp dụng cho việc khấu hao các loại xe vận tải, máy bay... 2. Các phương pháp khấu hao nhanh Các phương pháp khấu hao nhanh khác với các phương pháp khấu hao trên ở chỗ những phương pháp khấu hao nhanh dự trù những khoản khấu hao lớn ở những năm đầu của thời hạn sử dụng của tài sản và giảm đều dần ở những năm sau. Có hai lý lẽ đưa ra nhằm biện hộ cho các phương pháp khấu hao nhanh. Trước hết ở một số ngành kinh doanh, ví dụ như ô tô, trong đó theo thời gian, các chi phí sửa chữa và bảo dưỡng tăng dần ,việc tính khấu hao ở những năm đầu thấp hơn ở các năm sau sẽ tạo ra được một khối lượng đồng đều các chi phí vận hành bao gồm khấu hao, bảo dưỡng và sửa chữa đối với từng năm của thời hạn sử dụng tài sản. Hai là, có những loại tài sản mà khả năng mang lại lợi ích của nó là chắc chắn hơn ở những năm đầu so với những năm sau của thời hạn sử dụng .Trong những trường hợp như vậy dự trữ khấu hao lớn ở những năm đầu có thể tao ra một sự phân bổ giá trị tài sản hợp lý hơn. Các phương pháp khấu hao nhanh bao gồm : Phương pháp cân đối giảm dần Phương pháp số của tổng số năm 2.a. Phương pháp cân đối giảm dần Theo phương pháp này, một tỷ lệ cố định được áp dụng vào giá (chứ không phải giá trừ đi giá trị phế liệu) của năm thứ nhất để xác định chi phí khấu hao cho một thời hạn. ở các thời hạn tiếp theo, chi phí khấu hao cũng được tính toán dựa trên tỷ lệ như vậy cho phần còn lại (giá trừ đi chi phí khấu háo tích luỹ đến thời điểm đó) của tài sản. Tỷ lệ này được biểu diễn theo công thức sau: 1 n giá trị phế liệu giá Về phương diện thuế, mức biến đổi của tỷ lệ này gấp đôi tỷ lệ phương pháp đường thẳng. Vì vậy, phương pháp này thường được gọi là phương pháp khấu hao cân đối giảm dần kép. 2.b. Phương pháp số của tổng số năm Giống như phương pháp cân đối giảm dần, phương pháp này dự tính các chi phí khấu hao giảm dần trong thời hạn sử dụng của tài sản. ở đây, chi phí khấu hao của mỗi năm cho trước được xác định bằng cách nhận tổng giá trị trừ đi giá trị phế liệu với một phân số biến đổi trong mõi năm, phân số được áp dụng cần có tử số ứng với những năm còn lại của thời hạn sử dụng tài sản và có mẫu số bằng tổng dãy số do các năm thời hạn sử dụng tài sản tạo ra. Phương pháp số tổng số năm là một phương pháp dễ tính toán. Một ưu điểm nữa của phương pháp là nhờ sử dụng nó ta có thể tránh được các vấn đề về giá trị dư thừa quá cao của tài sản mà không thể thu hồi được ở cuối đời sử dụng của nó. Đó là vấn đề mà ta gặp phải trong phương pháp cân đối giảm dần. Qua trình bày trên ta có thể thấy rằng các phương phá khấu hao khác nhau đều nhằm mục đích là phân bổ giá của một tài sản cố định trong thời hạn sử dụng nó theo một phương thức và hệ thống hợp lý. Tuy nhiên, mỗi phương pháp đã nêu được dựa trên các giả định khác nhau và cho ra các sôa liệu khác nhau về khấu hao. Việc lựa chọn phương pháp khấu hao là việc phải tìm ra được một phương pháp mà cho các thông tin thích đáng nhất cho công tác quản lý. Tuy nhiên không có phương pháp khấu hao nào được coi là phương pháp lý tưởng. Mỗi phương pháp trên có điểm mạnh và điểm yếu của nó, chúng ta phải lựa chọn một phương pháp khấu hao dựa trên các yếu tố thực tế và hoàn cảnh của từng trường hợp . Điều đó có nghĩa là việc lựa chọn một phương pháp khấu hao phụ thuộc vào mục tiêu mà ta cần đạt được. Hơn nữa ,một phương pháp khấu hao thích hợp cần phân bổ giá của một tài sản một cách hợp lý trong thời hạn sử dụng nó sao cho trong mỗi thời hạn ta có thể đạt được mức độ tương xứng cao nhất giúp chi phí khấu hao và lợi nhuận thu được . Điều quan trọng là nó chỉ đưa sang những năm sau phần của tài sản mà thể hiện phần giá trị chưa sử dụng của thời hạn sử dụng còn lại. Nếu phương pháp lựa chọn là không phù hợp , thì kết quả việc xác định lợi nhuận sẽ không đúng đắn và tài sản được thể hiện trong bảng kết toán vượt quá hoặc ở dưới mức thực tế. Trên thực tế , một công ty có thể sử dụng các phương pháp khấu hao khác nhau cho các loại tài sản khác nhau . Ví dụ, đối với tài sản có cường độ sử dụng đồng đều trong tất cả mọi năm tức là số thu nhập liên quan tới tài sản đó là số không đổi trong suốt thời hạn sử dụng tài sản, thì ta có thể sử dụng phương pháp đường thẳng. Trái lại, khi số doanh thu/lợi nhuận sinh ra không đều ,tức là mức độ sử dụng tài sản biến đổi, thì phương pháp đơn vị sản phẩm tỏ ra phù hợp hơn. Ngoài ra, còn có những loại tài sản mà theo thời gian các chi phí sửa chữa và bảo dưỡng tăng lên một cách đáng kể , thì để cân bằng chi phí vận hành trong thời hạn sử dụng tài sản (khấu hao cộng với sửa chữa và bảo dưỡng), phương pháp cân đối giảm dần sẽ được coi là phương pháp thích hợp . Theo thống kê năm 1985 ở một số nước 73% các doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng trong khi số các doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần chỉ có 12%, theo phương pháp khấu hao sản lượng là 8% và 7% các doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu hao theo tổng số năm sử dụng của tài sản . Tại Việt Nam chuẩn mực kế toán số 03 và 04 đưa ra ba phương pháp tính khấu hao áp dụng cho cả TSCĐ hữu hình và vô hình là : phương pháp khấu hao đường thẳng, phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần và khấu hao theo số lượng sản phẩm. Doanh nghiệp được xác định phương pháp khấu hao cho từng TSCĐ và áp dụng nhất quán nếu không có sự thay đổi trong phương thức sử dụng TSCĐ này. III. HẠCH TOÁN KHẤU HAO TSCĐ 1. Tài khoản sử dụng Kế toán khấu hao TSCĐ sử dụng hai tài khoản đó là: Tài khoản 214 – Hao mòn TSCĐ Tài khoản 214 được dùng để phản ánh trị giá hao mòn TSCĐ trong quá trình sử dụng do trích khấu hao TSCĐ , và những khoản tăng, giảm hao mòn khác của TSCĐ. Kết cấu tài khoản 214 Nợ TK214 - Hao mòn TSCĐ Có sdđk *** Giá trị hao mòn TSCĐ giảm do các Giá trị hao mòn TSCĐ tăng do trích lý do giảm TSCĐ (thanh lý, nhượng khấu hao, do đánh giá lại hoặc do điều bán, điều chuyển đi ...) chuyển TSCĐ đã có hao mòn giữa các đơn vị nội bộ của doanh nghiệp ... sdck *** Tài khoản 214 có số dư bên Có, phản ánh giá trị hao mòn của TSCĐ hiện có của đơn vị. Tài khoản 214 có ba tài khoản cấp hai : - Tài khoản 214.1 – Hao mòn TSCĐ hữu hình : phản ánh giá trị hao mòn của TSCĐ hữu hình trong quá trình sử dụng do tính khấu hao TSCĐ và những khoản tăng, giảm hao mòn khác của TSCĐ hữu hình. - Tài khoản 214.2 – Hao mòn TSCĐ đi thuê : phản ánh giá trị hao mòn của TSCĐ đi thuê tài chính do việc trích khấu hao TSCĐ trong khối doanh nghiệp thuê theo hợp đồng . - Tài khoản 214.3 – Hao mòn TSCĐ vô hình : Phản ánh giá trị hao mòn của TSCĐ vô hình trong quá trình sử dụng. Tài khoản 009 – Nguồn vốn khấu hao cơ bản Tài khoản này phản ánh tình hình hình thành, tăng, giảm và sử dụng nguồn vốn khấu hao cơ bản ở doanh nghiệp. Kết cấu và nội dung phản ánh của Tài khoản 009 : Nợ TK 009 – Nguồn vốn khấu hao cơ bản Có sdđk : *** Nguồn vốn khấu hao tăng do: Nguồn vốn khấu hao cơ bản giảm do: - Trích khấu hao cơ bản . -Đầu tư đổi mới TSCĐ - Thu hồi vốn khấu hao cơ bản do -Trả nợ vay đầu tư TSCĐ điều chỉnh cho đơn vị khác. -Điều chuyển vốn khấu hao cơ bản cho đơn vị khác sdck : Nguồn vốn khấu hao cơ bản hiện còn . Số khấu hao cơ bản đã trích được để lại cho doanh nghiệp , trong thời gian chưa có nhu cầu đầu tư, doanh nghiệp được sử dụng vào sản xuất, kinh doanh theo quy định của cơ chế quản lý tài chính. 2. Kế toán khấu hao TSCĐ Khấu hao TSCĐ phải được tính hàng tháng để phân bổ vào chi phí của các đối tượng sử dụng. Mức khấu hao hàng tháng được xác định theo công thức : Mức khấu hao của Mức khấu hao Mức khấu hao Mức khấu hao tháng này = của tháng trước + tăng thêm trong - giảm bớt trong tháng này tháng này Mức khấu hao tăng giảm được xác định theo nguyên tắc tròn tháng : TSCĐ tăng trong tháng này thì tháng sau mới bắt đầu tính khấu hao, còn TSCĐ giảm trong tháng này thì tháng sau mới bắt đầu thôi tính khấu hao. Mức tính khấu hao hàng tháng của một TSCĐ được xác định theo công thức: Nguyên giá Mức khấu hao tháng này = Số năm sử dụng x 12 Khấu hao TSCĐ trích trong tháng liên quan đến nhiều đối tượng sử dụng, do vậy để có căn cứ phản ánh vào từng đối tượng chịu chi phí khấu hao cần lập bảng phân bổ khấu hao TSCĐ. Tháng ... năm... Chỉ tiêu Toàn Phân bổ cho các đối tượng DN 627px 641 642 ... 1.Mức khấu hao tháng trước 2.Mức khấu hao tăng thêm tháng này 3.Mức khấu hao giảm bớt tháng này 4.Mức khấu hao phải trích trong tháng này Phương pháp hạch toán cụ thể: Định kỳ (tháng, quý ...), tính, trích khấu hao TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh, đồng thừi phản ánh hao mòn TSCĐ, ghi : Nợ TK 627 –Chi phí SX chung (6274). Nợ TK 641 – Chi phí bán hàng (6414). Nợ TK 642 – Chi phí quản lý doanh nghiệp (6424). Có TK 214 – Hao mòn TSCĐ (TK cấp 2 phù hợp). Đồng thời, phản ánh tăng vốn khấu hao cơ bản. Ghi đơn vào bên Nợ TK 009 – Nguồn vốn khấu hao. Trường hợp phải nộp vốn khấu hao cho đơn vị cấp trên hoặc điều chuyển cho đơn vị khác. + Trường hợp được hoàn trả lại: Khi nộp vốn khấu hao, ghi: Nợ TK 136 – Phải thu nội bộ (1368) Có TK 112 – Tiền gửi ngân hàng (112) Đồng thời ghi giảm nguồn vốn khấu hao. Ghi đơn vào bên có TK 009-Nguồn vốn khấu hao. + Trường hợp không được hoàn trả lại, ghi: Nợ TK 411 – Nguồn vốn kinh doanh Có TK 111,112 hoặc 338 (3388) Đồng thời ghi giảm nguồn vốn khấu hao cơ bản. Ghi đơn vào bên Có TK 009 –Nguồn vốn khấu hao. Trường hợp cho các đơn vị khác vay vốn khấu hao, ghi: Nợ TK 128-Đầu tư ngắn hạn khác, hoặc Nợ TK 228-Đầu tư dài hạn khác Có TK 111 hoặc 112 Đồng thời, ghi đơn vào bên có TK 009-Nguồn vốn khấu hao -Khi trích hao mòn TSCĐ dùng cho hoạt động văn hoá vào thời điểm cuối năm: Nợ TK 4313-Quỹ phúc lợi đã hình thành TSCĐ Có TK 214-Hao mòn TSCĐ -Khi tính hao mòn TSCĐ dùng vào hoạt động sự nghiệp, dự án , ghi: Nợ TK 466-Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ Có TK 214-Hao mòn TSCĐ TSCĐ đánh giá lại theo quyết định của Nhà Nước: -Trường hợp đánh giá tăng nguyên giá TSCĐ, ghi : Nợ TK 211- TSCĐ hữu hình Có TK 412-Chênh lệch đánh giá lại tài sản Có TK 214-Hao mòn TSCĐ -Nếu có điều chỉnh giá trị đã hao mòn: + Trường hợp điều chỉnh tăng giá trị hao mòn Nợ TK 412-Chênh lệch đánh giá lại TSCĐ Có TK 214-Hao mòn TSCĐ + Trường hợp điều chỉnh giảm giá trị hao mòn Nợ TK 214- Hao mòn TSCĐ Có TK 412- Chênh lệch đánh giá lại TSCĐ -Trường hợp điều chỉnh giảm nguyên giá TSCĐ, ghi: Nợ TK 412- Chênh lệch đánh giá lại TSCĐ Nợ TK 214- Hao mòn TSCĐ Có TK 211- TSCĐ hữu hình Nếu có điều chỉnh giá trị đã hao mòn: Trường hợp điều chỉnh tăng giá trị hao mòn,ghi: Nợ TK 412-Chênh lệch đánh giá lại tài sản Có TK 214- Hao mòn TSCĐ Trường hợp điều chỉnh giảm giá trị hao mòn, ghi bút toán ngược lại. Trường hợp giảm TSCĐ thì đồng thời với việc phản ánh giảm nguyên giá TSCĐ phải phản ánh giảm giá trị đã hao mòn của TSCĐ. Đối với TSCĐ đã trích đủ khấu hao cơ bản thì không tiếp tục trích khấu hao cơ bản nữa. Đối với tài sản đầu tư, mua sắm bằng nguồn kinh phí sự nghiệp, kinh phí dự án, bằng quỹ phúc lợi khi hoàn thành dùng vào hoạt động sự nghiệp, dự án hoặc dùng vào văn hoá, phúc lợi thì không trích khấu hao vào kinh phí sản xuất, kinh doanh mà chỉ trích hao mòn TSCĐ 1 năm 1 lần. 3. Sơ đồ hạch toán khấu hao tài sản cố định TK 211, TK 213 TK 214 TK 641,641,642 TK 821 TK 412 TK 412 PHẦN II MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIÊC TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KHẤU HAO TSCĐ Ở VIỆT NAM Trên cơ sở nghị định 59/1996/NĐ-CP và nghị định số 27/1999/NĐ-CP của chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà Nước. Thông tư số 1062/TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996 và thông tư số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ Tài Chính về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ. Qua quá trình nghiên cứu thực hiện em thấy cần có một số vấn đề cần được trao đổi để tiếp tục hoàn thiện. 1. Giá trị thu hồi ước tính của TSCĐ Giá trị thu hồi ước tính của TSCĐ là chỉ tiêu nói lên số tiền có thể thu được khi tiến hành thanh lý (hay bán) những tài sản đã hết khấu hao. Một trong những đặc điểm cơ bản của TSCĐ là dù tài sản có cũ, lạc hậu, hư hỏng ... tới mức nào thì vẫn còn là một lượng giá trị “cố định” có thể thu hồi được, kể cả trong trường hợp 100% hình thái vật chất của tài sản được thu hồi dưới dạng phế liệu. Công thức xác định mức khấu hao hiện nay là: Mức trích khấu hao Nguyên giá TSCĐ trung bình hàng năm = của TSCĐ Thời hạn sử dụng TSCĐ(số năm ước tính) Theo công thức xác định mức trích khấu hao trên đây không tính đến giá trị thu hồi, như vậy làm cho cách tính đơn giản hơn loại bỏ được một yếu tố ước tính trong công thức nêu trên, nhưng theo em việc không đưa ra giá trị thu hồi vào công thức xác định mức trích khấu hao là chưa phù hợp bởi vì: + Trên thực tế có rất nhiều tài sản khi thanh lý sẽ thu được (hoặc bán được) với số tiền lớn ,ví dụ như nhà cửa, ô tô ... nếu không tính đến giá trị thu hồi thì ta đã gián tiếp làm cho mức khấu hao được hạch toán vào chi phí sản xuất cao hơn thực tế. + Giá trị thu hồi là cái vốn có của TSCĐ việc sử dụng giá trị thu hồi sẽ làm cho TSCĐ không bao giờ dược phép khấu hao hết nguyên giá. Ví dụ một TSCĐ có nguyên giá là 105 triệu đồng, giá trị thu hồi ước tính 5 triệu, thời hạn sử dụng 10 năm , mức khấu hao 1 năm là 10 triệu((105-5)/10) sau năm thứ 10 nếu TSCĐ vẫn còn sử dụng tại doanh nghiệp thì doanh nghiệp không phải trích khấu hao nhưng giá trị còn trên sổ sách vẫn còn 5 triệu, điều đó không những hợp lý mà còn làm tăng trách nhiệm quản lý của doanh nghiệp đối với tài sản, đồng thời nếu có hiện tượng mất mát , làm hư hỏng ... TSCĐ do các yếu tố chủ quan của con người thì sẽ dễ dàng cho việc xác định mức trách nhiệm vật chất, bắt bồi thường đối với người phạm lỗi. + Việc sử dụng chỉ tiêu giá trị thu hồi còn có tác dụng trợ giúp đắc lực cho quản trị tài chính khi tiến hành công tác thanh lý TSCĐ, nó sẽ được hạch toán vào phần chi(ghi Nợ TK811)để so sánh với phần thu do thanh lý(ghi Có TK711) giúp ta xác định số lãi (lỗ)bất thường do thanh lý TSCĐ đem lại hợp lý hơn hiện nay. + Theo chế độ kế toán hiện hành của các nước tiên tiến, kể cả kế toán Mỹ, người ta vẫn đưa giá trị thu hồi vào công thức xác định mức khấu hao, ngay cả khi sử dụng các phương pháp khấu hao nhanh, hay khấu hao theo sản lượng thì giá trị thu hồi được coi là một chỉ tiêu giới hạn để khống chế tổng mức khấu hao luỹ kế của TSCĐ. Qua những nội dung trên thiết nghĩ chúng ta cũng nên nghiên cứu để đưa giá tẹi thu hồi vào công thức tính toán xác định và trích mức khấu hao TSCĐ. Tuy nhiên việc ước tính giá trị thu hồi như thế nào cho hợp lý lại là một bài toán cần có một lời giải đáp bằng cách nghiên cứu hướng dẫn của cơ quan chức năng Nhà Nước(tài chính, thuế...) và tổ chức thực hiện ở các doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu giá trị thu hồi được áp dụng thì công thức xác định mức khấu hao sẽ là: Mức trích khấu hao Nguyên giá TSCĐ - Giá trị thu hồi (ước tính) trung bình hàng năm = của TSCĐ Thời hạn sử dụng TSCĐ (số năm ước tính) 2. Quản lý TSCĐ đã khấu hao hết nguyên giá Số lượng cũng như tỷ trọng TSCĐ đã khấu hao hết nguyên giá mà vẫn sử dụng được trong các doanh nghiệp càng cao, điều đó chứng tỏ rằng phương pháp khấu hao được áp dụng và việc tổ chức công tác kế toán để xác định mức khấu hao là chưa phù hợp. Nhiệm vụ của các nhà quản trị là làm sao cho thời hạn sử dụng TSCĐ ước tính để trích khấu hao càng sát với thời gian sử dụng thực càng tốt. Trên thực tế hiện nay có những doanh nghiệp số TSCĐ đã khấu hao hết nguyên giá vẫn còn sử dụng chiếm tơí 55-60% trong tổng số TSCĐ(tính theo nguyên giá ) và xu hướng là tỷ trọng này ngày càng lớn. Và chính trong những doanh nghiệp có tỷ trọng TSCĐ đã hết khấu hao vẫn tham gia vào sản xuất lớn mà không phải trích khấu hao, và đương nhiên chỉ tiêu mức khấu hao hàng năm sẽ nhỏ, điều không hợp lý này dẫn tới cơ cấu chi phí và giá thành sẽ thay đổi, lợi nhuận thay đổi ... gây khó khăn lớn cho việc phân tích hoạt động kinh tế bởi vì khi tính các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất có liên quan đến TSCĐ như: số vòng quay của TSCĐ, tỷ suất lợi nhuận tính trên tổng tài sản ... sẽ không được chính xác, số liệu phân tích kém ý nghĩa kinh tế. Để quản lý và khai thác có hiệu quả đối với những tài sản đã khấu hao hết nguyên giá mà vẫn còn đang sử dụng, các doanh nghiệp cần thực hiện các nội dung sau đây: +Tổ chức kiểm kê đánh giá lại thực trạng của những tài sản đã khấu hao hết, nếu tài sản nào còn dùng tốt thì tăng cường chế độ quản lý hiện vật tăng công suất sử dụng và sứm có kế hoạch thay thế. +Mạnh giạn thanh lý, nhượng bán những tài sản đã lạc hậu hoặc sử dụng kém hiệu quả. Vì việc kéo dài mãi việc sử dụng những tài sản này sẽ tốn kém nhiều chi phí sửa chữa, có nguy cơ mất an toàn lao động, sản phẩm do chúng tạo ra kém chất lượng và có thể doanh nghiệp bị tụt hậu, kém khả năng cạnh tranh do mất cơ hội để đầu tư trang thiết bị , những TSCĐ mới có công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến. + Đưa nội dung phản ánh thực trạng về mặt kỹ thuật, công nghệ, tính năng, tác dụng của những tài sản cố định đã khấu hao hết nguyên giá hiện có tại doanh nghiệp vào trong báo cáo thuyết minh tài chính hàng năm. Tổ chức các hội nghị phân tích đánh giá hiệu quả của việc tiếp tục sử dụng hay không sử dụng những tài sản này để có quyết định kịp thời. KẾT LUẬN Sau khi trình bày về vấn đề khấu hao và kế toán khấu hao theo chế độ hiện hành ở các doanh nghiệp Việt Nam, em muốn khẳng định một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp là có một sách lược khấu hao hợp lý. Tính hợp lý đó được thể hiện qua việc tổ chức hạch toán kế toán khấu hao TSCĐ và lựa chọn phương pháp trích khấu hao phù hợp với điều kiện riêng của doanh nghiệp, đồng thời phải tuân theo quy định của Nhà Nước. Do có những hạn chế về hiểu biết đối với kế toán Việt Nam, đồng thời không có điều kiện tìm hiểu thực tế nên đề án của em chỉ đi sâu vào trình bày và phân tích lý luận chung về khấu hao TSCĐ. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng đề án của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong với sự nỗ lực của mình cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo, kiến thức của em về vấn đề kế toán khấu hao sẽ được củng cố và nâng cao, phục vụ cho công việc trong tương lai. Em xin chân thành cảm ơn! PHỤ LỤC I Khung thời gian sử dụng các loại tài sản cố định (Ban hành kèm theo Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30 tháng 12 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính) Danh mục các nhóm tài sản cố định Thời gian sử dụng tối thiểu (năm) Thời gian sử dụng tối đa (năm) A- Máy móc, thiết bị động lực 1. Máy phát động lực 8 10 2. Máy phát điện 7 13 3. Máy biến áp và thiết bị nguồn điện 7 12 4. Máy móc, thiết bị động lực khác 6 15 B. Máy móc, thiết bị công tác 1. Máy công cụ 7 10 2. Máy khai khoáng xây dựng 5 8 3. Máy kéo 6 8 4. Máy dùng cho nông, lâm nghiệp 6 8 5. Máy bơm nước và xăng dầu 6 8 6. Thiết bị luyện kim, gia công bề mặt chống gỉ và ăn mòn kim loại 7 10 7. Thiết bị chuyên dùng sản xuất các loại hoá chất 6 10 8. Máy móc, thiết bị chuyên dùng sản xuất vật liệu xây dựng, đồ sành sứ, thuỷ tinh 6 8 9. Thiết bị chuyên dùng sản xuất các linh kiện và điện tử, quang học, cơ khí chính xác 5 12 10. Máy móc, thiết bị dùng trong các ngành sản xuất da, in văn phòng phẩm và văn hoá phẩm 7 10 11. Máy móc, thiết bị dùng trong ngành dệt 10 15 12. Máy móc, thiết bị dùng trong ngành may mặc 5 10 13. Máy móc, thiết bị dùng trong ngành giấy 5 15 14. Máy móc, thiết bị sản xuất, chế biến lương thực, thực phẩm 7 12 15. Máy móc thông tin, liên lạc, điện ảnh, y tế 6 12 16. Máy móc, thiết bị loại điện tử, tin học 3 15 17. Máy móc, thiết bị công tác khác 5 12 C- Dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm 1. Thiết bị đo lường, thử nghiệm các đại lượng cơ học, âm học và nhiệt học 5 10 2. Thiết bị quang học và quang phổ 6 10 3. Thiết bị điện và điện tử 5 8 4. Thiết bị đo và phân tích lý hoá 6 10 5. Thiết bị và dụng cụ đo phóng xạ 6 10 6. Thiết bị chuyên ngành đặc biệt 5 8 7. Các thiết bị đo lường, thí nghiệm khác 6 10 8. Khuôn mẫu dùng trong công nghiệp đúc 2 5 D- Thiết bị và phương tiện vận tải 1. Phương tiện vận tải đường bộ 6 10 2. Phương tiện vận tải đường sắt 7 15 3. Phương tiện vận tải đường thuỷ 7 15 4. Phương tiện vận tải đường không 8 20 5. Thiết bị vận chuyển đường ống 10 30 6. Phương tiện bốc dỡ, nâng hàng 6 10 7. Thiết bị và phương tiện vận tải khác 6 10 E- Dụng cụ quản lý 1. Thiết bị tính toán, đo lường 5 8 2. Máy móc, thiết bị điện tử và phần mềm tin học phục vụ quản lý 3 8 TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU Giáo trình Kế Toán Tài Chính _Trường ĐH KTQD HN Giáo trình Kế Toán Quản Trị _Trường ĐH KTQD HN Giáo trình Kế Toán Quốc Tế _Trường ĐH KTQD HN Hướng Dẫn Thực Hành Chế Độ Kế Toán Mới _NXB Thống Kê Nguyên lý kế toán Mỹ _NXB Thống Kê Kế Toán Quản Lý _Hùng Mạnh Kế Toán Doanh Nghiệp Theo Chuẩn Mực Kế Toán VN_Nghiêm Văn Lợi 8 Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định (Ban hành kèm theo Quyết định số 166 /1999/QĐ-BTC ngày 30 tháng 12 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1077.doc
Tài liệu liên quan