Chuyên đề Bàn về nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1999 – 2001

Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời và phát triển là đòi hỏi tất yếu, khách quan của nền kinh tế thị trường do những vai trò và tác dụng của nó. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển thì nghiệp vụ này cũng càng phát triển. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang tăng trưởng khá nhanh làm cho số lượng xe cơ giới tham gia vào hoạt động giao thông vận tải ngày càng nhiều trong khi tỉ lệ xe cơ giới tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba vẫn còn ở mức thấp điều này nói lên thị trường tiềm năng đối với loại hình bảo hiểm này là rất lớn từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh tốt cho các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ này. Mặt khác, hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ này nên tình trạng cạnh tranh rất gay gắt. Vì vậy, doanh nghiệp nào năng động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu và mong muốn của khách hàng so với các doanh nghiệp khác thì chắc chắn sẽ chiến thắng trong cạnh tranh từ đó tạo ra sự phát triển vững mạnh cho doanh nghiệp. Trong bài viết này em đã phân tích điểm mạnh, điểm yếu, kết quả, hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ. Em hy vọng những kiến nghị của em sẽ phần nào giúp công ty nâng cao được hiệu quả của nghiệp vụ này. Do trình độ có hạn và thời gian nghiên cứu ngắn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót. Do vậy rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.

doc67 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bàn về nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1999 – 2001, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tác đề phòng hạn chế tổn thất, tuy nhiên kết quả đạt được lại chưa được như mong muốn. Bảng 8: Kết quả của công tác đề phòng hạn chế tổn thất   Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 Tổng chi cho công tác ĐPHCTT -Xe máy -Ô tô Tr.đ Tr.đ Tr.đ 1612 222 1390 1847 273 1574 2284 443 1841 Tổng chi bồi thường -Xe máy -Ô tô Tr.đ Tr.đ Tr.đ 17409 856 16553 23896 1098 22798 28659 2172 26487 Tốc độ tăng chi ĐPHCTT -Xe máy -Ô tô % % % 14,56 22,67 13,27 23,69 62,31 16,99 Tỉ lệ giữa chi ĐPHCTT và STBT -Xe máy -Ô tô % % % 9.26 25,97 8,39 7,73 24,84 6,90 7,97 20,38 6,95 (Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh) Ta thấy, số tiền chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất tăng lên cả về số tuyệt đối và số tương đối. Năm 1999 tổng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất là 1612 triệu đồng. Trong đó, chi cho xe máy là 222 triệu đồng, chi cho ô tô là 1390 triệu đồng. Năm 2000 tổng số chi là 1874 triệu đồng, tăng 14,56% so với năm 1999. Trong đó, chi cho xe máy là 273 triệu đồng, tăng 22,67% so với năm 2000, tổng chi cho ô tô là 1574 triệu đồng, tăng 13,27% so với năm 2000. Đến năm 2001 tổng chi đề phòng hạn chế tổn thất đã lên đến 2284 triệu đồng, tăng 23,69% so với năm trước. Trong đó chi cho xe máy là 443 triệu đồng, tăng 62,31% so với năm trước, chi cho ô tô là 1841 triệu đồng, tăng 16,99% so với năm trước. Chi đề phòng hạn chế tổn thất của Bảo Minh là khá cao và tăng nhanh qua các năm, tuy nhiên để xem chí phí này có hiệu quả không ta phải xét tỉ lệ giữa nó với số tiền bồi thường. Tỉ lệ giữa chi đề phòng hạn chế tổn thất với chi bồi thường từ năm 1999 đến năm 2001 tương ứng là 9,26%, 7,73%, 7,97%. theo số liệu này thì hiệu quả của chi đề phòng hạn chế tổn thất cao nhất là vào năm 1999, giảm mạnh vào năm 2000, đến năm 2001 lại tăng lên một chút. Cụ thể: Đối với xe máy, tỉ lệ này năm 1999 đạt được là 25,97%, năm 2000 giảm xuống còn 24.84%, đến năm 2001 giảm mạnh xuống chỉ còn 20,38%. Đối với ô tô, năm 1999 đạt 8,39%, năm 2000 giảm xuống còn 6.90, đến năm 2001 tăng lên chút ít và đạt 6,95%. Từ kết quả trên ta thấy mặc dù công ty rất cố gắng để nâng cao hiệu quả của công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhưng hiệu quả chưa được cao, đặc biệt ô tô tổn thất xảy ra lớn, xe máy thì có xu hướng tổn thất ngày càng lớn. Mặc dù tổn thất xảy ra không phải do công tác đề phòng hạn chế tổn thất quyết định tất cả mà nó còn phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân như: những hạn chế của khâu khai thác, sự tích luỹ rủi ro làm cho xác suất xảy ra rủi ro giữa các năm khác nhau có sự khác nhau rất lớn, các chính sách kinh tế vĩ mô mà công ty không kiểm soát được. Tuy vậy có rất nhiều rủi ro mà công tác đề phòng hạn chế tổn thất có thể gíup công ty tránh được nhưng vẫn xảy ra, từ đó góp phần to lớn làm tăng thiệt hại đối với công ty. Điều đó nói lên những hạn chế của công tác đề phòng hạn chế tổn thất. 3. Công tác giám định, bồi thường. 3.1/ Công tác giám định. Giám định tổn thất là một khâu trung gian, có tác dụng giúp cho việc tính toán bồi thường được chính xác đúng người, đúng việc. Công tác giám định hoàn thành tốt sẽ đảm bảo lợi ích cho người tham gia bảo hiểm, và đảm bảo lợi ích cho công ty bảo hiểm. Những thiệt hại về người và tài sản đối với người thứ ba, mức độ lỗi của các bên, việc giám định tổn thất rất phức tạp đòi hỏi phải chính xác. Khi tai nạn xẩy ra giám định là một khâu rất quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm vì kết quả của công tác này là cơ sở để công ty bảo hiểm phân định trách nhiệm bảo hiểm và xác định số tiền bồi thường. Vì thế, khi có thông báo tai nạn xẩy ra, các giám định viên của công ty phải kịp thời tới ngay hiện trường để thu thập các chứng cứ có liên quan đến vụ tai nạn và phối hợp với cảnh sát giao thông để xác định nguyên nhân tai nạn. Đồng thời cán bộ giám định đánh giá thiệt hại và mức độ lỗi của các bên những kết luận cuả cán bộ giám định là cơ sở để thực hiện việc bồi thường. Trong trường hợp vụ tai nạn được giải quyết bằng hoà giải giữa các bên thì cảnh sát giao thông và cảnh sát điền tra nơi thụ lý vụ án thông báo cho cơ quan bảo hiểm thông nhất về cách thức và thực hiện việc hoà giải được tốt. Và cảnh sát giao thông hoặc cảnh sát điều tra cung cấp bản sao hồ sơ tai nạn cho công ty bảo hiểm. Nhìn chung khi cán bộ giám định hoàn tất hồ sơ thì công tác bồi thường mới bắt đầu triển khai. Để bồi thường được sát với thực tế, giảm được những thất thoát trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm , đồng thời nâng cao chất lượng của sản phẩm và uy tín của công ty. Các công ty bảo hiểm phải làm tốt công tác giám định. Vì vậy công tác giám định có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Nhận rõ được vai trò quan trọng đó Bảo Minh đã chú trọng nâng cao chất lượng của công tác giám định. Để nâng cao chất lượng công tác giám định trước tiên công ty chú trọng đến việc nâng cao chất lượng của nhân tố con người, tức là nâng cao trình độ của giám định viên. Bằng cách tự đào tạo đồng thời cử cán bộ các khoá học đào tạo dành cho giám định viên trong và ngoài nước.Để không ngừng nâng cao chất lượng giám định cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ giám định viên, tạo điều kiện cho họ hoàn tất nhiệm vụ của mình công ty còn trang bị cho giám định viên: máy ảnh, phương tiện đi lại, phương tiện liên lạc...Trong công tác giám định, yêu cầu đối với các cán bộ giám định rất khắt khe: Ngoài việc, các cán bộ giám định phải có trình độ chuyên môn về bảo hiểm, thì các cán bộ phải có những hiểu biết về pháp luật, để xác định thiệt hại về người và tài sản được chính xác thì họ phải tập huấn qua những lớp y học về con người..., và hơn hết phải trung thực, có phẩm chất đạo đức...Chỉ khi hội tụ đủ các yếu tố trên thì công tác giám định mới đạt được kết quả tốt, đảm bảo lợi ích cho công ty và cho cả người tham gia bảo hiểm. Vì vậy cán bộ giám định cần được đào tạo cẩn thận là chính sách đúng đắn của công ty. Về mặt tổ chức công tác giám định. Công tác giám định được công ty sắp xếp theo một qui trình khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế của công ty. Cụ thể là: Ngay sau khi tiếp nhận khai báo tai nạn, đơn vị mở hồ sơ giải quyết tai nạn phải cử giám định viên xuống ngay hiện trường để tham gia xử lý tai nạn. Giám định viên phải có trách nhiệm.: -Xin ý kiến lãnh đạo đơn vị hoặc phòng công ty để chỉ thị cho chủ xe hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan để ngăn ngừa, đề phòng hạn chế tổn thất. -Yêu cầu chủ xe, lái xe và các cơ quan chức năng đưa nạn nhân đi cấp cứu. -Tiến hành ghi nhận tình huống tai nạn, giám định sơ bộ tổn thất, mức độ thiệt hại về người và tài sản, chụp ảnh hiện trường và các tổn thất, ghi lại địa chỉ bệnh viện, trung tâm y tế nơi các nạn nhân được đưa đến cấp cứu. -Phối hợp với các bên liên quan trong công tác bảo vệ hiện trường, xác định tai nạn( tìm nhân chứng, tung tích nạn nhân, người có lỗi...) -Cần phải kiểm tra số sườn, số máy để đảm bảo rằng xe bị tai nạn là xe tham gia bảo hiểm. -Giám định viên có trách nhiệm liên hệ ngay với cảnh sát giao thông hoặc cơ quan công an giải quyết vụ việc để tìm hiểu về tình hình tai nạn, mức độ lỗi dự kiến cũng như thông báo hướng dẫn cho khách hàng trong việc giải quyết tai nạn, thu thập hồ sơ chứng từ để đủ cơ sở pháp lý đòi bồi thường. Trong trường hợp được cơ quan chức năng thụ lý kéo dài mà phải sớm biết nguyên nhân tai nạn để có hướng xử lý, có thể đề nghị cơ quan Công an cho ý kiến. -Trong trường hợp cơ qua công an thụ lý tai nạn có yêu cầu thương lượng ngay, giám định viên phải bảo cáo trung thực với lãnh đạo các cấp( theo phân cấp) để chỉ đạo trong việc thương lượng về mức độ lỗi hoặc mức độ bồi thường. Với những chính sách những quy định về giám định tổn thất của Bảo Minh công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể: -Hiện nay công ty đã có nhiều giám định viên giỏi, có tư cách đạo đức, nhiệt tình với công việc, có lòng tin với khách hàng, giúp công ty tăng thêm uy tín và khả năng cạnh tranh. -Cùng với những giám định viên có chất lượng, tính chuyên nghiệp trong giám định của công ty cũng khá cao. Phần lớn các vụ tổn thất của công ty do nhân viên giám định của công ty giám định. Không những chỉ giám định cho mình mà công ty còn tiến hành giám định cho các công ty khác và được hầu hết đánh giá là tốt. Mặc dù công tác giám định của công ty hiện nay được làm khá tốt nhưng vẫn có những hạn chế cần khắc phục, đó là: Vẫn có những giám định viên trình độ thấp không đủ điều kiện đảm nhận công việc, giám định qua loa, không cẩn thận. Ngoài ra còn có những người thông đồng với khách hàng để trục lợi bảo hiểm ... 3.2. Công tác bồi thường. Bồi thường là khâu cuối cùng hoàn thiện sản phẩm bảo hiểm, luôn đi liền với khâu giám định. Nhằm thực hiện tốt phương châm kinh doanh của công ty là “Tăng trưởng và hiệu quả”, chất lượng phục vụ đặt lên hàng đầu. Mà như chúng ta biết bảo hiểm là một ngành dịch vụ và chất lượng của nó thường chỉ được biết đến ở giai đoạn cuối cùng sau khi có tai nạn xẩy ra. Do đó công tác bồi thường của các loại hình bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng thể hiện chất lượng của sản phẩm bảo hiểm.Và chất lượng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới sẽ được quyết định sự thành công của hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của công ty. Nếu như chất lượng của công tác khai thác bảo hiểm thể hiện chủ yếu ở số đơn bảo hiểm mới mà công ty khai thác được thì chất lượng của công tác bồi thường lại thể hiện ở số lượng đơn bảo hiểm tái tục vào những năm tới. Mà việc duy trì khách hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng đều có ý nghĩa quan trọng đối vơí hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của công ty. Để làm tốt công tác bồi thường Bảo Minh đã đề ra quy trình bồi thường cho riêng mình, trên cơ sở kế thừa của các công ty khác, Bảo Minh luôn quan tâm đến quyền lợi của khách hàng, nhiệt tình giúp đỡ hướng dẫn khách hàng để công việc bồi thường được diễn ra nhanh chóng chính xác, ngay cả khi tai nạn xảy ra mà đơn bảo hiểm đã hết hạn trong thời hạn cho phép Bảo Minh vẫn bồi thường nhân đạo cho khách hàng, trong quá trình bồi thường Bảo Minh luôn kết hợp với các bên liên quan để tính toán bồi thường được chính xác thoả đáng... Tuy Bảo Minh đã có nhiều cố gắng để làm tốt công tác bồi thường, tuy nhiên công tác này có được làm tốt hay không phải căn cứ vào kết quả cụ thể. Bảng 9: Tình hình bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.   Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 1. Số vụ tai nạn -Xe máy -Ô tô Vụ Vụ Vụ 15642 12264 3378 19446 15062 4384 31948 27218 4730 2.Số vụ tai nạn được quyết trong năm -Xe máy -Ô tô Vụ Vụ Vụ 15037 11896 3142 18320 14309 4012 29570 25313 4257 3.Tổng số tiền bồi thường -Xe máy -Ô tô Tr.đ Tr.đ Tr.đ 17409 856 16553 23896 1098 22798 28659 2172 26487 4.Số tiền bồi thường bình quân mỗi vụ -Xe máy -Ô tô Tr.đ Tr.đ Tr.đ 1,1130 0,0698 4,9000 1,2288 0,0729 5,2000 0,8971 0,0798 5,6000 5.Tỷ lệ chi bồi thường trên phí thu -Xe máy -Ô tô % % % 48,60 17,33 53,60 58,23 18,12 65,18 56,46 22,08 64,73 6.Tỷ lệ số vụ tai nạn giải quyết trong năm -Xe máy -Ô tô % % % 96,14 97,00 93,00 94,21 95,00 91,50 92,56 93,00 90,00 (Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh) Từ bảng trên ta thấy, tổng số vụ tai nạn là rất lớn và không ngừng gia tăng qua các năm. Năm 1999 tổng số vụ tai nạn là 15642 vụ. Trong đó tai nạn ô tô là 3378 vụ, xe máy là 12264 vụ. Năm 2000 tổng số vụ tai nạn là 19446, tăng 24,32% so với năm trước. Trong đó tai nạn ô tô 4384 vụ,tăng29,78%; tai nạn xe máy 15062 vụ, tăng 22,82% so với năm trước. Năm 2001, tổng số là 31948 vụ, tăng 64,29% so với năm trước. Trong đó ô tô 4730 vụ, tăng 7,88% so với năm trước; xe máy 27281 vụ, tăng 80,71% so với năm trước. Cùng với số vụ tai nạn gia tăng thì số vụ tai nạn được giải quyết trong năm cũng tăng. Năm 1999, tổng số vụ tai nạn được giải quyết là 15037 vụ. Trong đó, ô tô 3142vụ, xe máy 11896. Năm 2000, tổng số là 18320 vụ, tăng 21,83% so với năm trước. Trong đó, ô tô 4012 vụ, tăng 27,69%; xe máy 14309 vụ, tăng 20,28%. Năm 2001, tổng số 29570 vụ, tăng 61,4% so với năm trước. Trong đó, ô tô 4257 vụ, tăng 6,11%; xe máy 25313 vụ, tăng 76,91%. Tuy số vụ tai nạn được giải quyết trong năm tăng lên qua các năm, nhưng số hồ sơ tồn đọng không giảm mà lại tăng lên. Bởi vì tốc độ tăng của số vụ tai nạn được giải quyết trong năm không theo kịp tốc độ tăng của số vụ tai nạn xảy ra trong năm. Điều này được thể hiện ở tỉ lệ giữa số vụ tai nạn được giải quyết trong năm và số vụ tai nạn xảy ra trong năm liên tục giảm qua các năm. Cụ thể tỉ lệ này tương ứng từ năm 1999 đến năm 2001 như sau: -Chung cho cả hai loại xe: 96,14%, 94,21%, 92,56%. -Ô tô: 93%, 91,5%, 90%. -Xe máy: 97%, 95%, 93%. Tổng tiền bồi thường cũng rất lớn và luôn gia tăng qua các năm. Năm 1999, tổng số tiền bồi thường là 17409. Trong đó của ô tô 16553 (triệu đồng), của xe máy 856 (triệu đồng). Năm 2000, tổng số tiền bồi thường là 23896 (triệu đồng), tăng 37,26% so với năm trước. Trong đó, của ô tô 22798 (triệu đồng), tăng 37,73%; của xe máy 1098 (triệu đồng), tăng 28,27%. Năm 2001, tổng bồi thường là 28659 (triệu đồng), tăng 19,93% so với năm trước. Trong đó, của ô tô 26487 (triệu đồng), tăng 16,18%; của xe máy 2172 (triệu đồng), tăng lên đến 97,81%. Sự biến động của số tiền bồi thường kết hợp sự biến động của doanh thu phí bảo hiểm gốc làm cho tỉ lệ giữa bồi thường và doanh thu phí bảo hiểm gốc phí cũng biến động theo. Cụ thể, tỉ lệ này tương ứng từ năm 1999 đến năm 2001 như sau: -Chung cho cả hai loại xe: 48,6%, 58,23%, 56,46%. -Ô tô:53,6%, 65,18%, 64,73%. -Xe máy: 17,33%, 18,2%, 20,08%. Ta thấy những tỉ lệ này hiện nay đang ở mức cao, đặc biệt tỉ lệ này của xe máy có xu hướng tăng lên qua các năm. Những vấn đề này cần được khắc phục ngay nếu không sẽ ảnh hưởng sấu đến hiệu quả của nghiệp vụ. Số tiền bồi thường bình quân mỗi vụ tai nạn tính chung cho cả ô tô và xe máy thì tăng lên vào năm 2000 ( tăng 10,4% so với năm trước), giảm xuống vào năm 2001(giảm 27%). Sở dĩ năm 2001 số tiền bồi thường bình quân giảm 27% so với năm 2000 không phải do số tiền bồi thường bình quân của ô tô hay xe máy giảm xuống mà do năm 2001 có rất nhiều vụ tai nạn xe máy, trong khi số vụ tai nạn ô tô tăng không nhiều. Trái lại số tiền bồi thường bình quân của ô tô và xe máy tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối. Đối với xe máy, năm 2000, số tiền bồi thường bình quân là 0,0729 (triệu đồng/ vụ), tăng 4,44% so với năm trước, năm 2001 là 0,0798 triệu đồng / vụ, tăng 9,47% so với năm trước. Đối với ô tô, năm 2000, số tiền bồi thường bình quân là 5,2 (triệu đồng / vụ), tăng 6,12% so với năm trước, năm 2001 là 5,6 (triệu đồng/vụ), tăng 7,69% so với năm trước. Tóm lại công tác bồi thường của Bảo Minh còn rất nhiều hạn chế. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này là do: Những hạn chế của khâu khai thác, như: Tình trạng chạy theo doanh thu phí, không thẩm định rủi ro cẩn thận...; hạn chế ở khâu đề phòng hạn chế tổn thất, khâu giám định... Nguyên nhân rất quan trọng là hạn chế ở chính khâu bồi thường, như: Không thực hiện đúng quy trình bồi thường, cán bộ làm công tác bồi thường có hành động tiêu cực, trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, khách hàng không hiểu biết hoặc cố tình trục lợi bảo hiểm...Để làm tốt công tác bồi thường công ty cần phải khắc phục được những hạn chế đó. 4. Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của Bảo Minh. 4.1. Kết quả kinh doanh. Cũng như kết quả kinh doanh của toàn công ty, kết qủa kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cũng được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là doanh thu và lợi nhuận.Trong đó lợi nhuận là thước đo hữu hiệu nhất của kết quả kinh doanh,nó cho biết tình hình kinh doanh đạt được ở mức độ nào, cho phép đánh giá được tốc độ tăng trưởng kinh doanh. ở các phần trên, để đánh giá các công tác của nghiệp vụ ta dùng doanh thu phí bảo hiểm gốc, còn đánh giá kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ thì ta cần dùng tổng doanh của nghiệp vụ. Tổng doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba gồm: -Thu phí bảo hiểm gốc. -Thu phí nhận tái bảo hiểm. -Thu nhượng tái bảo hiểm. -Thu hoạt động tài chính. -Thu hoạt động khác như: Thu giám định, đại lý... Trong các khoản thu này thì thu phí nhận tái bảo hiểm và thu nhượng tái bảo hiểm chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng doanh thu, vì ở nghiệp vụ này Bảo Minh nhận tái và nhượng tái rất ít. Do đó, để cho gọn ta gộp thu phí nhận tái bảo hiểm, thu nhượng tái bảo hiểm, thu hoạt động tài chính, thu hoạt động khác thành thu hoạt động tài chính và hoạt động khác; Thu phí bảo hiểm gốc và thu phí nhận tái bảo hiểm thành tổng phí bảo hiểm. Tổng chi bao gồm: -Chi bồi thường thuộc phần trách nhiệm giữ lại. -Chi quản lý. -Chi hoa hồng. -Chi đề phòng hạn chế tổn thất. -Chi thuế, gồm: Thuế VAT, thuế lợi tức,... -Chi khác: Chi bồi thường nhận tái bảo hiểm, hoàn phí, giảm phí, giám định, đại lý, chi hoạt động tài chính... Lợi nhuận của nghiệp vụ được xác đình bằng tổng doanh thu nghiệp vụ trừ đi tổng chi phí nghiệp vụ. Tức là: Lợi nhuận nghiệp vụ = Tổng doanh thu – Tổng chi phí . (Kết quả kinh doanh ) Từ đó ta lập được bảng sau: Bảng 10: Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.   Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 1. Tổng doanh thu -Tổng phí bảo hiểm -Thu HĐTC &HĐK Tr.đ Tr.đ Tr.đ 36120 35020 1100 41587 40037 1550 51844 49857 1987 2.Tổng chi -Bồi thường thực trả -Chi quản lý -Chi hoa hồng -Chi ĐP&HCTT -Thuế -Chi khác Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ Tr.đ 32164 17203 4298 1827 1612 3973 3251 40450 23684 4924 2093 1847 4159 3743 49217 28351 6091 2589 2284 5236 4666 3. Lợi nhuận Tr.đ 3956 1137 2627 (Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh) Từ kết quả nhận được trong bảng trên ta thấy lợi nhuận đạt cao nhất vào năm 1999, sau đó lại giảm mạnh vào năm 2000, rồi lại tiếp tục tăng lên mạnh mẽ vào năm 2001. Nhưng dù lợi nhuận có tăng giảm thế nào thì nó cũng đóng góp một phần rất lớn vào lợi nhuận của công ty. cụ thể: Năm 1999 với tổng chi của nghiệp vụ là 32164 triệu đồng, chiếm 89,05% doanh thu. Trong đó chi bồi thường thực trả là 17203 triệu đồng, chiếm 47,63% doanh thu, tổng các khoản chi còn lại là 14961 triệu đồng, chiếm 41,42% doanh thu. Lãi thu được trong năm này là 3956 triệu đồng. Đây là khoản lãi rất lớn, lớn nhất trong các năm ta đang xét và nó có vai trò rất quan trọng trong năm 1999. Vì nó là nguồn lãi đóng góp lớn nhất trong lợi nhuận của công ty, trong hoàn cảnh hầu như tất cả các nghiệp vụ khác nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới đều thua lỗ hoặc có lãi ít. Vì vậy thành tích đạt được trong năm 1999 không chỉ có sức mạnh quan trọng đối với nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba mà nó còn có vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của Bảo Minh. Năm 2000 tổng doanh thu của nghiệp vụ là 41587 (triệu đồng), tăng 15,14% so với năm trước. Tuy vậy, đây là năm mà tổng chi tăng nhanh, lên tới 40450 (triệu đồng), chiếm tới 97,27% doanh thu và tăng 25,76 % so với năm trước. Bồi thường thực trả tăng vọt, lên đến 23684 (triệu đồng), chiếm 56,95% doanh thu và tăng 37,67% so với năm trước. Tổng các khoản chi còn lại là 16766, chiếm 40,31% doanh thu (xấp xỉ tỉ trọng của các khoản chi khác năm trước so với doanh thu năm trước). Do vậy chính bồi thường thực trả là nhân tố quyết định sự tăng tỉ trọng tổng chi trong doanh thu và là nhân tố chi phí duy nhất quyết định đến sự biến động lợi nhuận của công ty. Từ sự biến động doanh thu và chi phí lợi nhuận đạt được của công ty chỉ còn 1137 (triệu đồng), giảm tới 71,25% so với năm trước. Năm 2001 tổng doanh thu đạt được là 51844 (triệu đồng), tăng 24,66% so với năm trước. Cùng với sự tăng doanh thu, tổng chi cũng tăng lên đến 49217 (triệu đồng), chiếm 94,93% doanh thu và tăng 21,67% so với năm trước. Trong tổng chi thì chi bồi thường thực tế là 28351 (triệu đồng), chiếm 54,69% doanh thu và tăng 19,71% so với năm trước. Tổng các khoản chi còn lại là 20886 (triệu đồng), chiếm 40,25% doanh thu ( cũng xấp xỉ các năm trước). Do vậy năm nay sự biến động trong bồi thường thực tế cũng quyết định sự biến động của tỉ trọng tổng chi trong tổng doanh thu và cũng là nhân tố chi phí duy nhất quyết định đến sự biến động của lợi nhuận. Ta thấy tốc độ tăng chi phí năm 2001 cũng nhanh nhưng tốc độ tăng doanh thu cũng nhanh và doanh thu đã bù đắp được chi phí và tăng lợi nhuận, cuối cùng dẫn đến lợi nhuận của công ty đạt 2627 (triệu đồng), tăng 130,97% so với năm trước. Kết quả này đã phần lớn bù đắp được sự suy giảm của năm 2000 và tạo ra động lực lớn cả về vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên để họ cố gắng phấn đấu đạt được những thành tích to lớn hơn nữa trong năm tới. 4.2. Hiệu quả kinh doanh. Các chỉ tiêu về kết quả kinh doanh đã phần nào cho ta hiểu về thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty, tuy nhiên để đánh giá được rõ hơn về thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty ta cần có các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh. Bởi vì các chỉ tiêu về kết quả kinh doanh như doanh thu hay lợi nhuận chỉ nói lên được một phần nào đó của hoạt động kinh doanh, nó không hề đề cập đến một yếu tố không thể thiếu được trong kinh doanh đó: chi phí. Một khi tốc độ chi phí tăng nhanh thì xét trong dài hạn lợi nhuận trong kết quả kinh doanh sẽ không còn ý nghĩa và hoạt động kinh doanh sẽ không có hiệu quả. Bởi vậy hiệu quả kinh doanh là căn cứ để đánh giá sự vững mạnh và sự phát triển của mỗi công ty và nó cũng là thước đo để đánh giá hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Để đánh giá hiệu quả của nghiệp vụ ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả sau: -Lợi nhuận trên doanh thu (H1). Chỉ tiêu này cho biết trong mỗi đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận. -Doanh thu trên tổng chi (H2). CHỉ tiêu này cho biết mỗi đồng chi phí thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. -Lợi nhuận trên tổng chi (H3). chỉ tiêu này cho biết mỗi đồng chi phí tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Từ đó ta có bảng các chỉ tiêu hiệu quả như sau: Bảng 11:Hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh. Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 1. Doanh thu (DT) Tr.đ 36120 41587 51844 2. Tổng chi (TC) Tr.đ 32164 40450 49217 3. Lợi nhuận(LN) Tr.đ 3956 1137 2627 4. H1=LN/DT đ/đ 0.11 0.03 0.05 5. H2=DT/TC đ/đ 1.12 1.03 1.05 6. H3=LN/TC đ/đ 0.12 0.03 0.05 ( Nguồn: Tính toán từ các số liệu trên) Từ bảng trên ta thấy hiệu quả kinh doanh là không đồng đều nhau giữa các năm. Năm 1999 tỉ lệ lợi nhuận trên doanh thu là 0,11, tức là cứ 1 đồng doanh thu có 0,11 đồng lợi nhuận; tỉ lệ doanh thu trên chi phí là 1,12, tức là cứ một đồng chi phí bỏ ra sẽ thu được 1,12 đồng doanh thu; tỉ lệ giữa lợi nhuận trên chi phí là 0,12, tức là cứ một đồng chi phí bỏ ra sẽ thu được 0,12 đồng lợi nhuận. Năm 1999 thì mọi tỉ lệ đều giảm sút: Một đồng doanh thu chỉ có 0,03 đồng lợi nhuận, một đồng chi phí bỏ ra chỉ thu được 1,03 đồng doanh thu, 0,03 đồng lợi nhuận. Vì vậy đây là năm mà hiệu quả kinh doanh đã giảm sút rất nhiếu so với năm trước. Năm 2001 mọi chỉ tiêu hiệu quả đều tăng lên, cụ thể: Một đồng doanh thu đã có 0,05 đồng lợi nhuận, một đồng chi phí bỏ ra đã thu được 1,05 đồng doanh thu và 0,05 đồng lợi nhuận. Mặc dù hiệu quả đã tăng lên so với năm trươc tuy nhiên tăng không nhiều do chi phí tăng nhanh. vì vậy trong năm tới muốn nâng cao hiệu quả hơn nữa thì công ty chắc chắn sẽ phải giảm chi phí xuống mức thấp nhất có thể. Vậy công ty đã đạt được những thành tựu nhất định về hiệu quả kinh doanh, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế đó là do chi phí của công ty cao từ đó dẫn đến doanh thu cao cũng không thể bù đắp được. Chi phí cao là do chi phí khai thác cao, các công tác đề phòng hạn chế tổn thất, giám định, bồi thường thực hiện chưa được tốt. . . Tóm lại kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh đạt được trong những năm qua mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng có ý nghĩa to lớn giúp Bảo Minh ngày càng phát triển và trở thành công ty bảo hiểm có thị phần đứng thứ hai ở nước ta hiện nay( sau Bảo Việt). Để tiếp tục tồn tại và phát triển vững chắc công ty cần kế thừa những điểm mạnh, những tích cực hiện có, đồng thời nhanh chóng khắc phục những tồn tại, hạn chế. Chương III Một số giảI pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở công ty bảo hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh. I. Điều kiện của Bảo Minh đối với ngiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. 1. Thuận lợi. -Hiện nay luật kinh doanh bảo hiểm đã ra đời và ngày càng được hoàn thiện, từ đó tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho các công ty bảo hiểm hoạt động. Cụ thể, nó giúp các công ty có cơ sở vững chắc để giảI quyết các tranh chấp,thuận lợi trong việc ký kết hợp đồng bảo hiểm, thành lập công ty bảo hiểm ,…Đặc biệt luật kinh doanh bảo hiểm ra đời có tính cưỡng chế cao hơn các văn bản dưới luật như: Nghị định 115 CP , quyết định 299/BTC. Vì vậy tính bắt buộc của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được mọi người tôn trọng hơn và tích cực tham gia bảo hiểm hơn. Do đó, các công ty bảo hiểm nói chung và Bảo Minh nói riêng càng thuận lợi hơn trong việc khai thác tính bắt buộc của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. -Bảo Minh là chi nhánh lớn nhất của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo VIệt) được tách ra . Vì vậy nó đã thừa hưởng được kinh nghiệm trong việc điều hành, quản lý công ty của Bảo Việt. Đồng thời nó được kế thừa tiềm năng và sự năng động của thành phố Hồ Chí Minh- Thành phố có trình độ phát triển cao nhất ở nước ta. Những điều đó đã góp phần to lớn tạo ra sức mạnh cho Bảo Minh. -Một nhân tố nữa tạo sự thuận lợi cho Bảo Minh,đó là: Bảo Minh là công ty bảo hiểm thuộc sở hữu nhà nước và hoạt động trên thị trường tài chính- một thị trường rất nhạy cảm và có ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế. Vì vậy khi gặp khó khăn nó có thể được Nhà nước giúp đỡ vì sự tồn tại và phát triển của công ty nói riêng và nền kinh tế nói chung. -Mặc dù đội ngũ cán bộ của Bảo Minh còn nhiều hạn chế nhưng đang được giáo dục đào tạo và đã có những bước tiến đáng kể, đồng thời bộ máy tổ chức, quản lý của công ty không ngừng được cải tiến để phù hợp với điều kiện thực tế. 2. Khó khăn. -Hiện nay có rất nhiều công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cho nên tình trạng cạnh tranh trên thị trường diễn ra rất gay gắt và quyết liệt. Để thu hút khách hàng các công ty đều giảm phí , tăng hoa hồng, thậm chí nhân viên của các công ty còn nói xấu nhau, tranh cướp khách của nhau,…Điều này làm cho Bảo Minh gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị phần, tăng lợi nhuận. -Luật kinh doanh bảo hiểm đã ra đời nhưng tạo điều kiện quan trọng cho thị trường bảo hiểm phát triển. Tuy vậy vẫn còn nhiều hạn chế, do đó làm giảm tính cưỡng chế của loại hình bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. -Mặc dù bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc nhưng do nhận thức của người dân về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng còn rất hạn chế do đó rất nhiều người tìm mọi cách để trốn tránh việc mua bảo hiểm hoặc có mua thì cũng chỉ mua với mức trách nhiệm thấp nhất -Bảo Minh là công ty bảo hiểm nhà nước và được nhà nước giúp đỡ. Nhưng cũng chính vì tính chất này góp phần làm cho ở nhiều phòng ban của công ty còn tồn tại tình trạng cha chung không ai khóc, lợi ích vật chất không gắn được với trách nhiệm vật chất. Dẫn đến tình trạng sử dụng điện thoại, máy tính,…của công ty một cách tràn lan, đi làm muộn là chuyện thường xuyên, năng suất lao động rất thấp,… -Hiện nay thị trường tài chính ở nước ta đã hình thành nhưng mới phát triển ở trình độ rất thấp, do đó đã hạn chế khả năng đầu tư của các doanh nghiệp nói chung và Bảo Minh nói riêng từ đó làm cho lợi nhuận không cao vì không có được một danh mục đầu tư được đa dạng hóa ( chủ yếu vốn đầu tư của bảo minh là gửi ngân hàng). Điều này còn làm cho phí bảo hiểm cao vì vậy làm giảm số người tham gia bảo hiểm. Mặt khác thị trường tài chính chưa phát triển sẽ gây ra tình trạng thiếu thông tin do đó làm tăng sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức từ đó gây khó khăn trong việc ký kết hợp đồng bảo hiểm . II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở công ty bảo hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh. 1. Tăng cường tuyên truyền quảng cáo. Quảng cáo được hiểu là hình thức truyền tin không trực tiếp, phi cá nhân, được thực hiện thông qua các phương tiện truyền thông phải trả tiền và chủ thể quảng cáo phải chịu tất cả các chi phí quảng cáo. Quảng cáo là công cụ quan trọng nhất trong các công cụ truyền thông. Đặc biệt, đối với nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì quảng cáo lại càng trở lên quan trọng. Vì sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm rất trừu tượng, khó thấy được tác dụng và nhu cầu đối với loại sản phẩn này lại là nhu cầu không cấp thiết. Đối với bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì những đặc điểm này lại càng trở lên rõ ràng,đồng thời tình trạng cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm hiện nay rất gay gắt. Do đó cần phải thúc đẩy quảng cáo để làm tăng tính hữu hình của sản phẩm,làm cho mọi người hiểu biết về tính chất và tác dụng của loại sản phẩm, thấy được ưu thế của công ty so với đối thủ cạnh tranh trong việc đáp ứng nhu cầu về sản phẩm này, … từ đó mọi người sẽ tăng cường mua sản phẩm của công ty. Để xây dựng được một chương trình quảng cáo có hiệu quả cao cần thực hiện các bước sau: -Xác định mục tiêu của quảng cáo.Mục tiêu của quảng cáo thường gồm: Giúp mọi người hiểu biết về công ty, tạo bản sắc riêng cho sản phẩm của công ty, tạo được sự ưa thích của khách hàng đối với sản phẩm, từ đó gây uy tín cho công ty và thúc đẩy được việc bán sản phẩm, ngoài ra còn thu hút được thêm những người có năng lực đến làm việc cho công ty. Trong một chiến dịch quảng cáo thì mục tiêu thường được cụ thể hoá thành: Tăng doanh số bán, tăng số người biết về công ty, tăng thị phần... -Xác định ngân sách cho quảng cáo. Ngân sách cho quảng cáo được xác định theo 4 phương pháp: Xác định bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định của doanh số bán, dựa vào khả năng của công ty, phương pháp cân bằng cạnh tranh, dựa vào mục tiêu của công ty. Mỗi phương pháp đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, lựa chọn phương pháp nào là tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi công ty. -Lựa chọn phương tiện quảng cáo. Khi thực hiện quảng cáo người ta dùng nhiều phương tiện, trong đó có các phương tiện chủ yếu là: +Báo. phương tiện này có điểm mạnh: Có thể tiếp cận được nhiều khách hàng mục tiêu, mô tả được nhiều về sản phẩm, chi phí bình quân đầu người so với các phương tiện khác tương đối thấp. Tuy vậy báo cũng có nhiều nhược điểm, như: Chất lượng quảng cáo không cao, ít được lưu truyền từ người này sang người khác. +Tạp chí. Điểm mạnh: Có thể tiếp cận được các khách hàng mục tiêu, Chât lượng quảng cáo cao hơn so với báo, thường được lưu truyền từ người này sang người khác. Điểm yếu: Chi phí bình quân đầu người cao hơn báo. +Tryền hình. Điểm mạnh: Tiếp cận được nhiều khách hàng mục tiêu, chất lượng quảng cáo thườnh cao do có thể sử dụng được âm thanh, hình ảnh, nên khơi gợi được cảm xúc của người xem, chi phí bình quân đầu người rất thấp. Điểm yếu: Thời gian quảng cáo thường rất ngắn, tổng chi phí thường lớn. +Truyền thanh. Điểm mạnh: Tiếp cân được nhiều khách hàng mục tiêu, Chi phí bình quân đầu người và tổng chi phí thấp hơn truyền hình. Điểm yếu: Không tác động được vào thị giác, không chứa đựng nhiều thông tin. Cùng với việc lựa chọn phương tiện quảng cáo, cần phải lựa chọn: Phạm vi truyền tin( Tỉ lệ thị trường mục tiêu đặt ra cho chương trình quảng cáo ), tần suất quảng cáo ( số cơ hội khách hàng có thể xem được quảng cáo ), thời điểm thực hiện quảng cáo phù hợp. -Xác định nội dung truyền đạt. Nội dung truyền đạt thường nói lên: Điều mong ước hay sự thú vị về một sản phẩm hoặc sự khác biệt của sản phẩm so với các sản phẩm khác. Nội dung của quảng cáo thường được đánh giá trên tính hấp dẫn, tính độc đáo và tính tin cậy của thông điệp. Kết cấu của một thông điệp thường bao gồm các phần: Tiêu đề quảng cáo, yếu tố nghệ thuật, yếu tố mô phỏng, yếu tố kích thích hành động, cơ cấu phản hồi, yếu tố khắc sâu... 2. Tăng cường công tác quản lý. Quản lý là hoạt động liên tục, có tổ chức, có hướng đích, của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng pháp luật và thông lệ hiện hành. Đối với mọi tổ chức nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng, quản lý có vai trò rất quan trọng, điều đó được thể hiện thông qua các tác dụng của nó: -Quản lý tạo ra sự thống nhất ý chí trong tập thể, bao gồm các thành viên của tập thể, giữa những người quản lý với nhau và giữa những người bị quản lý với nhau và giữa những người bị quản lý với người quản lý.Chỉ khi tạo nên sự thống nhất trong đa dạng thì quản lý mới có kết quả và mới giảm được chi phí cũng như công sức cho hoạt động quản lý. -Định hướng sự phát triển của tập thể trên cơ sở xác định mục tiêu chung và hướng mọi lỗ lực của các cá nhân và của cả tập thể vào mục tiêu chung đó. -Tổ chức, điều hoà, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân trong tổ chức, giảm độ bất định nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định. -Tạo động lực cho các cá nhân trong tổ chức bằng các kích thích, đánh giá, khen thưởng những người có thành tích, đồng thời uốn nắn những lệch lạc, sai sót của các cá nhân nhằm giảm bớt những sai sót, thất thoát trong quá trình quản lý . Để thực hiện tốt công tác quản lý đối với nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì trong quá trình quản lý cần đảm bảo các nguyên tắc sau: -Nguyên tắc phân cấp: Nội dung của nguyên tắc: Phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu gữa tập trung và dân chủ trong quá trình quản lý. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải thực hiên trong khuôn khổ tập trung. Để thực hiên tập trung: Phải có đường lối chủ trương, kế hoạch phát triển nghiệp vụ đúng đắn, thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả các cấp quản lý, thống nhất các quy chế quản trị kinh doanh. Để thực hiện dân chủ: Xác định rõ vị trí, quyền hạn của các cấp, chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận mở cửa để phát triển. -Hoạt động kinh doanh phải xuất phát từ khách hàng. Kinh doanh theo cơ chế thị trường ngày nay, kết quả gần như tuỳ thuộc vào quyết định của người mua. Bởi vì trong cơ chế thị trường hàng hoá không còn khan hiếm, các doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt với nhau để bán được hàng. Vì vậy để tồn tại và phát triển thì mỗi doanh nghiệp, mỗi bộ phận cần tạo cho mình một số lượng khách hàng cần thiết. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì vai trò của khách hàng lại càng trở nên quan trọng do tình trạng cạnh tranh đang rất khốc liệt trên thị trường. Chính khách hàng là căn cứ để hình thành chiến lược Marketing của mỗi doanh nghiệp và chi phối các nội dung quản trị doanh nghiệp. -Hiệu quả và tiết kiệm. Nguyên tắc này đòi hỏi nhà quản lý phải hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra. Kinh doanh là mạo hiểm , có rất nhiều rủi ro ở phía trước. Đôi khi có những thiệt hại có thể dẫn đến phá sản. Vì vậy để giảm thiểu rủi ro cần phải quan tâm đến tất cả các khâu của nghiệp vụ đồng thời phải thực hiện tốt công tác tái bảo hiểm . -Chuyên môn hoá. Nguyên tắc này đòi hỏi nghiệp vụ phải được những người có trình độ chuyên môn, được đào tạo cẩn thận, có kinh nghiệm và trình độ theo đúng vị trí trong guồng máy quản lý thực hiện. Đây là cơ sở của việc nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ. -Kết hợp hài hoà các loại lợi ích. Nguyên tắc này đòi hỏi nhà quản lý phải xử lý thoả đáng mối quan hệ biên chứng giữa các loại lợi ích có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của nghiệp vụ, bao gồm: Lợi ích của người lao động, phải đảm bảo đủ động lực cho họ sống và làm việc, nhờ đó gắn bó họ chặt chẽ với công việc, với công ty. Lợi ích của Nhà nước và xã hội, Đó là nghĩa vụ đối với Nhà nước và các rằng buộc pháp luật khác mà các công ty các tổ chức phải thực hiên, đó là các thông lệ xã hội( môi sinh, môi trường, nghĩa vụ cộng đồng...) mà các doanh nghiệp, các tổ chức phải thực hiện. Lợi ích của khách hàng, Đó là những người mua bảo hiểm cùng với các yêu cầu về sản phẩm và cách phục vụ của người bán. Lợi ích của các công ty, tổ chức khác. -Nguyên tắc sử dụng một cách toàn diện các phương pháp quản lý. Các phương pháp quản lý gồm có: Phương pháp hành chính, đây là phương pháp tác động dựa vào các mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản lý và kỷ luật của doanh nghiệp; Phương pháp kinh tế, đây là phương pháp tác động vào đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế, để cho đối tượng quản lý lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ; Phương pháp giáo dục, đây là phương pháp tác động vào nhận thức, tâm lý, tình cảm của người lao động, nhằm nâng cao tinh thần tự giác và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ. Trong các nguyên tắc trên thì phương pháp kinh tế là quan trọng nhất, tuy nhiên để đạt được hiệu quả kinh doanh tốt thì cần phải coi trọng phương pháp hành chính và tăng cường phương pháp giáo dục. 3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong mọi doanh nghiệp, chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của nó. Đối với Bảo Minh nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nó riêngthì việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực càng trở lên cần thiết vì: -Tình trạng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng trở lên gay gắt. Vì hiện nay Nhà nước có chính sách thông thoáng hơn trong việc thành lập các doanh nghiệp bảo hiểm.không chỉ các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước mà cả các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cũng được thành lập ở nước ta. Do đó cán bộ cần phải có năng lực thực sự thì mới có thể đứng vững trong cạnh tranh. Mặt khác cạnh tranh theo hướng giảm phí, tăng các khoản chi cho khách hàng, đại lý từ trước đến nay sẽ trở nên lỗi thời, thay vào đó là cạnh tranh dựa trên cơ sở năng lực của cán bộ, tinh thần, thái độ phục vụ. Doanh nghiệp bảo hiểm nào có nhiều cán bộ giỏi, tạo được niềm tin với khách hàng sẽ có lợi thế cạnh tranh. Đặc biệt đối với nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của Bảo Minh hiện nay chủ yếu cạnh tranh theo cách cũ. Vì vậy để nghiệp vụ này phát triển vững chắc thì phải nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. -Bảo Minh chuển chiến lược phát triển từ lượng là chính sang chất là trọng tâm mặt khác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế tri thức. Để công tác đào tạo đạt kết quả cao, cần đảm bảo các điều kiện sau: -Công tác đào tạo phải căn cứ vào hệ thống chất lượng của công ty (ISO). Kết quả đào tạo theo yêu cầu của tiêu chuẩn ISO: Sản phẩm của quá trình đào tạo là phần “ giá trị tăng thêm” của “ học viên đầu ra” so với “học viên đầu vào”, theo các tiêu chuẩn mà mỗi cán bộ nhân viên bảo hiểm phải đạt được tuỳ thuộc vào chức trách của từng người. -Phải xác định đúng đắn xem ai là người cần đào tạo, đào tạo ở trình độ nào là phù hợp và ở trình độ đó thì cần học những cái gì ? những đối tượng chưa được đào tạo đầy đủ theo chương trình đào tạo, công ty cần có biện pháp bắt buộc đi học, và đào tạo phải tránh qua loa đại khái. Đồng thời cần xây dựng một hệ thống các môn học đầy đủ, phù hợp với từng trình độ cần đào tạo. -Thông thường học viên phải hoàn thành học phần cơ bản mới được tham dự các học phần khác. Tuy nhiên một số trường hợp có năng lực, trình độ, kinh nghiệm thì có thể cho đặc cách để học các học phần, chương trình cao hơn. -Hội đồng khoa học của Bảo Minh cần giúp phòng đào tạo trong việc thẩm định các giáo trình, các đề tài nghiên cứu khoa học, các chương trình đào tạo...Ngoài ra để nâng cao chất lượng đào tạo tất cả các phòng ban, các cấp đều phải hỗ trợ cho công tác đào tạo, bằng các biện pháp, như: Tạo điều kiện về mặt thời gian cho những người cần đào tạo, hỗ trợ về mặt tài chính, đảm bảo quyền lợi của họ khi đi học... -Chất lượng giảng viên có tác dụng quyết định rất lớn đến kết quả đào tạo, chất lượng đào tạo. Để nâng cao chất lượng của giảng viên, mỗi giảng viên phải tự đầu tư thời gian và công sức để nâng cao trình độ nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo, trường hợp cần thiết công ty có thể chọn lọc một số giảng viên và đưa đi đào tạo ở các trường đại học, các học viện... trong và ngoài nước. Một điều không thể thiếu và có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất lượng giảng viên là phải đảm bảo được cuộc sống vật chất và tinh thần của họ, thông qua các chính sách về tiền lương, thưởng, động viên... -Để ổn định, đáp ứng nhu cầu đào tạo thường xuyên, cần có cơ sở vật chất đầy đủ, có nhà cửa, trường lớp, phòng giảng dạy và các phương tiện, máy móc, trang thiết bị phục vụ khác. Trước hết cần xây dựng một địa điểm đào tạo tập trung ở Thành Phố Hồ Chí Minh, sau đó sẽ dần phát triển các chi nhánh, các trung tâm đào tạo ở các tỉnh khác. 4. Các giải pháp đối với các khâu công việc cụ thể. 4.1/ Công tác khai thác. Công tác khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tuy gặt hái được nhiều thành công tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, để khắc phục những hạn chế đó theo em cần có các giải pháp: - Phục vụ khách hàng kịp thời, chu đáo khi không may rủi ro xẩy ra. - Có thái độ phục vụ khách hàng niềm nở, nhiệt tình khi họ yêu cầu bảo hiểm. Thường xuyên thăm hỏi tạo được các mối quan hệ với khách hàng. - Các cán bộ khai thác nên được bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ bảo hiểm, thường xuyên theo từng quí, để nắm được thông tin chính xác theo kịp thị trường, sự thay đổi nền kinh tế không những trong tỉnh mà cả nước và thế giới. - Tham gia vào công tác xã hội, công tác từ thiện. - Công ty cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an. Một mặt công ty kiến nghị với các cơ quan chức năng có những biện pháp xử phạt nghiêm minh đối với các chủ xe không tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba. Đồng thời phải giải thích cặn kẽ tác dụng, quyền lợi của mỗi bên khi họ không hiểu. - Công ty nên có chế độ khuyến khích hơn nữa đối với các cán bộ khai thác tốt bằng vật chất, tinh thần tạo cho họ sự thoải mái, chủ động trong công việc nâng cao những ý kiến sáng tạo giúp cho công ty hoạt động có hiệu quả hơn. Đồng thời cần xử lý nghiêm khắc với những cán bộ có những hành vi tiêu cực trong khai thác. - Công ty cần chú trọng hơn nữa tới các công ty liên doanh với nước ngoài. - Tăng cường khai thác triệt để các mối quan hệ của công ty. Đồng thời mở rộng mối quan hệ của công ty đối với các công ty khác, ở cả trong và ngoài nước. -Không nên chạy theo doanh thu trong khai thác, để tạo được uy tín với khách hàng và tạo ra sự phát triển lâu dài công ty cần tập trung vào chất lượng dịch vụ, giám định rủi ro chặt chẽ... từ đó doanh thu và hiệu quả kinh doanh của công ty cũng sẽ tăng lên. 4.2/ Công tác giám định và bồi thường Thủ bồi thường cần đơn giản hơn, giảm bớt những giấy tờ, công đoạn không cần thiết và rút ngắn thời gian trả tiền bồi thường cho khách hàng. Giúp cho khách hàng khắc phục tổn thất nhanh chóng ổn định cuộc sống. Đây là hình thức tuyên truyền quảng cáo hữu hiệu và hiện thực nhất về chất lượng của công ty với khách hàng. Cần tăng cường khuyến khích các cán bộ giám định bồi thường giỏi, cử các cán bộ đi học, đào tạo qua các lớp dành riêng cho các giám định viên. Để gắn quyền lợi và trách nhệm của các cán bộ bồi thường ngoài các biện pháp khuyến khích cần xử lý nghiêm khắc các tiêu cực trong giám định bồi thường, như: Trục lợi bảo hiểm, gây phiền hà cho khách hàng... Công ty cần tăng cường công tác quản lý tài chính, tăng cường đưa tin học vào quản lý tài chính và nghiệp vụ để phục vụ kịp thời cho việc kinh doanh của công ty. Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ, hướng dẫn nghiệp vụ, công tác giám định, giải quyết bồi thường, đảm bảo việc bồi thường đúng, đủ, kịp thời, chính xác. Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện tốt mục tiêu: “tăng trưởng và hiệu quả”. 4.3/ Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. - Tăng cường việc tuyên truyền, giáo dục các chủ xe về ý thức tôn trọng pháp luật và an toàn giao thông đường bộ, tránh các vi phạm phóng nhanh vượt ẩu, uống rượu, bia khi đang điều khiển xe, bằng việc tài trợ cho các cuộc thi lái xe giỏi, lái xe an toàn. - Công ty cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan đăng kiểm, cảnh sát giao thông thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm tra định kỳ, thường xuyên, an toàn kỹ thuật. -Mặc dù công ty đã bỏ ra chi phí khá lớn cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất, tuy nhiên hiệu quả chưa cao, để nâng cao hiệu quả công tác này công ty cần liên kết với các công ty bảo hiểm khác, các tổ chức xã hội để hình thành nên một quỹ đề phòng, hạn chế tổn thất lớn, từ đó tăng cường xây dựng các biển báo, các biển chỉ đường, xây dựng đường xá... khi đó rủi ro tai nạn sẽ giảm và mang lại lợi ích cho tất cả các công ty và toàn xã hội. Cùng với tăng cường nguồn quỹ công ty cần tăng cường quản lý quỹ một cách chặt chẽ, hiệu quả. -Công ty cần có những biện pháp thưởng phạt đúng đắn cho nhân viên bảo hiểm. Đồng thời khuyến khích các cộng tác viên bảo hiểm để họ nhiệt tình gắn bó với công việc của mình. kết luận Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời và phát triển là đòi hỏi tất yếu, khách quan của nền kinh tế thị trường do những vai trò và tác dụng của nó. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển thì nghiệp vụ này cũng càng phát triển. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang tăng trưởng khá nhanh làm cho số lượng xe cơ giới tham gia vào hoạt động giao thông vận tải ngày càng nhiều trong khi tỉ lệ xe cơ giới tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba vẫn còn ở mức thấp điều này nói lên thị trường tiềm năng đối với loại hình bảo hiểm này là rất lớn từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh tốt cho các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ này. Mặt khác, hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ này nên tình trạng cạnh tranh rất gay gắt. Vì vậy, doanh nghiệp nào năng động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu và mong muốn của khách hàng so với các doanh nghiệp khác thì chắc chắn sẽ chiến thắng trong cạnh tranh từ đó tạo ra sự phát triển vững mạnh cho doanh nghiệp. Trong bài viết này em đã phân tích điểm mạnh, điểm yếu, kết quả, hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ. Em hy vọng những kiến nghị của em sẽ phần nào giúp công ty nâng cao được hiệu quả của nghiệp vụ này. Do trình độ có hạn và thời gian nghiên cứu ngắn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót. Do vậy rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. tài liệu tham khảo 1. TS. Hồ Sĩ Sà, TS. Nguyễn Văn Định: Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm – NXB Giáo dục, 2000. 2. PTS. Hồ Xuân Phương – Giáo trình Kinh tế bảo hiểm Đại học Tài chính kế toán, 1999. 3. TS. Nguyễn Cao Thường: Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm – Nhà xuất bản Giáo dục, 1998. 4. Các báo cáo hoạt động kinh doanh từ - năm 1997- 2001 của Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh. 5. Các bài giảng về Kinh tế bảo hiểm và Quản trị kinh doanh bảo hiểm. 6. Bản tin nội bộ của Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh. 7. Các tài liệu khác. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I. Lý luận chung về bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 2 I. Thực trạng hoạt động giao thông đường bộ ở nước ta, sự cần thiết và tác dụng phải bảo hiểm TNDS của chủ xe 2 1. Thực trạng giao thông đường bộ ở Việt Nam 2 2. Sự cần thiết của bảo hiểm TNDS cua chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 4 II. Cơ sở hình thành bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ 3 dưới hình thức bắt buộc 6 III. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối Với người thứ ba 7 1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm 7 2. Phí bảo hiểm 10 3. Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm 14 Chương II. Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh 17 I. Sự hình thành và phát triển của Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh 17 1. Sự hình thành và phát triển 17 2. Kết quả kinh doanh của Công ty giai đoạn (1999 - 2001) 25 II. Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Công ty bảo hiểm bảo Minh 28 1. Công tác khai thác 28 2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 34 3. Công tác giám định, bồi thường 37 4. Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm nhân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của Bảo Minh 45 Chương III.Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh 52 I. Điều kiện của bảo minh đối với nghiệp vụ bảo hiểm TCDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 52 1. Thuận lợi 52 2. Khó khăn 53 II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ban ở Công ty Bảo hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh 54 1. Tăng cường tuyên truyền quảng cáo 54 2. Tăng cường công tác quản lý 56 3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 59 4. Các giải pháp đối với các khâu công việc cụ thể 61 Kết luận 64 Tài liệu tham khảo 65

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0047.doc
Tài liệu liên quan