Công tác thu bảo hiểm xã hội có yêu cầu rất cao đối với những cán bộ làm công tác này. Nó đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc. Do vậy cần có những chế độ ưu đãi đối với họ như: phương tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta có thể tiến hành các hình thức khen thưởng, động viên đến các đơn vị luôn thực hiện đúng tiến độ thu bảo hiểm xã hội. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền bảo hiểm xã hội thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền bảo hiểm xã hội thì phải có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chúng ta không thể dừng lại ở các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu như họ thấy tiền lãi thu được do việc chiếm dụng quỹ bảo hiểm xã hội vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp phạt mà trong một số trường hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ.
Công tác chi trả cũng cần phải được đổi mới cho phù hợp với nhu cầu của cuộc sống. Đối với các cán bộ chi trả lương hưu và trợ cấp tại các tổ, phường trên địa bàn quận thì phải không ngừng nâng cao mức thù lao cho họ để họ có thể yên tâm làm công tác này, đem lại hiệu quả chi trả cao hơn. Đối với cán bộ làm công tác chi trả 2 chế độ ốm đau, thai sản ở các đơn vị cũng phải có mức thù lao thoả đáng đặc biệt là đối với những đơn vị có đông lao động, có nhiều lao động nữ, điều kiện làm việc cho người lao động chưa đảm bảo.
Hiện nay, đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đang vững bước trên con đường CNH-HĐH nền kinh tế nước ta. Chúng ta đang mạnh mẽ áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý, vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Ngành bảo hiểm xã hội cũng đã đưa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ "có máy vi tính". Hiện nay ở hầu hết các cơ quan bảo hiểm xã hội đều có hơn 2 chiếc máy vi tính nhưng số lượng cán bộ bảo hiểm xã hội biết sử dụng thành thạo nó thì có rất là ít, thậm chí có nơi không có. Các cán bộ của ngành bảo hiểm xã hội mới chỉ dừng lạỉ việc bắt đầu biết sử dụng máy tính mà chưa khai thác được hết hiệu quả mà máy tính đem lại trong công tác thu chi quỹ bảo hiểm xã hội. Mặt khác do chưa được quan tâm đúng mức nên hệ thống các chương trình phần mềm chuyên ngành của ngành bảo hiểm xã hội chưa đuợc đồng bộ, chưa tạo ra sự thuận tiện cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Bên cạnh đó hệ thốn phần mềm này còn thiếu tính năng bảo mật nên rất dễ bị đánh cắp số liệu. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo, Nhà nước nên cung cấp kinh phí cho ngành bảo hiểm xã hội để họ có đủ điều kiện đưa hoạt động tin học trong quản lý có hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phần mềm quản lý cũng như việc mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ trong toàn ngành bảo hiểm xã hội cả về các kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu quả phần mềm chuyên ngành.
85 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bàn về tình hình thu - Quản lý thu và giải quyết nợ đọng Bảo hiểm xã hội ở huyện Đông Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
guồn: BHXH huyện Đông Anh )
Cách xác định mức đóng bảo hiểm xã hội của từng người và của cả đơn vị khi đã có danh sách lao động và tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, ta chỉ việc lấy tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của từng người nhân với 20%( tức 0.2) sẽ được mức đóng của mỗi người. Mức đóng của cả đơn vị sẽ bằng tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội nhân với 20% ( tức 0.2) hoặc bằng số tiền đóng bảo hiểm xã hội của từng người cộng lại.
e. Thời gian và phương thức đóng bảo hiểm xã hội.
Theo quy định ngay sau ngày trả lương hàng tháng nếu trả lương tháng 2 kỳ thì đóng bảo hiểm xã hội vào sau ngày trả lương kỳ thứ 2 trong tháng và có thể đóng bảo hiểm xã hội theo quý. Nhưng phải đóng vào tháng giữa quý.
(Ví dụ: Quý I đóng vào tháng 2, quý II đóng vào tháng 5, quý III đóng vào tháng 8, quý IV đóng vào tháng 11).
Nếu đóng chậm tháng nào phải nộp lãi suất tiền gửi Ngân hàng ở thời điểm nộp chậm( quy định tại Thông tư số 58/TC-HCSN ngày 24 tháng 5 năm 1995 của Bộ Tài chính).
Và tại Điều 4 phần III Thông tư số 85-1998/TT-BTC ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Tài chính quy định:
Trường hợp các đơn vị sử dụng chậm nộp bảo hiểm xã hội từ 30 ngày trở lên so với kỳ hạn phải nộp, thì ngoài việc phải nộp phạt theo quy định tại điểm 8 Điều 11 trong Nghị định số 38/CP ngày 25 tháng 06 năm 1996 quy định xử phạt hành chính về vi phạm pháp luật lao động còn phải nộp số tiền chậm nộp theo mức lãi suất tiền vay quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm truy nộp, đồng thời bảo hiểm xã hội các cấp được quyền yêu cầu kho bạc, Ngân hàng trích tiền từ tài khoản của đơn vị sử dụng lao động để nộp tiền bảo hiểm xã hội và tiền phạt chậm nộp bảo hiểm xã hội ( nếu có) mà không cần có sự chấp nhận thanh toán của đơn vị sử dụng lao động.
Hàng tháng, hàng quý các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động đóng, căn cứ vào kế hoạch Quỹ tiền lương để đăng ký mức đóng với cơ quan bảo hiểm xã hội. Đồng thời với việc trả lương, đơn vị sử dụng lao động trích nộp 20% tổng Quỹ tiền lương trong đó 15% tổng quỹ tiền lương do người sử dụng lao động đóng góp và 5% tiền lương của người lao động.
Cuối mỗi quý các cơ quan, đơn vị sử dụng lao động cùng cơ quan bảo hiểm xã hội đối chiếu danh sách trả lương và Quỹ tiền lương, lập bảng xác nhận số nộp bảo hiểm xã hội. Nếu có chênh lệch giữa số đã nộp và số phải nộp sẽ phải nộp tiếp trong quý sau( nếu có chênh lệch thiếu) hoặc coi như nộp trước cho quý sau( nếu chênh lệch thừa) và được quyết toán trong năm.
Những đơn vị sử dụng lao động cố tình vi phạm thời hạn nộp bảo hiểm xã hội thì cơ quan bảo hiểm xã hội các cấp có quyền từ chối việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội đối với tất cả những người lao động của đơn vị sử dụng lao động đó. Đồng thời lập hồ sơ chuyển sang cơ quan pháp luật đối với chủ sử dụng lao động.
Vì vậy, đóng bảo hiểm xã hội là nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị người sử dụng lao động và người lao động. Kết quả đóng bảo hiểm xã hội là cơ sở để thực hiện tốt các chế độ hưởng bảo hiểm xã hội.
f) Một số thuận lợi và khó khăn.
(*) Những thuận lợi :
Sự ra đời của Điều lệ BHXHvới việc quy định mức đóng 20% so với tổng quỹ lương như là một sự chỉ dẫn, bắt buộc người lao động và chủ sử dụng lao động phải thực hiện trách nhiệm của mình là đóng phí BHXH theo đúng quy định của pháp luật. Nó khắc phục được khó khăn, tồn tại trước đây, đó là đóng một cách tuỳ tiện không theo một hệ thống quy củ nào cả.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, tốc độ tăng lao động trong địa bàn huyện cao đã làm tăng mức thu BHXH trong huyện cũng như toàn hệ thống BHXH Việt Nam.
Nhận thức của người lao động ngày một nâng cao , sự hiểu biết về tầm quan trọng của BHXH làm cho công tác thu BHXH mang tính chất tự nguyện hơn . Thêm vào đó việc tổ chức tập huấn, hướng dẫn thực hiện BHXH đến các cơ sở của ngành có liên quan làm cho người lao động và người sử dụng lao động hiểu biết hơn về BHXH , hiểu biết hơn về tính cưỡng chế của pháp luật trong thực tế thực hiện BHXH,các đơn vị sử dụng lao động đã ý thức được trách nhiệm trong việc thực hiện nghiã vụ đối với Nhà nước và người lao động, qua đó thúc đẩy quá trình đóng BHXH của người lao động và người sử dụng lao động.
Đông Anh có một địa bàn rộng lớn , số đơn vị đóng trên địa bàn huyện khá nhiều, cùng với số lao động đông cũng như nguồn lao động dự trữ lớn là một nguồn thu quan trọng đối với quỹ BHXH Việt Nam. Trước đây nguồn thu này không được quan tâm đúng mức , vì công tác thu do Sở tài chính và cục thuế thực hiện. Chỉ từ khi giao công tác thu cho cơ quan BHXH nói chung và cơ quan BHXH huyện Đông Anh nói riêng thì công tác thu BHXH được tập trung về một mối , thống nhất thu - chi .Quỹ BHXH được thống nhất , tập trung thu và quản lý thu. Như vậy, việc thống nhất quản lý quỹ BHXH Việt Nam, hệ thống quỹ BHXH cũng như thống nhất công tác thu chi thì công tác thu BHXH Việt Nam nói chung và thu phí BHXH tại địa bàn huyện Đông Anh nói riêng trở thành một công tác hết sức quan trọng và không thể thiếu .Việc ban hành các văn bản quy định thực hiện thu ra đời là một lẽ tự nhiên phục vụ cho công tác thu.
(*) Những khó khăn :
Một khó khăn không thể không nói đến trong công tác thu BHXH là triển khai tính toán không đồng bộ. Tính không đồng bộ thể hiện trong việc BHXH huyện Đông Anh được thành lập từ năm 1995 nhưng lại được giao trách nhiệm thu phí từ năm 1993. Trước đây Sở tài chính và Cục thuế đã thu được một phần trách nhiệm, tức là thu chưa đủ theo yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra . Nay phần còn lại BHXH thành phố Hà Nội giao cho BHXH huyện Đông Anh thực hiện theo phương thức truy thu số liệu bàn giao sang cho cơ quan từ Sở tài chính và Cục thuế. Do đó, công tác thu phải thực hiện nhiệm vụ thực sự không có cơ sở căn cứ nên triển khai thực hiênj rất khó khăn. Thêm vào đó đến cuối năm các đơn vị thường tổng kết , quyết toán kết quả lao động, các sổ sách của các đơn vị đã được khoá lại để đem vào lưu trữ. Lúc bấy giờ cơ quan BHXH yêu cầu đơn vị đưa ra đối chiếu thanh quyết toán lại thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Do đó, việc triển khai gặp rất nhiều khó khăn , trở ngại từ phía đơn vị sử dụng lao động cũng như cán bộ thực hiện nghiệp vụ. Có thể nói đây là khó khăn cơ bản nhất mà cơ quan BHXH gặp phải từ khi hoạt động cho đến nay, ngoài ra còn rất nhiều khó khăn từ phía đơn vị sử dụng lao động, từ phía cán bộ thực hiện, từ phía tổ chức lao động .
Trong thực tế triển khai thu , còn có một số đơn vị chưa thực hiện đúng , chưa thực hiện một cách đầy đủ những quy định trong Điều lệ BHXH đề ra. Còn nhiều đơn vị chưa đăng ký danh sách đóng BHXH và còn nợ phí BHXH.
Những năm đầu BHXH huyện có rất ít cán bộ, chỉ với 6 người, đây là một con số quá ít ỏi để thực hiện nhiệm vụ thực hiện các chế độ BHXH trong địa bàn, trong đó có thực hiện nhiệm vụ thu BHXH. Cán bộ thực hiện đã ít , trình độ chuyên môn còn thấp , đây cũng là nghiệp vụ khá mới mẻ, do đó lúc đầu thực hiện nhiệm vụ các cán bộ công tác còn rất bỡ ngỡ với nhiệm vụ được giao. Ngay trong giai đoạn hiện nay, lực lượng cán bộ trong cơ quan BHXH huyện Đông Anh vẫn còn rất ít ( tổng số có 9 cán bộ viên chức ) lại có một khối lượng công việc khá lớn, do vậy công tác thu gặp rất nhiều trở ngại trong thực tế triển khai, đòi hỏi sự nỗ lực của từng cán bộ , viên chức trong cơ quan.
g) Thực trạng nợ đọng BHXH ở huyện Đông Anh :
Một thực tế mà ở bất cứ một cơ quan BHXH nào cũng phải đối mặt đó là vấn đề nợ BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Thực trạng trên có rất nhiều nguyên nhân khác nhau như trên đã đề cập , đó là do tính chất cạnh tranh của cơ chế thị trường dẫn đến một số cơ sở kinh doanh do hoạt động kém hiệu quả ‘ sản phẩm tiêu thụ chậm ... Bên cạnh đó còn có một số lãnh đạo đơn vị còn chưa thực sự quan tâm đến việc trích nộp BHXH , không nghiên cứu kỹ về quy định nâng bậc lương của Nhà nước đối với CNVC trong các doanh nghiệp. Nguyên nhân của thực trạng trên còn do có đơn vị sử dụng lao động chưa quan tâm đến hồ sơ của người lao động...
Thực tế hoạt động qua các năm BHXH huyện Đông Anh đều có sự tổng kết đánh giá qua các năm hoạt động để từng bước khắc phục triệt để vấn đề nợ đọng BHXH trong địa bàn huyện. Với sự lãnh đạo của BHXH thành phố Hà Nội và huyện uỷ cùng với sự nỗ lực của tập thể cán bộ cơ quan BHXH huyện Đông Anh tình hình nợ đọng BHXH trong địa bàn huyện được khắc phục đáng kể...
Biểu 12: Số liệu về tình hình nợ đọng BHXH huyện Đông Anh qua các năm
Năm
Tổng số nợ BHXH (đồng)
Tỷ lệ tăng (giảm)
1996
2.352.061.162
---
1997
2.465.251.321
4,80%
1998
3.242.765.481
31,54%
1999
2.828.865.397
-12,76%
2000
2.514.743.037
-11,10%
2001
1.292.034.643
-48,62%
Như vậy ta thấy , khả năng thanh toán nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp huyện Đông Anh là rất cao trong mấy nawm gần đây.
h) Nguyên nhân và một số bài học kinh nghiệm :
(*) Nguyên nhân :
- Nguyên nhân của những kết quả trên là do từ năm 1995 trở về trước việc thực hiện các chế độ , chính sách BHXH diễn ra trong cơ chế bao cấp, người lao động nói chung thuộc biên chế nhà nước mặc dù không phải đóng BHXH hoặc đóng với mức thấp vẫn được hưởng các quyền lợi về BHXH gần như nhau. Nay chuyển sang cơ chế mới theo luật định, người lao động có tham gia BHXH mới được hưởng các quyền lợi về BHXH như một lẽ đương nhiên.
Mặc dù đã đạt được những thành công nhất định nhưng hệ thống BHXH nói chung hiện nay vẫn còn những tồn tại nhất định, một trong các nguyên nhân của những tồn tại trên là do công tác tuyên truyền chưa được quan tâm chú trọng một cách đúng mức, mắc dù đã có nhiều cố gắng , nhưng nhìn chung công tác này còn yếu cả về nội dung và hình thức, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cũng như đòi hỏi của các cấp các ngành và người lao động, người sử dụng lao động cũng như toàn xã hội trong việc tự giác chấp hành các chế độ chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra còn phải kể đến yếu tố trình độ của các địa phương còn có nhiều hạn chế , hệ thống BHXH nước ta lại vừa mới được thành lập nên khó có thể tránh khỏi những yếu kém về quản lý nghiệp vụ, cũng như trong việc tổ chức thực hiện. Sự chủ động phối hợp của BHXH các ngành , các cấp chưa đủ mạnh , nhịp nhàng.
(*) Một số bài học kinh nghiệm :
- Cán bộ làm công tác thu BHXH trước hết cần phải có hiểu biết sâu sắc về chế độ chính sách BHXH và các chính sách khác có liên quan. Đồng thời , phải bám sát cơ sở , phải biết vận dụng linh hoạt các chế độ, chính sách BHXH trong từng trường hợp cụ thể , phải biết làm công tác vận động quần chúng làm cho mỗi người lao động hiểu biết và tự giác chấp hành việc đóng BHXH.
- Cơ quan BHXH phải tranh thủ sự chỉ đạo của các cấp, từ Trung ương đến địa phương , sự phối hợp giữa các ban ngành có liên quan như ngành LĐ - TBXH , Bộ tài chính , UBND... Tăng cường và nâng cao hiệu lực công tác thanh tra , kiểm tra thu - chi BHXH tăng cường quản lý chặt chẽ hồ sơ và đối tượng tham gia...
- Coi trọng công tác đào tạo , bồi dưỡng nâng cao năng lực và trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ và tăng cường công tác giáo dục chính trị ,tư tưởng, trách nhiệm nghề nghiệp , chống thói quan liêu cửa quyền đối với người lao động.
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền bằng nhiều hình thức ,biện pháp để người lao động và các đơn vị sử dụng lao động nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác BHXH theo cơ chế mới cũng như các quy định về chế độ , chính sách bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà nước.
4. Những khó khăn tồn tại
a. Đối với quá trình thu bảo hiểm xã hội
Mặc dù có được những thành tựu đáng khích lệ trong thời gian qua, nhưng công tác thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh vẫn còn những tồn tại, hạn chế làm cho công tác này chưa phát huy được hết vai trò của nó đối với quỹ bảo hiểm xã hội. Những mặt hạn chế đó là:
* Số đơn vị ngoài quốc doanh, số lao động được tham gia bảo hiểm xã hội còn ít
Hiện nay, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tới 85% tổng số doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong cả nước. Do đó, lực lượng lao động trong doanh nghiệp này chiếm một tỷ trọng lớn so với lực lượng lao động toàn xã hội với cơ cấu ngành nghề đa dạng và phong phú. Nguyên nhân của tình trạng là :
- Các văn bản của Nhà nước về bảo hiểm xã hội mà cụ thể là NĐ12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ mới chỉ quy định một số đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc như:
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
+ Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang...
mà không có các đối tượng khác như: các doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động, những người làm việc trong các hợp tác xã, tiểu thủ nông công nghiệp.
- Xuất phát từ phía người lao động.
Có một số người lao động nhận thức chưa được đúng hoặc đầy đủ về quyền lợi và lợi ích của họ khi họ tham gia bảo hiểm xã hội. Đặc biệt có một bộ phận người lao động vẫn còn thói quen, nếp sống thời bao cấp muốn ỷ lại và Ngân sách Nhà nước, muốn hưởng bảo hiểm xã hội nhưng lại không muốn đóng góp. Một số trường hợp khác lai do tâm lý sợ mất việc làm nên không giám đấu tranh đòi hỏi quyền lợi, buộc người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho mình. Bên cạnh đó có một nhóm người lao động lại muốn tham gia bảo hiểm xã hội, được chủ sử dụng lao động cho phép nhưng lại không có ý định tham gia bảo hiểm xã hội vì mức thu nhập hiện tại của họ quá thấp, không đủ cho họ trang trải các chi phí sinh hoạt hàng ngày.
- Xuất phát từ người sử dụng lao động:
Có rất nhiều cơ quan đơn vị, doanh nghiệp không muốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động nhằm tận dụng nguồn kinh phí này cho đầu tư sản xuất đồng thời làm giảm giá thành sản phẩm, tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường, mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Chính vì vậy , họ luôn tìm mọi cách để né tránh chẳng hạn như: Thuê mướn công nhân, lao động theo tính thời vụ, thuê lao động làm việc dưới 3 tháng hoặc trên 3 tháng nhưng lại cố tình chậm trễ trong việc ký kết hợp đồng với lý do đó là thời gian thử việc. Họ lợi dụng sự kém hiểu biết của người lao động về các văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, lợi dụng việc không có chế tài quy định chặt chẽ buộc họ phải tham gia bảo hiểm xã hội. Một số doanh nghiệp vẫn tuyên truyền với người lao động là họ sẽ bảo đảm quyền lợi, vẫn tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động nhưng thực tế là họ lại tham gia loại hình bảo hiểm xã hội khác có số chi ít hơn như: mua bảo hiểm sinh mạng có thời hạn của Bảo Việt... Nhiều đơn vị vẫn còn chậm trễ trong việc đóng bảo hiểm xã hội, có nhiều đơn vị nợ đọng bảo hiểm xã hội lên tới hàng tỷ đồng. Bên cạnh những đơn vị cố tình không đóng bảo hiểm xã hội thì cũng có nhiều đơn vị mong muốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động nhưng lại không thực hiện được do tình hình sản xuất kinh doanh trên những lĩnh vực gặp đầy rủi ro nên khả năng tài chính thường không ổn định, nguồn vốn kinh doanh không đủ đóng bảo hiểm xã hội liên tục cho người lao động.
- Công tác tuyên truyền vận động:
Hiện nay công tác này mới chỉ được chú trọng ở cấp TW hoặc thành phố nên hiệu quả còn rất thấp . Bởi vì các đợt tuyên truyền, vận động này không có đủ khả năng tài chính để phát các tài liệu cần thiết cho tất cả đơn vị, tổ chức được mà mới chỉ tiến hành bằng cách tạo ra các biển Panô, Aphích ở các địa điểm tập trung đông người, hoặc diễu hành qua các đường phố lớn... Mặt khác nó lại diễn ra trong giờ hành chính nên có nhiều đơn vị, người lao động không biết được các quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Còn đối với các cơ quan bảo hiểm xã hội các quận, huyện thì do thiếu đội ngũ cán bộ, trong khi số lượng công việc thì quá lớn, bên cạnh đó họ cũng không có đầy đủ các phương tiện cần thiết đặc biệt là vấn đề tài chính nên công tác tuyên truyền tới tận các đơn vị đóng trên địa bàn quận vẫn còn bỏ ngỏ.
* Mức đóng bảo hiểm xã hội còn thấp
Số thu bảo hiểm xã hội ở bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh mặc dù mỗi năm đều tăng nhưng số thu so với nhu cầu chi trả và bảo đảm bảo tồn và tăng trưởng quỹ là quá nhỏ chẳng hạn như: số thu năm 2001 là 86 tỷ đồng nhưng số chi trả là 232, 467 tỷ đồng. Đó là do một số nguyên nhân sau:
- Số đơn vị ngoài quốc doanh, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn ít.
- Cơ sở tính nộp bảo hiểm xã hội chưa hợp lý: Hiện nay chúng ta chỉ tính phí bảo hiểm xã hội dựa trên tiền lương danh nghĩa (lương cấp bậc, chức vụ) mà trên thực tế thì mức tiền lương này thấp hơn rất nhiều so với thu nhập thực tế của họ. Ví dụ như với công ty kiểm toán Nhà nước thì mức thu nhập hàng tháng của họ thấp nhất cũng là 1,5 triệu trong khi đó họ chỉ tính hệ số 2,1 hoặc 2,36 để tính nộp bảo hiểm xã hội. Đây là điều không hợp lý làm giảm nguồn thu bảo hiểm xã hội, mất cân đối quỹ bảo hiểm xã hội.
- Mức đóng bảo hiểm xã hội thấp: Đây là tồn tại lớn của ngành bảo hiểm xã hội nước ta nói chung và của bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh nói riêng. Nhà nước ta quy định mức đóng của người lao động là 5% tiền lương và người sử dụng lao động là 15% quỹ lương của doanh nghiệp. Đây là mức thu quá thấp cho nhu cầu chi trả (thông thường các chế độ chi trả bằng 75% hoặc bằng 100% tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội). Mức thu hiện nay của nước ta là rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Việc nợ đọng bảo hiểm xã hội ở các đơn vị, đặc biệt là ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh là hiện tượng khá phổ biến. Có nhiều doanh nghiệp ban đầu chỉ có ý định chiếm dụng quỹ bảo hiểm xã hội trong thời gian ngắn để khắc phục khó khăn hiện tại, nhưng rồi nợ luỹ kế tăng dần đến mức không còn khả năng thanh toán. Đây là nguyên nhân khá phổ biến của hiện tượng nợ đọng quỹ bảo hiểm xã hội. Mặt khác, trong cơ chế quản lý thu bảo hiểm xã hội còn thiếu một hành lang pháp lý cần thiết. Hiện nay chưa có một chế tài nào để duy trì và thực hiện quá trình thu bảo hiểm xã hội. NĐ58/CP quy định về xử phạt hành vi trốn tránh trách nhiệm nộp bảo hiểm xã hội hoặc nộp chậm tiền bảo hiểm xã hội và quy định thẩm quyền sử phạt thuộc về Thanh tra Nhà nước về lao động và Uỷ ban nhân dân các cấp, nhưng trên thực tế thì có nhiều doanh nghiệp vi phạm nhưng vẫn không bị xử lý do việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng với cơ quan bảo hiểm xã hội không đồng bộ.
- Nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động ở một số đơn vị chưa đầy đủ về bảo hiểm xã hội nên gây nhiều trở ngại cho cán bộ thu bảo hiểm xã hội. Trong nhiều trường hợp, mặc dù cơ quan bảo hiểm xã hội đã có lịch cụ thể và báo trước cho các đơn vị, cơ sở về việc cử cán bộ đốc thu xuống cơ sở làm việc với lãnh đạo cơ quan. Nhưng họ thường xuyên có lý do để kéo dài thời gian, thậm chí ban lãnh đạo cơ quan còn cố tình không tiếp cán bộ bảo hiểm xã hội. Đây là một hiện tượng thực tế gây ức chế cho cán bộ thu bảo hiểm xã hội mà hiện tại vẫn chưa tìm ra được biện pháp khắc phục.
- Về phía đội ngũ cán bộ: Hiện nay cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh có 9 lao động . Trong khi đó khối lượng cơ sở, đơn vị thuộc diện quản lý là rất lớn: năm 2001 là 180 đơn vị với tổng số lao động hơn 20 nghìn người. Đây là một khối lượng rất lớn đối với 9 cán bộ chuyên trách .
* Số tiền bảo hiểm xã hội thường hay bị nộp chậm, không đúng thời gian quy định
Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là do cán bộ làm công tác thu bảo hiểm xã hội tại các cơ qua, đơn vị thường không am hiểu rõ về quy trình quản lý của bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh . Họ thường xuyên chậm trễ trong việc lập các danh sách lao động và quỹ tiền lương; biểu tăng, giảm số lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội ... và thậm chí cả trường hợp họ đã làm đầy đủ các giấy tờ, bảng biểu cần thiết nhưng lại cố tình không chuyển tiền vào tài khoản của bảo hiểm xã hội thành phố . Chính vì vậy, số thu bảo hiểm xã hội của quý này thì phải đến các quý sau đó mới thu được. Bên cạnh đó cũng có những cơ quan mà ban lãnh đạo cố tình chiếm dụng tiền bảo hiểm xã hội để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của họ...
b. Đối với quá trình chi bảo hiểm xã hội
Mặc dù thu được những thành tựu rất quan trọng trong quá trình đổi mới nhưng công tác chi trả trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những bất cập mà chủ yếu là từ cơ chế chính sách của Nhà nước, vì vậy mà công tác chi trả gặp nhiều khó khăn và không bảo đảm được nguyên tắc cân bằng thu chi của quỹ bảo hiểm xã hội, thậm chí trong một số trường hợp nó còn mất đi tính chất bảo đảm cho cuộc sống của người lao động. Những tồn tại của công tác thu chi là:
* Mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội là quá cao
So với các mức hưởng quy định trong công ước 102, hoặc so với các nước trên thế giới thì mức hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội của nước ta là quá cao. Điều này được minh hoạ thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 13: Mức hưởng bảo hiểm xã hội theo Công ước 102
Chế độ
Công ước 102
Nước ta
ốm đau
45%
75%, thời gian hưởng 30-50 ngày/ năm
Thai sản
45%
100%, thời gian hưởng 4-6 tháng
Hưu trí
40%
75%, có 3 năm đóng bảo hiểm xã hội
Tử tuất
40%
40-70% lương tối thiểu/định suất, không quá 4 định suất
(Nguồn: BHXH Việt Nam)
Còn đối với các nước khác thì mức hưởng của họ thường xuyên xoay quanh mức hưởng quy định tại Công ước 102 và thường thấp hơn của nước ta. Chẳng hạn như ở Thái Lan, chế độ ốm đau được hưởng 50% lương, chế độ thai sản là 50% lương nhưng chỉ được nghỉ 3 tháng. ở Pháp chế độ hưu trí được hưởng 50% lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội... Đây là nguyên nhân quan trọng nhất làm mất khả năng cân đối của quỹ bảo hiểm xã hội.
* Các chế độ bảo hiểm xã hội còn có những bất cập
- Chế độ ốm đau:
ốm đau dài ngày đối với một số bệnh thực tế là tàn phế suốt đời như: xuất huyết lão, tâm thần... áp dụng chế độ ốm đau dài ngày không có giới hạn về thời gian hưởng, gây khó khăn cho người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội. Người lao động ốm dài ngày lại không có chế độ bảo hiểm y tế vì hưởng trợ cấp ốm đau không quy định đóng bảo hiểm y tế nếu như khám lấy giấy nghỉ ốm hoặc điều trị bệnh khác là một trở ngại. Có người thời gian đóng bảo hiểm xã hội dưới 5 năm, hưởng trợ cấp ốm dài ngày nhiều năm, có mức hưởng cao hơn so với người có thời gian đóng bảo hiểm từ 15 đến 20 năm hết tuổi lao động được hưởng trợ cấp hưu 45 đến 55% tiền lương bình quân 5 năm cuối thấp hơn mức trợ cấp ốm đau dài ngày. Chế độ này còn có sự bất hợp lý khác là quy định về số ngày được nghỉ ốm hưởng bảo hiểm xã hội so với thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Theo quy định tại Điều 7 của NĐ12/CP thì người lao động sẽ được nghỉ tối đa là:
+ Nghỉ 30 ngày nếu đóng BHXH dưới 15 năm.
+ Nghỉ 40 ngày nếu đóng BHXH từ 15 năm đến 30 năm.
+ Nghỉ 50 ngày nếu đóng BHXH trên 30 năm.
Khoảng cách tổ ở đây là quá lớn (15 năm) để được nghỉ hưởng bảo hiểm xã hội 30 ngày nghỉ ốm và được nghỉ thêm 10 ngày cho mỗi lần tham gia bảo hiểm xã hội đủ 15 năm tiếp theo. Trong trường hợp đã đóng quá 15 năm thì trung bình mỗi năm tham gia bảo hiểm xã hội được nghỉ 10/15=0,6667 ngày. Như vậy số tiền được trợ cấp là 0,6667*75% *Mức lương = 0,3333*Mức lương.Trong khi đó một năm thì tổng số tiền bảo hiểm xã hội mà người lao động phải đóng góp là 5% * 12 * Mức lương =0,6 * Mức lương. Như vậy mức đóng lớn gấp: 0,6/0,3333 = 18 lần mức hưởng trợ cấp. Đây là điều không hợp lý, không thực hiện được nguyên tắc bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
- Chế độ thai sản:
Nghỉ thực hiện biện pháp kế hoạch hoá gia đình hưởng chế độ ốm đau là không hợp lý vì đây thực chất là thai sản. Trong chế độ này không có quy định thời gian dự bị nên dễ bị các tổ chức, cá nhân trục lợi. Trên thực tế có những chủ doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoặc văn phòng đại diện, kể cả chủ doanh nghiệp tư nhân tuyển dụng lao động có thai 5 hoặc 6 tháng vào làm việc, thời gian tham gia đóng bảo hiểm xã hội mới chỉ được 3 đến 5 tháng, thậm chí có trường hợp mới đóng được có 1 tháng đã nghỉ đẻ để hưởng chế độ thai sản với ít nhất là 5 tháng tiền lương, sau đó không tiếp tục tham gia đóng bảo hiểm xã hội, gây thiệt hại cho quỹ bảo hiểm xã hội. Đây là điều không công bằng trong chế độ bảo hiểm xã hội.
- Chế độ hưu trí:
Trong chế độ này việc trợ cấp trong trường hợp người lao động đóng Bảo hiểm xã hội trên 30 năm được quy định là : cứ 1 năm đóng thêm kể từ năm thứ 30 sẽ được tính thêm 1/2 tháng lương (đây là khoản trợ cấp một lần ngoài 75%). Điều này không hợp lý so với chế độ trợ cấp thôi việc một lần và càng không hợp lý nếu so sánh ẵ tháng lương hưởng 1 lần với 2% hưởng hàng năm khi về hưu. Điều này dẫn đến tình trạng người lao động không muốn tham gia bảo hiểm xã hội sau khi đã có 30 năm đóng bảo hiểm xã hội.
Có một thực tế khách quan là trên thế giới tuổi nghỉ hưu có xu hướng tăng lên, hoặc hết tuổi lao động vẫn khuyến khích người lao động làm việc trong khi đó ở nước ta thì tuổi nghỉ hưu thực tế rất thấp, bình quân là 48 tuổi, trong nhiều trường hợp bộ đội nghỉ hưu từ lúc 38 tuổi. Nếu lấy tuổi thọ bình quân là 68 tuổi thì quỹ bảo hiểm xã hội phải trợ cấp cho người đó trong 30 năm, một số tiền quá cao so với sự đóng góp của họ trong 20 năm ( nếu như họ gia nhập quân đội khi 18 tuổi). Thực tế này đã tạo ra nhiều khó khăn cho việc cân đối qũy bảo hiểm xã hội.
- Chế độ tai nạn lao động:
Chế độ này có quy định trợ cấp cho người lao động khi họ bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi làm việc. Như vậy, trong trường hợp này rất khó xác định được đâu là tuyến đường mà người lao động đi từ nhà đến cơ quan và ngược lại bởi vì trên thực tế rất ít người ngày nào cũng đi một tuyến đường duy nhất từ nhà đến cơ quan. Ngoài ra việc phân phối nhóm tỷ lệ suy giảm khả năng lao động như hiện nay là chưa hợp lý bởi vì chỉ cần khác nhau 1% là mức hưởng đã khác nhau lớn. Ví dụ:
Tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 11 đến 20% thì được hưởng trợ cấp bằng 8 tháng lương.
Tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 21 đến 30% thì được hưởng trợ cấp bằng 12 tháng lương.
Như vậy, không bảo đảm công bằng giữa người lao động bị suy giảm 20% và 21% và dễ dẫn đến hiện tượng trục lợi bảo hiểm khi người lao động khai tăng tỷ lệ suy giảm lao động (chẳng hạn như từ 20 lên 21%).
- Chế độ tử tuất.
+ Về mai táng phí: có thể giữ nguyên mức trợ cấp bằng 8 tháng tiền lương tối thiều , nhưng nên có thêm một khoản trợ cấp nữa, có thể gọi là “trợ cấp lúc qua đời” với mức trợ cấp là 3 tháng tiền lương bình quân tham gia bảo hiểm xã hội của đối tượng. Mục đích của khoản trợ cấp này là để giúp cho thân nhân đối tượng có điều kiện giải quyết khó khăn trong cuộc sống khi người thân vừa mới qua đời.
+ Về trợ cấp một lần: Nếu thân nhân của đối tượng không thuộc diện hưởng tuất thường xuyên, thì được hưởng trợ cấp 1 lần: Cứ mỗi năm tham gia đóng bảo hiểm xã hội được thanh toán bằng 1 tháng lương bình quân tham gia bảo hiểm xã hội, nếu đối tượng vẫn đang làm việc hoặc chờ lương hưu mà bị chết. Về mức hưởng không khống chế tối đa, trường hợp đối tượng có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội chưa đến 1 năm thì cũng chỉ tính bằng 1 năm trợ cấp.
* Lồng ghép chính sách bảo hiểm xã hội với các chính sách xã hội khác
Có nhiều chính sách xã hội được lồng ghép vào chính sách bảo hiểm xã hội, trong khuôn khổ bài viết này em xin đề cập đến hai chính sách xã hội lớn đó là: chương trình kế hoạch hoá gia đình và chính sách ưu đãi đối với lực lượng công an nhân dân.
Trong chế độ thai sản chỉ quy định trợ cấp cho người lao động nữ khi họ sinh con lần 1, lần 2, tức là không được trợ cấp khi sinh con thứ 3 (trừ trường hợp sinh đôi trong lần sinh thứ hai). Đây là điều không đúng với bản chất của chế độ thai sản. Theo bản chất của chế độ này thì cứ khi lao động nữ sinh con thì được trợ cấp bảo hiểm xã hội để đảm bảo sức khoẻ và có điều kiện tốt để chăm sóc tốt con của họ. Như vậy, trong trường hợp trên thì quyền lợi của người lao động không được đảm bảo do đã vi phạm chính sách xã hội khác của Nhà nước mặc dù đã đóng bảo hiểm xã hội.
Đối với lực lượng công an nhân dân khi tham gia bảo hiểm xã hội họ được Nhà nước ưu đãi rất lớn vì có công lớn trong việc bảo vệ an ninh quốc gia. Chính vì vậy, trong chính sách bảo hiểm xã hội áp dụng cho đối tượng này cũng có nhiều sự ưu ái, chẳng hạn như : Sĩ quan, hạ sĩ quan công an nhân dân khi ốm đau vẫn được hưởng trợ cấp bằng 100% tiền lương mà không khống chế thời gian hưởng và mức hưởng; Khi xuất ngũ được trợ cấp bằng 1,5 tháng tiền lương cho mỗi năm công tác, tính theo lương đang hưởng trước khi xuất ngũ. Chính sự ưu đãi này của Nhà nước đã làm sai lệch nguyên tắc đóng - hưởng trong bảo hiểm xã hội vì vậy làm cho quỹ bảo hiểm xã hội bị thâm hụt.
* Mức tính trợ cấp chưa hợp lý.
Chúng ta hiện nay đang dùng mức bình quân 5 năm cuối để tính mức lương bình quân hưởng trợ cấp là không hợp lý, không đảm bảo quyền lợi cho người lao động có mức tiền lương trước khi nghỉ hưu thấp. Để đảm bảo công bằng cho tất cả các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội thì chúng ta phải tính mức hưởng dựa theo phương pháp bình quân gia quyền cho toàn bộ quá trình đóng bảo hiểm xã hội của người lao động.
* Điều kiện làm việc chưa đầy đủ
Hiện nay trụ sở làm việc của cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Đông Anh rất chật hẹp , cơ quan chỉ được sử dụng 3 phòng trên tầng 2 của khu nhà nằm sau UBND , chung đường vào với UBND . Với một diện tích chật hẹp như vậy thì việc bố trí, sắp xếp các phòng ban rất khó đạt được hiệu quả.
Chương III: Một số ý kiến, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu -quản lý thu và giải quyết nơ đọng Bảo hiểm xã hội ở cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện đông anh
1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội , xây dựng luật bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ở nước ta ra đời muộn, lại hoạt động trong hoàn cảnh đất nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh, đang khôi phục nền kinh tế để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề tổ chức bảo hiểm xã hội ở nước ta còn nhiều tồn tại cần giải quyết trong đó có việc ban hành các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội. Với một hệ thống văn bản khá cồng kềnh do nhiều cơ quan chức năng ban hành đã làm cho việc hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, kiểm soát các văn bản trên gặp nhiều khó khăn, tạo ra nhiều kẽ hở dẫn đến hoạt động bảo hiểm xã hội kém hiệu quả, quỹ bảo hiểm xã hội trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Việc thay đổi thường xuyên các văn bản hướng dẫn với nội dung không rõ ràng, không thống nhất với nhau đã gây khó khăn cho các cán bộ bảo hiểm xã hội và phản ứng từ phía chủ sử dụng lao động và người lao động. Vì vậy, xây dựng hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách và rất cần thiết. Cụ thể:
- Để hình thành hệ thống pháp luật về bảo hiểm xã hội đồng bộ và có hiệu lực, trước hết cần phải sắp xếp và rà soát lại toàn bộ các văn bản bảo hiểm xã hội từ trước tới nay. Xem xét hiệu quả việc thực hiện các văn bản đó để loại bỏ hoặc điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp với nhu cầu quản lý mới của nền kinh tế thị trường. Các văn bản không phải mang tính mệnh lệnh đơn thuần mà phải phù hợp với nguyện vọng của phía người tham gia để việc thực hiện đạt kết quản cao.
- Nâng cao chất lượng cũng như khả năng thực thi của các văn bản mang tính pháp lý về hoạt động bảo hiểm xã hội, hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội phù hợp với mọi thành phần kinh tế và mọi hoạt động kinh tế trong cả nước để đảm bảo tính chất xã hội hoá của bảo hiểm xã hội. Luật bảo hiểm xã hội phải đáp ứng được tiến trình đổi mới kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng được mục tiêu chiến lược về con người trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần xác định rõ trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, vai trò của công đoàn, để đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp và quyền bình đẳng cho mọi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Luật xác định rõ hệ thống tổ chức của bảo hiểm xã hội , hệ thống hoạt động có cơ chế kiểm tra, kiểm soát đảm bảo quyền lợi cho người lao động và nguồn quỹ lớn mạnh.
- Chính phủ cần tăng cường sự điều hành với bảo hiểm xã hội, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động bảo hiểm xã hội và đề ra các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp, tránh tình trạng những hậu quả xấu không biết quy trách nhiệm cho ai, cho cơ quan nào.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra và kiểm soát việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội để phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm hoặc những điểm không phù hợp với thực tế.
2. Có chương trình quy hoạch đào tạo và sử dụng cán bộ
Đội ngũ cán bộ của ngành bảo hiểm xã hội hiện nay được chuyển từ Liên đoàn Lao động và Phòng lao động thương binh và xã hội sang. Đại đa số các cán bộ chưa qua đào tạo đại học, thiếu kinh nghiệm quản lý. Một số cán bộ ở cấp tỉnh, huyện trong quá trình làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, tiếp cận với các văn bản của Nhà nước một cách thụ động thiếu tính sáng tạo, phong cách làm việc còn mang tính chất hành chính quan liêu. Vì vậy, việc đổi mới xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ngành bảo hiểm xã hội là một vấn đề cấp thiết mang tính khách quan. Gần đây ở một số địa phương đã giải quyết cho cán bộ vừa làm vừa đi học tại chức để họ nâng cao được trình độ nghiệp vụ cũng như quản lý. Song đó mới chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế nên khó tránh khỏi tình trạng chắp vá cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, chúng ta phải xây dựng một định hướng đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ của toàn ngành bảo hiểm xã hội:
- Hình thành trung tâm đào tạo về đại học tại chức, nghiệp vụ tài chính kế toán, quản lý kinh tế, tin học riêng cho ngành bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh. Cần phải có chương trình đào tạo phù hợp, đáp ứng được cả nhu cầu hiện tại và trong tương lai. Ngoài ra thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ bảo hiểm xã hội các quận, huyện.
- Đối với việc tuyển dụng cán bộ ngành bảo hiểm xã hội không chỉ chú ý đến số lượng mà phải quan tâm đến chất lượng cán bộ, đặc biệt là đối với chức danh giám đốc và kế toán trưởng. Cần lựa chọn các có nhân tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điểm lập trường đúng đắn, có tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp, gắn bó với người lao động.
- Coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ:
Một phương án hữu hiệu đang được nhiều ngành mũi nhọn áp dụng đó là lực lượng sinh viên. Để thu hút nhân tài nên đi thẳng vào các trường đại học có chuyên ngành bảo hiểm, hỗ trợ tiền cho các sinh viên xuất sắc theo hợp đồng thoả thuận khi họ tốt nghiệp sẽ về công tác cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
Tóm lại, muốn xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội của Việt Nam vững mạnh thì Đảng và Nhà nước phải tăng cường đầu tư cho ngành này để có một chương trình đào tạo và sử dụng hợp lý và khoa học. Bên cạnh đó bản thân ngành bảo hiểm xã hội cũng phải nỗ lực triển khai các chương trình đào tạo đó.
3. Mở rộng nguồn thu bảo hiểm xã hội
Xuât phát từ nguyện vọng của người lao động và phương hướng xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế. Khi mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội chính là đã tạo ra mạng lưới bảo vệ rộng khắp, che chắn cho mọi người lao động không bị rơi vào cảnh túng quẫn, một xã hội có sự liên kết cộng đồng tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, Nhà nước ta cần ban hành các chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện. Hình thức bảo hiểm xã hội này đã được Bộ luật Lao động và Nghị định 12/CP khẳng định song vẫn chưa được thực hiện. Đây là hoạt động vừa mang tính chất thương mại vừa mang tính chất xã hội nên phải có đối tượng tham gia và phải hình thành nguồn quỹ có khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả đồng thời phải có sự giúp đỡ của Nhà nước. Đất nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, thực hiện cơ cấu nhiều thành phần nên số lượng lao động ngày càng tăng kéo theo sự gia tăng của các đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội. Đối tượng của bảo hiểm xã hội hiện nay mới chỉ dừng lại ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể và các đơn vị có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Mà nước ta là một nước nông nghiệp, 80% dân số sống bằng nghề nông, ngoài ra còn có thợ thủ công, người buôn bán nhỏ... Các đối tượng này chiếm đại bộ phận trong tổng số lao động nước ta vẫn chưa được tham gia bảo hiểm xã hội. Trên thực tế mới chỉ có khoảng hơn 4 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn hơn 30 triệu lao động chưa có điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội. Do vậy, Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu để cho mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội. Có thể có các hướng giải quyết sau:
- Mức góp hiện nay dựa trên tiền lương cơ bản (gồm lương cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch bảo lưu và các khoản phụ cấp thâm liên, chức vụ bầu cử, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ). Trong khi đó thu nhập thực tế của người lao động lại không ngừng tăng lên. Hiện tại nhiều doanh nghiệp có thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/tháng/người. Do vậy, nên có hình thức bảo hiểm xã hội bổ sung, khuyến khích người lao động tự nguyện đóng góp cao hơn, ứng với thu nhập thực tế, xem xét mức thưởng của họ sao cho phù hợp để đảm bảo có sự đảm bảo an toàn cho quỹ bảo hiểm xã hội và quyền lợi của họ. Trong hình thức này chủ sử dụng lao động không có liên quan.
- ở nước ta hiện nay số lượng doanh nghiệp có quy mô nhỏ dưới 10 lao động tương đối lớn. Vì thế, nên mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến các doanh nghiệp này.
Để đẩy mạnh công tác thu cần ban hành ngay các văn bản pháp luật buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải đóng bảo hiểm xã hội. Nên có quy định buộc các doanh nghiệp này khi đăng ký kinh doanh phải đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội thì mới cấp giấy phép kinh doanh. Đây là một vấn đề bức xúc cần được làm ngay. Đồng thời có các văn bản hướng dẫn công tác chi trả để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi.
- Đối với các đối tượng chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì cần áp dụng hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện đặc biệt là đối với nông dân. Hiện nay, nước ta có khoảng 28 triệu lao động nông thôn chiếm khoảng 71% tổng số lao động cả nước, hầu hết chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp bình quân 4,3% năm, đóng góp khoảng 40% GDP, 40% kim ngạch xuất khẩu, đời sống của người nông dân hơn 10 năm đổi mới đã được nâng lên rõ rệt. Theo tính toán của ESCAP, số người cao tuổi ở Việt Nam năm 1998 khoảng gần 5 triệu người, đến năm 2000 lên tới 5,4 triệu người và năm 2025 là 12,3 triệu người. Trong số người cao tuổi ở nông thôn chỉ có một tỷ lệ không đáng kể là cán bộ công nhân viên, bộ đội... về hưu hoặc nghỉ mất sức lao động có chế độ bảo hiểm xã hội. Một số khác thuộc đối tượng chính sách của Nhà nước, còn lại đại bộ phận là không có chế độ bảo hiểm xã hội. Qua điều tra khảo sát 50% người về hưu, mất sức lao động ở nông thôn có thu nhập từ bảo hiểm xã hội dưới mức lương tối thiểu, 90% số người cao tuổi ở nông thôn vẫn đang phải làm việc để tăng thu nhập (72% phải dựa vào con cháu, 28% phải có sự trợ giúp khẩn cấp của Nhà nước và cộng đồng). Vì vậy, mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn là tất yếu khách quan, là nguyện vọng của hàng triệu lao động nông thôn hiện nay. Tuy nhiên đây là vấn đề hết sức phức tạp cần phải được nghiên cứu kỹ cả về lý luận lẫn thực tiễn. Sau đây là một vài kiến nghị về mô hình bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn:
+ Nên thực hiện ở vùng đồng bằng trước vì đây là nơi tập trung nhiều lao động nông thôn.
+ Khuyến khích các hộ giàu tham gia trước sau đó giúp đỡ các hộ nghèo, gia đình chính sách tham gia.
+ Quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu do người lao động tham gia đóng góp, Nhà nước hỗ trợ khi cần thiết.
Nhà nước cần phải thiết kế chính sách và hệ thống bảo hiểm xã hội cho lao động nông thôn nằm trong hệ thống quản lý thống nhất của bảo hiểm xã hội Việt Nam.
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hạch toán độc lập, cân đối thu chi nên việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội là hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về bảo hiểm xã hội trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
Đó là nâng cao nhận thức xã hội đối với bảo hiểm xã hội, đưa ra những hình thức tuyên truyền hiệu quả hơn và đã xây dựng được đội ngũ đông đảo cộng tác viên. Nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung số đông người lao động, chủ sử dụng lao động chưa có hiểu biết rõ ràng về bảo hiểm xã hội, thêm vào đó công tác tuyên truyền chưa được quan tâm một cách đúng mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền cần phải thực hiện theo các hướng sau:
- Về nội dung:
Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ bảo hiểm xã hội, giải đáp hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành... Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít được đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của bảo hiểm xã hội. Nếu chúng ta làm được điều đó thì sẽ từng bước thay đổi được tâm lý nặng nề của họ hiện nay là bắt buộc phải đóng bảo hiểm xã hội. Từ đó hình thành ở họ thái độ tự giác, tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội và có trách nhiệm nộp bảo hiểm xã hội. Trước đây chúng ta thường tuyên truyền nhiều về nội dung thu chi, quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và giải quyết về bảo hiểm xã hội là chưa đủ. Đó mới chỉ là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành riêng cho nội bộ ngành, chưa thu hút được đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khác trong xã hội.
- Về hình thức tuyên truyền:
Tạp chí bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội. Thời gian qua, các bài báo viết chủ yếu là của các nhà quản lý bảo hiểm xã hội, đội ngũ cộng tác viên chưa đáp ứng được số lượng, chất lượng bài viết. Để phục vụ độc giả tốt hơn, tạp chí bảo hiểm xã hội phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thực hiện. Trước hết là đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên phải có những bài viêt với chất lượng cao. Bài viết không dừng lại ở thông tin một cách đơn thuần những kết quả đã đạt được mà phải dựa trên sự phân tích một cách khoa học, mang tính lập luận nghiệp vụ về bảo hiểm xã hội. Bài viết đăng trên tạp chí phải đầy đủ thông tin cần thiết và chính xác cập nhật. Đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên trong và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn, trách nhiệm cao.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chung (Đài truyền hình, truyền thanh, báo chí...) để tuyên truyền sâu rộng hơn về bảo hiểm xã hội. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây được sự chú ý của mọi người.
Tổ chức thực hiện một số hình thức tuyên truyền trực quan sinh động: in tờ gấp, tranh cổ động, áp phích, sách hỏi đáp giới thiệu về pháp luật và các chế độ bảo hiểm xã hội, phát hành rộng rãi đến từng đơn vị sử dụng lao động.
Có biện pháp để thu hút các nhà chuyên môn, chuyên gia nổi tiếng trên các lĩnh vực: văn hoá, hội hoạ, nhạc kịch... Sáng tác các tác phẩm có tinh hoa văn hoá nghệ thuật cao,có nội dung tuyên truyền được quần chúng ưa thích. Các bài hát, bài thơ, các vở kịch, phim tranh cổ động phải được dàn dựng, thể hiện và trình bày công phu để giới thiệu rộng rãi đến toàn xã hội với cách tốt nhất là thông qua đài truyền hình, qua các cuộc thi.
Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có các đại diện của cơ quan bảo hiểm xã hội, chủ sử dụng lao động, đại diện của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về bảo hiểm xã hội giúp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của caccs bảo hiểm xã hội, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đồng thời qua đó thu nhập tổng hợp các ý kiến thắc mắc đóng góp từ phía người lao động, chủ sử dụng lao động để đưa ra các biện pháp phù hợp với nguyên vọng của họ.
Phấn đấu mỗi cán bộ bảo hiểm xã hội là một tuyên truyền viên vì hơn ai hết họ hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội .
Hiệu quả của tuyên truyền phải được đánh giá bởi mức độ ảnh hưởng thay đổi nhận thức, thái độ của đối tượng tham gia theo mục đích đã định, số lượng đối tượng được tuyên truyền, chi phí cho tuyên truyền.
5. Hoàn thiện nghiệp vụ quản lý thu chi, đưa hệ thống hoá vi tính vào công tác quản lý thu chi quỹ bảo hiểm xã hội
Công tác thu bảo hiểm xã hội có yêu cầu rất cao đối với những cán bộ làm công tác này. Nó đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc. Do vậy cần có những chế độ ưu đãi đối với họ như: phương tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta có thể tiến hành các hình thức khen thưởng, động viên đến các đơn vị luôn thực hiện đúng tiến độ thu bảo hiểm xã hội. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền bảo hiểm xã hội thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền bảo hiểm xã hội thì phải có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chúng ta không thể dừng lại ở các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu như họ thấy tiền lãi thu được do việc chiếm dụng quỹ bảo hiểm xã hội vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp phạt mà trong một số trường hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ.
Công tác chi trả cũng cần phải được đổi mới cho phù hợp với nhu cầu của cuộc sống. Đối với các cán bộ chi trả lương hưu và trợ cấp tại các tổ, phường trên địa bàn quận thì phải không ngừng nâng cao mức thù lao cho họ để họ có thể yên tâm làm công tác này, đem lại hiệu quả chi trả cao hơn. Đối với cán bộ làm công tác chi trả 2 chế độ ốm đau, thai sản ở các đơn vị cũng phải có mức thù lao thoả đáng đặc biệt là đối với những đơn vị có đông lao động, có nhiều lao động nữ, điều kiện làm việc cho người lao động chưa đảm bảo.
Hiện nay, đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đang vững bước trên con đường CNH-HĐH nền kinh tế nước ta. Chúng ta đang mạnh mẽ áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý, vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Ngành bảo hiểm xã hội cũng đã đưa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ "có máy vi tính". Hiện nay ở hầu hết các cơ quan bảo hiểm xã hội đều có hơn 2 chiếc máy vi tính nhưng số lượng cán bộ bảo hiểm xã hội biết sử dụng thành thạo nó thì có rất là ít, thậm chí có nơi không có. Các cán bộ của ngành bảo hiểm xã hội mới chỉ dừng lạỉ việc bắt đầu biết sử dụng máy tính mà chưa khai thác được hết hiệu quả mà máy tính đem lại trong công tác thu chi quỹ bảo hiểm xã hội. Mặt khác do chưa được quan tâm đúng mức nên hệ thống các chương trình phần mềm chuyên ngành của ngành bảo hiểm xã hội chưa đuợc đồng bộ, chưa tạo ra sự thuận tiện cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Bên cạnh đó hệ thốn phần mềm này còn thiếu tính năng bảo mật nên rất dễ bị đánh cắp số liệu. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo, Nhà nước nên cung cấp kinh phí cho ngành bảo hiểm xã hội để họ có đủ điều kiện đưa hoạt động tin học trong quản lý có hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phần mềm quản lý cũng như việc mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ trong toàn ngành bảo hiểm xã hội cả về các kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu quả phần mềm chuyên ngành.
6. Bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội
Muốn công tác chi trả được thực hiện tốt hơn và để đảm bảo khả năng chi trả thì phải có các biện pháp bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Để bảo tồn được giá trị của quỹ cần phải sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ, cần tăng nguồn thu, chi đúng mục đích, đối tượng và tăng cường công tác kiểm tra sử dụng quỹ. Do vậy, cần phải đầu tư quỹ sao cho có hiệu quả cao nhất trên nguyên tắc đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro. Trong những năm tới chúng ta vẫn phải tiến hành đầu tư trên các lĩnh vực quen thuộc như: mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, cho các tổ chức tín dụng của Nhà nước vay, đầu tư vốn vào các doanh nghiệp lớn được sự bảo hộ của Nhà nước. Bên cạnh đó chúng ta sẽ phải tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao hơn mặc dù yếu tố rủi ro cũng tăng lên để đa dạng hoá các loại hình đầu tư. Đây là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới vừa đem lại lợi nhuận cao hơn vừa hạn chế được yếu tổ rủi ro.
Kết luận
Qua thời gian nghiên cứu học tập tại trường cùng với thời gian thực tập thực tế tại cơ quan BHXH huyện Đông Anh, được sự hướng dẫn tận tình của toàn thể cán bộ công chức trong cơ quan về phương pháp, tình hình thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm cũng như tình hình hoạt động bảo hiểm trên thị trường hiện nay nói chung và ở cơ quan BHXH xã hội huyện nói riêng. Kết quả phân tích trong thời gian qua về tình hình hoạt động của cơ quan BHXH huyện cho thấy bên cạnh những gì đã đạt được còn tồn tại rất nhiều những khó khăn. Chính những khó khăn, tồn tại này đã gây ra rất nhiều cản trở ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của cơ quan. Tranh thủ tối đa những thuận lợi đang có đồng thời khắc phục những khó khăn trên là nhiệm vụ của cơ quan trong thời gian tới để nhằm đứng vững và đi lên trong điều kiện cạnh tranh, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm cũng như của nền kinh tế.
Qua thời gian học tập tại trường và thực tập tại cơ quan bảo hiểm xã hội huyên Đông Anh - Hà Nội, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo-TSNguyễn Văn Định , các thầy, cô trong bộ môn Bảo hiểm cùng toàn thể cán bộ công chức cơ quan BHXH . Mặc dù có nhiều cố gắng song do thời gian thực tập có hạn, trình độ lí luận và thực tiễn còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất mong muốn nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô và các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29870.doc