Đất nước Việt Nam sau khi chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với định hướng của Đảng đã thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển, đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp Việt Nam ngày càng gia tăng, vì có sự gia nhập của các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài. Để từ đó việc giao lưu buôn bán trong nước cũng như trên thế giới ngày càng phong phú về các mặt hàng tiêu thụ. Qua đó Nhà nước dựa trên thế mạnh tiêu thụ các mặt hàng hóa, dịch vụ của đất nước để đánh các loại thuế. Nhất là thế mạnh của thuế GTGT sau khi Nhà nước áp dụng.
Thật vậy, khi thực hiện hệ thống thuế GTGT đã và đang giúp hệ thống hạch toán kế toán thích nghi với các loại hình doanh nghiệp sản xuất tiêu thụ trong nước. Chính vì vậy, một lần nữa lại khẳng định rằng, với công tác quản lý thuế GTGT một cách hoàn hảo, dễ hiểu, dễ áp dụng đã giúp các ông chủ doanh nghiệp thuận tiện trong việc kinh doanh. Hay nói cách khác tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, từ đó mang lại thu nhập của đất nước tăng và chúng được thể hiện thông qua việc thu ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên với sự hiểu biết và kinh nghiệm còn hạn hẹp trong vấn đề về thuế GTGT, vì thế đề tài chưa được mở rộng, phong phú và còn nhiều thiếu sót. Bởi vậy em rất mong sự giúp đỡ của các thầy cô giáo để giúp em khắc phục những nhược điểm này.
Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự tận tình giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn Năng Phúc đã giúp em thực hiện đề tài này.
29 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1192 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bàn về vấn đề hạch toán thuế giá trị gia tăng trong các doanh nghiệp hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uế.
Có rất nhiều ý kiến bàn luận xung quanh vấn đề này từ những góc độ khác nhau với những giải pháp có giá trị thực tiễn. Với mong muốn góp một cách nhìn về thuế GTGT trong thực tiễn áp dụng thuế GTGT hiện nay, em đã chọn đề tài: “Bàn về vấn đề hạch toán thuế giá trị gia tăng trong các doanh nghiệp hiện nay“.
Do kiến thức và trình độ lí luận còn hạn chế, em rất mong được sự hướng dẫn của thầy cô để hoàn thiện hơn nhận thức của bản thân về vấn đề này. Em xin trân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Năng Phúc đã hướng dẫn em thực hiện đề tài này.
B.Nội dung
Phần i: lí luận chung về thuế GTGT
1.Khái quát chung về thuế GTGT.
Luật thuế GTGT đã được thông qua trong kì họp thứ XI Quốc hội khóa IX ngày 10 tháng 5 năm 1997 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1999. Việc thay thế thuế doanh thu trước đây bằng thuế GTGT được coi là một trong những thành công quan trọng trong cải cách thuế ở nước ta cho phù hợp với tình hình mới. Đến nay lí luận về thuế GTGT vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện về mặt pháp lí cũng như việc áp dụng vào thực tế.
1.1.Khái niệm về thuế GTGT
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu được tính thêm trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Với khái niệm trên, thuế GTGT là loại thuế được thu theo sự phân đoạn của quá trình sản xuất – lưu thông hàng hóa, dịch vụ từ khâu đầu đến khâu cuối cùng trong một chu trình sản xuất – lưu thông hàng hóa, dịch vụ từ khâu đầu đến khâu cuối cùng trong một chu trình kinh tế khép kín. Xét trên phạm vi toàn xã hội, thuế GTGT được tính trên tổng giá trị sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường.
1.2.Cơ sở ra đời thuế GTGT
Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta từ ngày 01 tháng 01 năm 1999. Trước đó trong một thời gian dài nước ta sử dụng thuế doanh thu. Đây là loại thuế gián thu, thu trên doanh thu của doanh nghiệp nhằm động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng cho ngân sách Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội, kiểm soát kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
Thuế doanh thu được tính như sau:
Thuế doanh thu phải nộp = Doanh thu tính thuế x Thuế suất tương ứng (1)
Trong đó: doanh thu tính thuế là tổng doanh thu bán hàng chưa trừ một phí tổn nào. Thuế doanh thu được thu hàng tháng và được hạch toán như một khoản giảm trừ doanh thu.
Có thể thấy việc tính toán thuế phải nộp khá đơn giản vì được thực hiện trực tiếp trên doanh thu bán hàng mà không phải qua bước trung gian là xác định thuế đầu vào, đầu ra như của thuế GTGT. Song chính bản thân cách tính thuế cũng làm nảy sinh không ít bất cập:
Thứ nhất, là sự trùng lắp trong cách tính thuế, thuế đánh chồng lên thuế. Nếu gọi T là thuế doanh thu phải nộp, Dt là doanh thu tính thuế, Gt là giá trị tăng thêm, Cp là toàn bộ chi phí đầu vào tham gia cấu thành giá trị mới và t là thuế suất doanh thu thì công thức (1) có thể biểu diễn lại như sau:
T = Dt x t = (Gt + Cp) x t = Gt x t + Cp x t (2)
Từ (2) ta thấy rằng: trong doanh thu tính thuế có 1 bộ phận giá trị đầu vào tham gia cấu thành giá trị mới. Bản thân bộ phận giá trị này cũng đã bị đánh thuế với một mức thuế suất quy định khi là đầu ra của khâu trước ở doanh nghiệp khác và khi tham gia giá trị mới nó lại tiếp tục bị đánh thuế một lần nữa với một mức thuế suất khác ( Thường là cao hơn ). Như vâỵ, sản phẩm, hàng hóa, càng tham gia vào nhiều chu trình sản xuất ở các doanh nghiệp khác nhau thì sự trùng lắp trong đánh thuế càng nhiều và giá trị trùng lặp càng lớn. Theo đó, doanh nghiệp ở các giai đoạn sau chịu thiệt nhiều hơn ở giai đoạn trước.
Bên cạnh đó, thuế doanh thu là thuế gián thu, tức là trong gía bán đã có thuế (doanh thu tính thuế), tức là chịu thêm một lần thuế nữa. Điều đó cho thấy thuế doanh thu đã tính trùng thuế không chỉ hai lần mà rất nhiều lần. Hệ quả là một nghịch lý: doanh nghiệp càng tiêu thụ nhiều thì càng bị thiệt hại và thực tế đã rất nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng lỗ vốn do nộp thuế quá nhiều dù trên báo cáo tài chính cho kết quả lãi.
Thứ hai, thuế doanh thu đánh vào tài sản đầu tư nên không khuyến khích phát triển sản xuất. Thuế doanh thu là loại thuế gián thu, nghĩa là doanh nghiệp không phải là người chịu thuế nhưng trên thực tế thuế doanh thu mà doanh nghiệp đã trả trong giá thanh toán đầu vào không được trả lại cho doanh nghiệp, ngược lại doanh nghiệp phải gánh chịu như một chi phí. Như thế kể cả hàng năm trong kho chưa tiêu thụ (do đó chưa phát sinh doanh thu) cũng bị đánh thuế. Điều này mâu thuẫn với quy định tính thuế là tính trên doanh thu tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ chịu thuế, đồng thời gây cho các doanh nghiệp tâm lí không muốn mở rộng đầu tư do càng bỏ vốn đầu tư họ càng phải nộp thuế nhiều. Về điểm này, hoàn thuế trong thuế GTGT rõ ràng là một sự vượt trội
Đầu vào bị đánh thuế, đầu ra cũng bị đánh thuế, số thuế phải chịu lớn hơn thực tế gấp nhiều lần do tính trùng lắp là hạn chế lớn nhất của thuế doanh thu, khiến cho thuế doanh thu không những không thúc đẩy sản xuất kinh doanh mà còn làm thu hẹp các giao dịch kinh tế, giảm hiệu quả hoạt động kinh tế của các hoạt động kinh doanh. Mặt khác chính gánh nặng thuế cùng sự bất cập của cơ chế quản lý thuế đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm mọi cách để trốn thuế làm thất thu ngân sách Nhà nước, tạo ra sự không bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia kinh doanh.
Thư ba, hệ thống thuế suất 11 mức quá phức tạp, khó áp dụng, khó quản lí, là kẽ hở nảy sinh nhiều gian lận nhằm trốn thuế, tránh thuế. Hơn nữa các mức thuế suất khác nhau còn làm tăng mức độ trùng lắp của thuế, đồng thời gây ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, kinh doanh các mặt hàng khác nhau và do đó chịu thuế suất khác nhau.
Thứ tư, thuế doanh thu trong giá mua được coi như một chi phí đầu vào, trong giá bán được coi như một khoản giảm trừ doanh thu đã làm sai lệch về bản chất thuế gián thu: về nguyên tắc người nộp thuế không phải là người chịu thuế, theo đó doanh nghiệp chỉ nộp hộ người tiêu dùng - đối tượng chịu thuế – và thu hộ Nhà nước số thuế doanh thu trong giá bán khi tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa. Nói cách khác, thuế doanh thu mang tính trung lập về kinh tế và bản chất nó không phải là thu nhập hay chi phí của doanh nghiệp. Nhưng tính chất này đã không được thể hiện trong hạch toán thuế doanh thu.
Với những nhược điểm trên, việc áp dụng thuế doanh thu trong một thời gian dài đã làm thu hẹp các hoạt động kinh tế ngoài ý muốn và tỏ ra không phù hợp với nền kinh tế mới của Việt Nam đang trên đường hội nhập đời sống kinh tế quốc tế. Yêu cầu của cải cách hệ thống thuế đã dẫn tới sự ra đời thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu với mục đích khắc phục các mặt hạn chế của thuế doanh thu, kích thích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
1.3.Đặc trưng của thuế GTGT.
Thuế GTGT là loại thuế gián thu, có nghĩa đây là loại thuế điều tiết thu nhập của người tiêu dùng. Về nguyên tắc, luôn có sự tách biệt giữa người nộp thuế và người chịu thuế. Người nộp thuế là các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng thuộc diện chịu thuế GTGT, người chịu thuế là người tiêu dùng các mặt hàng đó, nói cách khác thuế GTGT mang tính trung lập về kinh tế, nó được cộng vào giá bán tạo nên mức giá mới người tiêu dùng phải trả cho sự tiêu dùng hàng hóa dịch vụ. Doanh nghiệp thu hộ phần thuế đó cho Nhà nước qua tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, cũng như nộp hộ người tiêu dùng khi mua các đầu vào tính thuế. Phần chênh lệch giữa thuế thu hộ và nộp hộ chính là số thuế phải nộp Nhà nước hoặc được hoàn lại thông qua cơ chế khấu trừ thuế đầu vào. Điều đó cũng có nghĩa là thuế GTGT chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được tạo ra trong quá trình lưu thông trên thị trường. Đặc trưng này được thể hiện rõ trong các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: thuế GTGT đầu vào và đầu ra được theo rõi trên các tài khoản riêng, tách biệt hẳn với tài khoản theo dõi giá trị tài sản chịu thuế mua vào và bán ra và không được coi là bộ phận cấu thành giá trị mới của các tài sản đó.
Như vậy, doanh nghiệp chỉ đóng vài trò trung gian nộp hộ và thu hộ trong quá trình Nhà nước điều tiết thu nhập của người tiêu dùng bằng công cụ thuế GTGT. Theo đó, về mặt lí luận, thuế GTGT không phải là thu nhập hay chi phí của doanh nghiệp và không ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của doanh nghiệp trong kinh doanh. Đây là thể hiện rõ nét bản chất thuế gián thu mà thuế doanh thu không thực hiện được.
1.4.Đối tượng nộp thuế GTGT.
Theo luật thuế GTGT thì các doanh nghiệp có thể tính thuế theo một trong hai phương pháp là: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.
Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng là: Cá nhân sản xuất kinh doanh là người Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật thuế đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Các cơ sở kinh doanh vàng, bạc, đá quý ngoại tệ.
Đối tượng áp dụng theo phương pháp khấu trừ thuế là các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác.
1.5.Đối tượng chịu thuế.
Thuế GTGT là loại thuế gián thu, người tiêu dùng phải chịu thuế. Thúê tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình tự nhập khẩu, sản xuất tiêu thụ đến tiêu dùng.
Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam trừ các đối tượng chịu thuế ở Việt Nam ở Điều 4 Nghị Định 28/1998/NĐ-CP.
Còn đối với hàng hóa nhập khẩu, đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa nhập khẩu dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam được phép nhập khẩu qua biên giới hoặc từ khu chế xuất nhập khẩu vào thị trường nội địa.
1.6.Phương pháp tính thuế GTGT
1.6.1.Thuế GTGT được tính theo phương pháp khấu trừ.
Cách tính:
Xác định số thuế GTGT .
Số thuế GTGT phải nộp
=
Thuế GTGT đầu ra
-
Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
Trong đó:
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hóa, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra. Khi lập hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải gi rõ giá bán chưa thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hóa đơn chỉ ghi giá thanh toán không gi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hóa đơn, chứng từ.
Thuế GTGT đầu vào = Tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ hoặc theo chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu.
Thuế GTGT cơ sở kinh doanh được tính khấu trừ quy định như sau: Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào thì được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay ở trong kho. Thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ. Trường hợp cơ sở kinh doanh mua vật tư, hàng hóa không có hóa đơn, chứng từ hoặc có hóa đơn chứng từ không phải hóa đơn thuế GTGT hoặc hóa đơn thuế GTGT nhưng không ghi rõ số thuế GTGT ngoài giá bán thì không được khấu trừ thuế đầu vào, trừ các đối tượng có quy định riêng.
Nhược điểm:
Khi thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của các loại hàng hóa, dịch vụ bán ra chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mà nguyên liệu mua vào lại chịu thuế giá trị gia tăng trực tiếp thì dẫn đến tình trạng thất thoát khấu trừ, đó là chênh lệch giữa phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp với phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Vì có những mặt hàng được khấu trừ thuế đầu vào là 3% nhưng bán ra 10% nên doanh nghiệp được lợi.
Đối với vật tư, hàng hóa mua về dùng đồng thời cho sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT nhưng không tách riêng được thì cuối kỳ, kế toán phải xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không đựoc khấu trừ là rất khó. Cho dù xác định dựa trên cơ sở phân bổ theo tỷ lệ doanh thu nhưng vẫn chưa được hoàn thiện và đấy có thể là khe hở để cho các doanh nghiệp có tính xấu lợi dụng để phục vụ lòng tham của doanh nghiệp trốn thuế dựa trên cơ sở trên.
Ưu điểm:
Đối với cơ sở kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mà thường xuyên có số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT thì được cơ quan thuế cho phép hoàn lại thuế GTGT theo quy định của chế độ thuế.
Các doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ rất dễ quản lý, dễ tính, dễ quyết toán cuối kỳ và đặc biệt là giúp các ông chủ doanh nghiệp hiểu biết được các nguyên tắc thuế GTGT. Vì thế hầu hết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước dường như áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
Nếu số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế GTGT đầu ra phát sinh trong kỳ thì chỉ được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào bằng số thuế GTGT đầu ra, số thuế GTGT đầu vào còn lại được khấu trừ tiếp vào kỳ tính thuế sau hoặc được xét hoàn thuế.
1.6.2.Thuế GTGT được tính theo phương pháp trực tiếp.
Cách tính:
Xác định số thuế GTGT phải nộp:
Số thuế GTGT phải nôp
=
GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
x
Thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ
GTGT của hàng hóa, dịch vụ
=
Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra
x
Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào
Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra là giá bán thực tế bên mua phải thanh toán cho bên bán, bao gồm cả thuế GTGT và các khoản phụ thu, phí thu thêm mà bên mua phải trả.
Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng của hàng hóa, dịch vụ bán ra được xác định bằng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào mà cơ sở sản xuất kinh doanh đã dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra.
Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng cơ sở sản xuất kinh doanh như sau: Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hóa, dịch vụ có hóa đơn chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác định căn cứ vào giá mua, giá bán ghi trên chứng từ.
Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hóa đơn chứng từ bán hàng hóa, dịch vụ. Xác định được đúng doanh thu bán hàng hóa dịch vụ theo hóa đơn bán hàng hóa dịch vụ nhưng không có đủ hóa đơn mua hàng hóa dịch vụ thì GTGT được xác định = Doanh thu x tỷ lệ % GTGT tính trên doanh thu.
Đối với cá nhân, hộ kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hóa đơn mua, bán hàng hóa, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định x tỷ lệ % GTGT tính trên doanh thu
Khi áp dụng phương pháp trực tiếp để tính thuế GTGT thì kế toán phản ánh giá trị vật tư mua vào và doanh thu bán hàng hóa theo giá thanh toán.
Nhược điểm:
Theo hệ thống kế toán thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp cho vào chi phí quản lý, mà chi phí qủan lý là chi phí ảnh hưởng đến kết chuyển lãi lỗ của doanh nghiệp. Do đó khoản thuế GTGT là khoản thuế doanh nghiệp thu hộ từ người tiêu dùng để nộp cho Nhà nước lại cho vào chi phí, vì thế xẽ ảnh hưởng đến thu nhập nếu doanh nghiệp có ý định trốn thuế, cho nên cơ quan thuế phải có biện pháp sửa đổi cho phù hợp khi cho vào chi phí.
Vì vậy thuế GTGT phải nộp của hàng hóa, dịch vụ bán ra trong kì của các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên giá trị tăng thêm, không nên hạch toán vào chi phí quản lý doanh nghiệp vì có 2 lí do sau:
Xét về bản chất kinh tế, thuế GTGT là một loại thuế gián thu được tính trên phần giá trị tăng thêm của thành phẩm, hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Khoản thuế này Nhà nước thu của người tiêu dùng, doanh nghiệp chỉ thu hộ Nhà nước và nộp thay cho người tiêu dùng, thông qua quá trình bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Do vậy, thuế GTGT không phải là chi phí mà doanh nghiệp phải chi ra để sản xuất kinh doanh và cũng không phải là thu nhập của doanh nghiệp khi bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
Đánh giá việc vận dụng phương pháp tính thuế GTGT trong kế toán doanh nghiệp. Chế độ kế toán doanh nghiệp hiện nay được xây dựng dựa trên việc vận dụng có chọn lọc các mô hình kế toán, do đó số liệu kế toán ghi chép, phản ánh được coi là cơ sở quan trọng được xác định thuế phải nộp của doanh nghiệp. Mặt khác, vì cuối kỳ mới tính thuế nên công việc kế toán thường dồn vào cuối kỳ, từ đó tạo cho nhân viên bận rộn về cuối kỳ, quý, năm. Khi cho thuế vào chi phí khiến chi phí tăng thêm, thuế thu nhập giảm đi khi đó doanh nghiệp có thể trốn thuế.
Từ những lý do trên, cơ quan thuế nên đưa khoản thuế GTGT phải nộp của các doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp, trên GTGT trong nội dung chi phí sang các tài khoản khác.
2Hạch toán chi tiết:
2.1.Tài khoản chi tiết.
Để hạch toán thuế GTGT đầu vào và đầu ra theo phương pháp khấu trừ kế toán sử dụng tài khoản 133 và 3331.
*Thuế GTGT được khấu trừ có kết cấu như sau:
Bên nợ: Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.
Bên có: Số thuế GTGT đầu vào đã được khấu trừ.
Kết chuyển số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ.
Số thuế GTGT đầu vào đã được hoàn lại.
Dư bên nợ: Số thuế GTGT đầu vào còn được khấu trừ, số thuế GTGT đầu vào được hoàn lại nhưng Ngân sách Nhà nước chưa hoàn trả.
êTài khoản này có 2 tài khoản cấp 2
Tài khoản 1331: Thuế GTGT được khấu trừ của vật tư, hàng hóa dịch vụ. Dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của vật tư, hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
Tài khoản 1332: Thuế GTGT được khấu trừ của tài sản cố định. Dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào của quá trình đầu tư, mua sắm TSCĐ dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
*Thuế GTGT phải nộp có kết cấu như sau:
Bên nợ: Số thuế GTGT được giảm trừ.
Số thuế GTGT đã nộp vào ngân sách Nhà nước.
Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại, bị giảm giá
Bên có: Thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hóa, dịch vụ đã tiêu thụ
Số thuế GTGT phải nộp của hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu tặng, sử dụng nội bộ.
Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập họat động tài chính, thu nhập bất thường
Số thuế GTGT phải nộp của hàng hóa nhập khẩu
Số dư bên nợ: Số thuế GTGT đã nộp thừa vào Ngân sách Nhà nước.
êTài khoản 3331 có hai tài khoản cấp 3:
Tài khoản 33311: Thuế GTGT đầu ra, dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ
Tài khoản 33312: Thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu, dùng để phản ánh thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng hóa nhập khẩu.
2.2.Phương pháp hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
a)Đối với thuế GTGT được khấu trừ.
Khi mua vật tư hàng hóa, TSCĐ dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, kế toán ghi:
Nợ TK 152: Nguyên liệu, vật liệu
Nợ TK 156: Hàng hóa
Nợ TK 211: TSCĐ hữu hình
Nợ TK 213: TSCĐ vô hình.
Nợ TK 611: Mua hàng theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
Nợ TK 133: Thuế GTGT được khấu trừ.
Có TK: 111, 112, 331,…
Khi mua vật tư hàng hóa, dịch vụ dùng ngay vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, kế toán phản ánh giá trị thực tế chưa có thuế GTGT, thuế GTGT đầu ra và tổng giá thanh toán.
Nợ TK 627, 621, 641, 642, 241,…
Nợ TK 133
Có TK 111, 112,331,…
Khi mua hàng hóa giao bán ngay cho khách hàng không qua nhập kho.
Nợ TK 632
Nợ TK 133
Có TK 111, 112, 331,…
Khi trả lại hàng cho người bán, kế toán ghi giảm thuế GTGT đầu vào.
Nợ TK 111, 112, 331,…
Có TK 133
Có TK 152, 156,…
Khi giảm giá hàng bán, kế toán ghi giảm thuế GTGT đầu vào.
Nợ TK 111, 112, 331,…
Có TK 133
Có TK 511, 512
Thuế GTGT được giảm nhận lại bằng tiền, kế toán ghi:
Nợ TK 111
Có TK 721
b)Đối với thuế GTGT đầu ra:
Đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, kế toán viết hóa đơn bán hàng phải ghi rõ giá bán chưa có thuế GTGT, phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có), thuế GTGT phải nộp, tổng giá thanh toán và phản ánh doanh thu bán hàng là tổng số tiền bán hàng, cung cấp dịch vụ kế toán ghi.
Nợ TK 111, 112, 131
Có TK 3331.
Có TK 5111.
Đối với trường hợp bán hàng bị trả lại thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ kế toán ghi:
Nợ TK 531
Nợ TK 3331
Có TK 111, 112, 131,…
Khi có thêm các khoản thu nhập ngoài bán hàng như: Thu nhập hoạt động tài chính, thu nhập bất thường kế toán ghi:
Nợ TK 111, 112, 131,…
Có TK 33311
Có TK 711
Có TK 721
Một doanh nghiệp sử dụng sản phẩm của mình cho nội bộ hay biếu tặng thì số thuế GTGT phải nộp của hàng hóa, dịch vụ đó chính bằng số thuế GTGT đầu vào
Nợ TK 133
Có TK 3331
Khi nhập khẩu vật tư, thiết bị, hàng hóa, kế toán ghi số thuế GTGT phải nộp của hàng nhập khẩu. Trường hợp hàng hóa đó sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT thì số thuế GTGT được khấu trừ bằng số thuế GTGT đầu vào kế toán ghi:
Nợ TK 133
Có TK 3331
Trường hợp hàng hóa, dịch vụ đó sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh các mặt hàng không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc dùng vào hoạt động sự nghiệp, chương trình, dự án, văn hóa, phúc lợi thì số thuế GTGT hàng nhập khẩu được khấu trừ, kế toán ghi
Nợ TK 152, 156, 211,…
Có TK 3331
Sơ đồ hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
331,111,112
151,156,152,…
511,512,711,721
131,111,112…
1
2
3
4
5
6
7
8
133
3331
111,112
721
Chú thích:
Giá mua vật tư, hàng hóa, tài sản chưa có thuế GTGT và thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.
Doanh thu bán hàng và các khoản thu khác và thuế GTGT phải nộp trong kỳ
Kết chuyển số thuế GTGT khấu trừ trong kỳ
Thuế GTGT được nhận lại bằng tiền
Nộp thuế cho ngân sách Nhà nước
Thuế GTGT được giảm nhận lại bằng tiền
Thuế GTGT được giảm trừ vào số thuế phải nộp
Thuế GTGT của hàng nhập khẩu phải nộp
* Quyết toán thuế GTGT
Cuối kỳ kế toán xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ vào số thuế GTGT phải nộp trong kỳ, kế toán ghi:
Nợ TK 3331
Có TK 133
Khi nộp thuế GTGT hàng hóa nhập khẩu vào ngân sách Nhà nước, kế toán ghi:
Nợ TK 3331
Có TK 111, 112
*Đối với doanh nghiệp có hai hoạt động đó là: Doanh nghiệp chịu thuế GTGT và doanh nghiệp không chịu thuế GTGT, nhưng khi hàng hóa mua về dùng cho cả hai hoạt động trên thì doanh nghiệp tách thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ dựa trên cơ sở phân bổ theo tỷ lệ doanh thu. Số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ tính vào giá vốn hàng bán trong kỳ, kế toán ghi:
Nợ TK 632
Có TK 133
Trường hợp thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ trong kỳ tính vào giá vốn của kỳ sau kế toán ghi:
Nợ TK 142
Có TK 133
Sang kỳ sau khi thuế GTGT đầu vào được quyết toán vào giá vốn hàng bán kế tóan ghi:
Nợ TK 632
Có TK 142
2.3.Phương pháp hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp.
Đối với các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp khi mua hàng hóa hoặc bán hàng hóa (trừ nhập khẩu hàng hóa), kế toán không phải xác định thuế GTGT được khấu trừ hay phải nộp. Cuối kỳ căn cứ vào giá trị của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và thuế suất từng loại để xác định số thuế GTGT phải nộp của từng hoạt động.
Cụ thể sau đây là mốt số định khoản chủ yếu.
Phản ánh thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu.
Nợ TK 151, 152, 156, 211,…
Có TK 3333
Có TK 3331
Có TK 111, 112, 331.
Phản ánh số thuế GTGT của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nợ TK 642
Có TK 3331
Phản ánh số thuế GTGT của hoạt động tài chính
Nợ TK 811
Có TK 3331
Phản ánh số thuế GTGT phải nộp của hoạt động bất thường
Nợ TK 821
Có TK 3331
Phản ánh số thuế GTGT được giảm trừ.
Nợ TK 3331
Nợ TK 111, 112
Có TK 721
111,112,331…
151,152,211,…
3331
642
721
111,112
811,821
1
2
3
4
5
6
7
Sơ đồ hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp
Chú thích:
Giá mua vật tư, hàng hóa, tài sản cả thuế GTGT
Thuế GTGT phải nộp của hàng nhập khẩu
Thuế GTGT phải nộp trong kỳ của họat động kinh doanh
Thuế GTGT phải nộp trong kỳ của hoạt động tài chính và họat động bất thường
Thuế GTGT được mĩên giảm nhận lại bằng tiền
Nộp thuế GTGT cho Ngân sách Nhà nước
Thuế GTGT được miễn giảm trừ vào thuế GTGT phải nộp
3. Hình thức sổ kế toán và chứng từ sử dụng.
3.1.Chứng từ sử dụng.
Hóa đơn thuế GTGT đối với hàng hóa và dịch vụ được tiêu thụ trong nước.
3.2.Hình thức sổ kế toán.
a)Mẫu thứ nhất
Bộ, sở…
Đơn vị…
Mẫu số: S 53a - H
Sổ chi tiết thuế giá trị gia tăng
Năm…
Chứng từ
Diễn giải
Số thuế đầu vào được khấu trừ
Số thuế đầu ra
Số thuế được giảm
Số thuế phải nộp
Số thuế đã nộp
Số thuế còn phải nộp
SH
NT
A
B
C
1
2
3
4
5
6
Cộng
Người ghi sổ
(Ký, họ tên)
Phụ trách kế toán
(Ký, họ tên)
Ngày…tháng…năm
Thủ trưởng đơn vị
(Ký, đóng dấu)
b)Mẫu thứ hai:
Bộ, sở…
Đơn vị…
Mẫu số: S 53b - H
Sổ chi tiết thuế giá trị gia tăng
Năm…
Chứng từ
Diễn giải
Số thuế phải nộp
Số thuế được giảm
Số thuế thực phải nộp
Số đã nộp
Số còn phải nộp
SH
NT
A
B
C
1
2
3
4
5
Cộng
Người ghi sổ
(Ký, họ tên)
Phụ trách kế toán
(Ký, họ tên)
Ngày…tháng…năm
Thủ trưởng đơn vị
(Ký, đóng dấu)
c)Mẫu thứ ba:
Bộ, sở…
Đơn vị…
Mẫu số: S 54 - H
Sổ chi tiết thuế giá trị gia tăng được hoàn lại
Năm…
Chứng từ
Diễn giải
Số tiền
SH
NT
Thuế giá trị gia tăng được hoàn lại
Thuế giá trị gia tăng đã hoàn lại
A
B
C
1
2
1.Số dư đầu kỳ
2.Số phát sinh trong kỳ
……
Cộng số phát sinh
x
Số dư cuối kỳ
X
4. So sánh thuế GTGT với các loại thuế khác
4.1.So sánh thuế GTGT với thuế doanh thu trước đây.
Sau khi hội nhập kinh tế, Nhà nước ta nhận thấy rằng thuế doanh thu không phù hợp với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy khi đất nước ta ngày càng phát triển, nhu cầu cuộc sồng ngày càng cao, thì thuế doanh thu trước đây không còn đáp ứng được nữa. Từ năm 1995 Nhà nước ta đã thay thuế doanh thu bằng thuế GTGT.
*Khác nhau:
Thuế GTGT là thuế gián thu còn thuế doanh thu là thuế trực thu.
Về phương pháp hạch toán: Thuế doanh thu trước đây cho vào chi phí nên thuế bị đánh chồng lên thuế, nói cách khác không tránh được tính trùng lặp của thuế. Còn thuế GTGT đã khắc phục được tình trạng trên.
4.2. So sánh thuế GTGT và thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB).
*Giống nhau:
Thuế GTGT và thuế TTĐB đều là thuế gián thu, thu hộ nhà nước từ người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.
Cơ sở sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT hay thuế TTĐB có cac mức thuế suất khác nhau thì đều phải kê khai thuế GTGT hay thuế TTĐB theo từng khoản mục khác nhau. Đều phải nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế trong thời hạn chậm nhất không quá 10 ngày đầu của tháng tiếp theo và đều phải nộp thuế vào ngân sách Nhà nước.
*Khác nhau về phương pháp hạch toán:
Thuế TTĐB được tính thẳng vào doanh thu khi bán hàng.
Nợ TK 111, 112, 131,…
Có TK 511,512
Khi nhận được giấy thông báo khi nộp thuế TTĐB của cơ quan thuế thì được ghi giảm trừ doanh thu.
Nợ TK 511, 512
Có TK 3332
Còn thuế GTGT, Nếu hạch toán theo phương pháp khấu trừ thì không hạch toán vào tài khoản doanh thu mà tách riêng trên tài khoản 133 và 3331. Nếu áp dụng theo phương pháp trực tiếp thì giống thuế TTĐB ở điểm khi bán hàng hóa thì cho thuế GTGT vào doanh thu. Còn khi nhận được giấy thông báo nộp thuế thì lại cho vào chi phí.
Nợ TK 642
Có TK 3331
4.3.So sánh thuế GTGT với thuế nhập khẩu .
*Giống nhau
Đối tượng chịu thuế nhập khẩu hay thuế GTGT đều là các hàng hóa, dịch vụ. Giá tính thuế đều dựa trên giá bán, đều phải kê khai nộp thuế theo đúng quy định của ngành thuế.
*Khác nhau
Hàng hóa chịu thuế nhập khẩu là hàng hóa được phép nhập khẩu qua biên giới hoặc từ khu chế xuất vào thị trường nôị địa. Còn hàng hóa chịu thuế GTGT là các mặt hàng theo quy định của ngành thuế tiêu thụ trong nước.
Thuế nhập khẩu là loại thuế phát sinh trong quá trình mua hàng nên được cộng vào giá hàng hóa. Vì thế nếu hàng hóa đó thuộc đối tượng nộp thuế GTGT, thì thuế nhập khẩu cũng bị đánh thuế còn thuế GTGT không bị đánh thuế một lần nữa. Đây là điểm khác nhau cơ bản nhất của thuế GTGT với thuế nhập khẩu.
Về phương pháp hạch toán: Thuế GTGT hạch toán theo phương pháp khấu trừ khác hẳn so với thuế nhập khẩu vì thuế nhập khẩu cho vào doanh thu rồi sau mới được khấu trừ trên giá vốn hàng bán, nếu kết chuyển giá vốn hàng bán rồi thì cho vào thu nhập bất thường.
Đối với thuế GTGT thì được hạch toán riêng trên tài khoản 133 và 3331, và được khấu trừ cho nhau.
Khi nhập khẩu hàng hóa được hoàn lại thuế.
Nợ TK 3333
Nợ TK 111,112
Có TK 632
Có TK 721
Đối với thuế GTGT thì được hoàn thuế.
Nợ TK 3331
Nợ TK 111, 112
Có TK 721
4.4.So sánh thuế GTGT với thuế thu nhập doanh nghiệp và mối quan hệ giữa chúng
*Khác nhau:
Thuế GTGT là thuế gián thu còn thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế trực thu: Thuế GTGT được doanh nghiệp thu hộ cho Nhà nước và nộp thay cho người tiêu dùng thông qua việc bán hàng hóa, dịch vụ. Còn thuế thu nhập doanh nghiệp thì Nhà nước thu trực tiếp của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Theo luật thuế thì thuế thu nhập doanh nghiệp được quyết toán theo năm còn thuế GTGT thì hạch toán theo tháng đối với hàng tiêu thụ trong nước, với hàng nhập khẩu thì theo lần
Về phương pháp hạch toán:
Xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp cho Ngân sách Nhà nước
Nợ TK 421
Có TK 3334
Còn số thuế GTGT thì số thuế phải nộp sau khi khấu trừ giữa TK 133 và 3331 cho nhau, nếu dư trên TK 3331 thì doanh nghiệp phải nộp thuế. Còn nếu dư trên TK 133 thì doanh nghiệp được hoàn thuế hoặc sang kỳ sau được khấu trừ tiếp.
*Giống nhau:
Đối tượng nộp thuế đều là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, đều phải nộp thuế cho ngân sách Nhà nước và phải thực hiện các nghĩa vụ mà luật thuế quy định.
Định khoản:
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Nợ TK 3334
Có TK 111, 112
Thuế GTGT: Nợ TK 3331
Có TK 111,112
*Quan hệ giữa thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp:
Thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp có mối quan hệ biện chứng hay tác động qua lại lẫn nhau, nếu thuế GTGT phải nộp cho nhà nước nhiều thì chính nó phản ánh doanh nghiệp mua bán hàng hóa ngày càng tăng. Từ đó tạo thu nhập của doanh nghiệp ngày càng nhiều cho nên thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tăng lên, vì thế thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên lãi của doanh nghiệp.
Phần II: thực trạng và giải pháp.
1.Thực trạng
1.1.Những mặt đã đạt được.
Mặc dù được triển khai, thực hiện trong thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam á tác động mạnh đến nền kinh tế nước ta, gây ra những bất lợi, nhưng thuế GTGT vẫn phát huy được tính tích cực ở một số mặt:
Khuyến khích các nhà đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất và kinh doanh. Thuế GTGT đã làm cho giá thành các công trình đầu tư trong nước giảm khoảng 10% nên năm 1999 vốn đầu tư trong nước tăng 28,6%.
Khuyến khích sản xuất, với thuế suất hàng xuất khẩu bằng 0% và lại được hoàn thuế đã nộp đầu vào, tạo cho hàng hóa Việt Nam có tính cạnh tranh cao hơn năm1999, kim nghạch xuất khẩu của nước ta tăng 23,1%
Bảo hộ được sản xuất trong nước: Trong điều kiện nước ta cắt giảm thuế nhập khẩu, thực hiện thuế suất ưu đãi khi tham gia các hiệp định thương mại đa phương thì thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu đã cùng với thuế xuất khẩu bảo hộ sản xuất trong nước. Năm 1999 nước ta giảm thuế xuất khẩu cho 569 mặt hàng với số tiền gần 1000 tỷ đồng. Góp phần cơ cấu lại nền kinh tế. Do hợp lý hơn thuế doanh thu nên thuế GTGT đã khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực, vùng kinh tế theo định hướng của Chính Phủ, khuyến khích sản xuất kinh doanh những mặt hàng nông, lâm, thủy sản, khuyến khích hàng xuất khẩu đảm bảo đầu tư trong nước. Mặc dù khắc phục được sự trùng lặp của thuế doanh thu làm giảm thuế, nhưng tổng số thu thuế GTGT năm 1999 tương đương với thuế doanh thu.
1.2.Những khó khăn, vướng mắc.
Sau 3 năm, luật thuế GTGT chính thức được thực hiện, nhìn chung thuế GTGT đã có nhiều đóng góp quan trọng cho tiến trình cải cách chính sách thuế nhà nước. Tuy nhiên cho đến nay còn nhiều vấn đề bất hợp lý chưa được giải quyết triệt để. Những vấn đề đó tập trung ở các mặt sau:
Thứ nhất: Hiện nay thuế GTGT được tính theo 2 phương pháp là Phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp đã tạo ra hai sân chơi khác nhau trong nền kinh tế. Khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ mà cung ứng hàng hóa cho các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp thì những đơn vị này không được khấu trừ, hơn nữa trong phần thuế đã có thuế GTGT nên đã làm cho thuế đánh chồng lên thuế. Ngược lại các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp có quan hệ giao dịch cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ thì hàng hóa đó lại không được khấu trừ thuế GTGT. Từ cách thực hiện như trên ta thấy hiện đang tồn tại hai sân chơi khác nhau mà mỗi sân chơi chỉ chơi theo một lọai hình nhất đinh. Chính vì vậy đang hình thành nên hai xu hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ chuyển sang nộp thuế theo phương pháp trực tiếp và ngược lại tùy thuộc vào chiến lược khách hàng của họ và dĩ nhiên ngành thuế khó lòng giải quyết ngay được. Hơn nữa, trong thực tế thu thuế theo phương pháp trực tiếp rất khó xác định chính xác, vẫn chủ yếu tính theo phương pháp khoán như thuế doanh thu trước đây, chính điều này đã gây không ít lúng túng khó khăn cho thương nghiệp quốc doanh một khi họ phải cạnh tranh trực tiếp với các hộ buôn bán theo phương pháp trực tiếp.
Thứ hai: Thuế suất thuế GTGT là khá cao. Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế thì thuế GTGT 10% tính cho các mặt hàng tiêu dùng thông thường là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Một minh chứng cho thấy thuế suất thuế GTGT cao đó là: có trên 100 mặt hàng có thuế suất thuế GTGT cao hơn thuế suất thuế doanh thu và Nhà nước đã nhiều lần phải điều chỉnh giảm thuế suất. Mặc dù theo lý thuyết thuế GTGT do người tiêu dùng trả, không gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng nếu thuế suất cao, giá thanh toán hàng hóa, dịch vụ sẽ cao, người tiêu dùng khó lòng chấp nhận, tiêu thụ sẽ gặp khó khăn, các doanh nghiệp muốn bán được hàng hóa buộc phải hạ giá bán và sẽ bị thua lỗ. Để tránh tình trạng bị thua lỗ các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất.
Thứ ba: Thuế GTGT làm đảo lộn mức thuế suất phải nộp. Thuế GTGT được thiết kế với những mức thu tương đương thuế doanh thu với mục tiêu ổn định quan hệ phân phối giữa Nhà nước với nền kinh tế xét trên tổng thể, nhưng thực tế nó làm đảo lộn mức thuế phải nộp của các ngành thuế khác nhau. Có ngành thuế phải nộp tăng gấp bội so với thuế doanh thu, có ngành lại thấp hơn nhiều, tương quan phân phối giữa các ngành bị đảo lộn. Vướng mắc phát sinh không chỉ liên quan đến lãi, lỗ mà còn liên quan đến vấn đề vốn.
Thứ tư: Thuế GTGT gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp về vấn đề vốn. Đặc biệt với những doanh nghiệp vốn ít thì quy định này thực sự làm cho nó điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay, nên khi áp dụng luật thuế GTGT phải vay thêm vốn để nộp cho phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay còn càng nặng thêm cho dù sau này sẽ được khấu trừ thuế hay hoàn thuế. Trường hợp doanh nghiệp bán hàng cho đại lý khi chuyển hàng cho đại lý phải nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó, chỉ lúc nào đại lý bán được hàng thì mới thu được thuế GTGT từ khách hàng. Như vậy vốn của các doanh nghiệp bị chiếm dụng một cách bất hợp lý.
Thứ năm: Tốc độ hoàn thuế cho các doanh nghiệp còn chậm. Quá trình, thủ tục xin hoàn thuế là khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức của các doanh nghiệp. Để được hoàn thuế các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ hóa đơn chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ nhân viên thuế xuống đơn vị để kiểm tra, đối chiếu hóa đơn, chỉ có các hóa đơn hợp lệ mới được xem xét và khấu trừ thuế. Hơn nữa, việc kiểm tra đối chiếu hóa đơn lại thực hiện một cách thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra làm chậm việc hoàn thuế, bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác càng gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp.
Thứ sáu: Tình trạng gian lận thuế ngày càng trở nên nguy hiểm hơn. Hiện nay hóa đơn bất hợp pháp đa dạng và phong phú, được mua bán một cách công khai. Trước đây thực hiện thuế doanh thu sử dụng hóa đơn giả chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra, còn bây giờ với hóa đơn giả Nhà nước không những không thu được đồng nào thuế mà ngược lại còn phải chi thêm tiền để hoàn thuế đầu vào. Bên cạnh đó việc sử dụng hóa đơn bất hợp pháp tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào không cạnh tranh được sẽ mất dần sự cạnh tranh, hậu quả là những doanh nghiệp làm ăn chân chính bị thua thiệt, sân chơi giữa các doanh nghiệp trở nên bất bình đẳng. Nếu tình trạng này không được ngăn chặn và sử lý kịp thời sẽ làm cho nguồn ngân sách Nhà nước bi thâm hụt rất lớn và tác động đến nền kinh tế nước ta làm giảm hiệu lực của luật thuế.
Như vậy bên cạnh những ưu điểm rất lớn, vượt trội so với thuế doanh thu thì thuế GTGT còn nhiều tồn tại và vướng mắc do còn nhiều thiếu sót trong khâu chuẩn bị và điều hành. Thêm vào đó việc thi hành thuế GTGT trong điều kiện tốc độ phát triển kinh tế có những dấu hiệu suy giảm có phần tác động bất lợi đến sự ổn định và phát triển kinh tế.
2. Giải pháp:
Sau hơn 3 năm thực hiện, Luật thuế GTGT đã có những tác động tích cực đến sự ổn định và phát triển sản xuất, kiểm soát lạm phát, thu ngân sách của nước ta. Tuy vậy thực tế rất nhiều vấn đề bức xúc mà ngành thuế phải có những giải pháp nào tháo gỡ kịp thời. Sau đây là một số giải pháp:
*Về phương pháp tính thuế GTGT: Các văn bản tính thuế GTGT ở nước ta đã đưa ra hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ được áp dụng cho những doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, luật đầu tư nước ngoài, luật công ty, luật hợp tác xã và những hộ kinh doanh lớn, chấp hành tốt chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ. Phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng áp dụng với các hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện tốt chế độ hóa đơn chứng từ. Tương ứng với hai phương pháp tính thuế là hai loại hóa đơn: hóa đơn giá trị gia tăng và hóa đơn bán hàng thông thường. Qua hơn 3 năm thực hiện thuế GTGT cho thấy, sử dụng hai phương pháp tính thuế gây ra nhiều bất cập cho việc tính thuế đầu vào. Mặt khác để quản lý cơ sở áp dụng phương trực tiếp phải huy động gần một nửa các bộ thuế với chi phí tương ứng, nhưng thu cho ngân sách Nhà nước chỉ chiếm 10% trong tổng thuế GTGT. Vì vậy chúng tôi kiến nghị chỉ nên dùng một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Các hộ kinh doanh nếu không đủ điều kiện để áp dụng phương pháp tính thuế này thì áp dụng kê khai trực tiếp hoặc khoán thuế. Nếu hộ kinh doanh quá nhỏ thì miễn thuế, để tiến tới chỉ sử dụng một phương pháp tính thuế. Cần từng bước triển khai công tác kế toán, hóa đơn chứng từ đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh để phân loại các cơ sở này.
*Về thuế suất thuế GTGT: Việc chuyển 11 mức thuế suất doanh thu xuống còn 4 mức thuế suất thuế GTGT theo chúng tôi là giải pháp trước mắt, bước đệm để tiến tới sử dụng hai mức thuế suất. Với 4 mức thuế suất như hiện nay, ngành thuế liên tục nhận được giấy xin giảm thuế đối với nhiều nhóm khách hàng. Nhưng điều chỉnh giảm thuế tạo ra nhiều phản ứng dây chuyền lan rộng gây nhiều tiêu cực. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới chỉ áp dụng một mức thuế suất thuế GTGT. Tuy nhiên để giảm thuế suất còn hai mức thì phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là: Xác định mức thuế suất phải đảm bảo không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Hai là: Mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước do phải giảm thuế nhập khẩu vào năm 2006 theo hiệp định AFTA.
Ba là: Mức thuế suất phải đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp, đảm bảo ổn định thị trường trong nước, không có biến động lớn về giá cả và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.
*Về quản lý sử dụng hóa đơn chứng từ: Trong quản lý và sử dụng hóa đơn chứng từ đã phát sinh nhiều tồn tại, vướng mắc như sau: in và sử dụng hóa đơn bất hợp pháp (hóa đơn không theo quy định của luật thuế, hóa đơn thật nhưng ký hiệu và mã số trên hóa đơn là giả, hóa đơn ghi tổng giá trị hàng hóa không khớp giữa các liên…), buôn bán hóa đơn thật và hóa đơn giả, xuất hóa đơn khống tạo điều kiện cho các đơn vị trốn thuế; bán hàng xuất hóa đơn nhưng không kê khai nộp thuế; báo mất hóa đơn nhưng thực chất là bán hoặc sử dụng hóa đơn của đơn vị báo mất.
Giải pháp cho vấn đề này chúng tôi kiến nghị cho Bộ Tài Chính nghiên cứu lại loại giấy in hóa đơn, chứng từ và kí hiệu mã hiệu của từng loại hóa đơn chứng từ để chống in giả, nối mạng về quản lý và sử dụng hóa đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trên toàn quốc. Mặt khác, Bộ Tài Chính cần phối hợp với các cơ quan pháp luật để kiểm tra, phát hiện để xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm về quản lý, sử dụng hóa đơn, yêu cầu các doanh nghiệp phải kiểm tra nội bộ, mua bán hàng hóa dịch vụ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, mã số thuế của người bán. Đồng thời mở rộng, khuyến khích các doanh nghiệp tự in hóa đơn GTGT theo mẫu quy định của Bộ Tài Chính.
*Về khấu trừ thuế: Hầu hết các nước áp dụng phương pháp khấu trừ thuế đều sử dụng phương pháp lấy thuế đầu ra trừ thuế đầu vào, nếu hóa đơn đầu vào không ghi số thuế GTGT thì không được khấu trừ. ở nước ta trong các văn bản luật mới ban hành đã quy định cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào ( 1% đến 5% ) nhưng chỉ áp dụng đối với hàng hóa nông, lâm, thủy, hải sản mua trực tiếp của người sản xuất không có hóa đơn, nhưng có bản kê. Sau hơn 3 năm thực hiện, chính phủ ban hành Nghị định 78/1999/NĐ-CP cho phép khấu trừ thuế đầu vào với cả phế liệu( 3% đến 5%); đối với hàng hóa tiêu thụ đặc biệt đầu vào (4%) và tất cả hàng hóa, dịch vụ đầu khác có hóa đơn thì thông thường được khấu trừ 3%. Việc cho khấu trừ thuế đầu vào lại tiếp tục phát sinh những vướng mắc như: Có nhiều tỷ lệ khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện và không khuyến khích sử dụng hóa đơn chứng từ. Đối với hàng hóa là nông, lâm, thuỷ hải sản không cần hóa đơn chỉ cần bản kê khai dẫn tới có trường hợp cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh buôn chuyến, người thu gom nhưng doanh nghiệp không lấy hóa đơn bán hàng, tạo cơ sở để người kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế. Các doanh nghiệp mua nông, lâm, thủy hải sản sau khi sơ chế bán hàng trong nước thì được khấu trừ thuế nhưng nếu xuất khẩu lại không được khấu trừ thuế đầu vào. Từ vấn đề trên chúng tôi đưa ra hai phương pháp giải quyết sau:
Giải pháp trước mắt: Khi vẫn sử dụng hai phương pháp tính thuế và các mức thuế suất như hiện nay:
Đối với hàng hóa, dịch vụ đầu vào mua của người trực tiếp sản xuất, kinh doanh không có hóa đơn, chỉ có bản kê, được khấu trừ 3% trên giá trị hàng hóa, dịch vụ kể cả mua xuất khẩu và chế biến hàng xuất khẩu.
Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT mua của người kinh doanh có hóa đơn bán hàng thông thường, kể cả hàng hóa, dịch vụ của cơ sở sản xuất thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì được khấu trừ 4% trên giá hàng mua đầu vào.
Cho phép khấu trừ hoặc hoãn lại thuế GTGT trong trường hợp giao hàng hoặc cung ứng hàng hóa, dịch vụ bị hủy bỏ, sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua hoặc trương hợp giảm giá, các khoản phải thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng từ hợp lệ.
Giải pháp lâu dài: Khi đã áp dụng một phương pháp tính thuế và hai mức thuế suất như kiến nghị ở trên thì toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ đầu vào không thuộc diện chịu thuế GTGT mà đầu ra tính thuế GTGT thì xẽ được khấu trừ 4% giá trị trên bản kê hoặc hóa đơn thông thường tính cho cả những hàng hóa, dịch vụ bán trong nước, xuất khẩu hoặc chế biến hàng xuất khẩu.
*Về vấn đề hoàn thuế GTGT. Trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT, thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên tiến độ hoàn thuế châm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của tình hình trên, một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Trước tình hình đó, Bộ Tài Chính đã có các văn bản bổ sung là hoàn thuế trước, kiểm tra sau và xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm các văn bản này đề cao trách nhiệm và quyền lợi của các doanh nghiệp, của người nộp thuế trong việc hoàn thuế GTGT
Tuy nhiên vấn đề hoàn thuế còn nhiều bất cập về thủ tục cũng như thời gian hoàn thuế. Cần đề cao hơn trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin được hoàn thuế, đồng thời đơn giản hóa các thủ tục xin được hoàn thuế và tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế.
*Về việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý: Qua gần hai năm thực hiện luật thuế GTGT, Bộ Tài Chính đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, phần lớn các văn bản ban hành sau chỉ điều chỉnh bổ sung hoặc sửa đổi một số nội dung của văn bản trước để có hiệu lực thi hành. Việc làm này gây nhiều khó khăn, phức tạp trong điều hành, tổ chức và quản lý thuế, chưa nói đến giữa các văn bản lại phát sinh mâu thuẫn, không nhất quán. Chúng tôi đề nghị trong lần cải cách thuế bước hai chỉ nên có một luật thuế, một Nghị định của Chính phủ, một đến hai văn bản hướng dẫn của Bộ Tài Chính là đủ.
*Một vài kiến nghị khác nhằm hoàn thiện công tác tổ chức thuế GTGT
Nên hình thành và phát triển nhóm “Tư vấn thuế”. Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các đối tượng chịu thuế và nộp thuế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhiều nước trên thế giới coi dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Chúng tôi kiến nghị sớm hình thành nhóm tư vấn thuế trong cơ cấu tổ chức của bộ máy ngành thuế. Đồng thời để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn thuế đề nghị các quy định chấp nhận chi phí tư vấn thuế là một loại chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế.
Nên cải cách hành chính thuế: Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hóa thúê, các văn bản thuế phải đảm bảo nguyên tắc đơn giản dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. Để đẩy mạnh công tác cải cách hành chính thuế chúng tôi kiến nghị Bộ Tài Chính, ngành thuế các vấn đề sau: rà soát lại toàn bộ các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, nghiên cứu, xem xét làm rõ cách giải thích từ ngữ và nội dung: tính thống nhất và kế thừa của các văn bản mẫu kê khai thuế cần thống nhất với chế độ kế toán, thống kê, đơn giản hóa các mẫu biểu quy định và thủ tục trong thu nộp và hoàn thuế.
Nên tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật về thuế GTGT: Do thực hiện công tác quản lý thu thuế mới, đối tượng nộp thuế từ tính thuế, kê khai và nộp thuế, nên công tác tuyên truyền hướng dẫn, giải thích thật cụ thể về nội dung chính sách thuế, quy trình quản lý thuế, cách ghi chép hóa đơn chứng từ, cách kê khai nộp thuế. Phải phối hợp ngành thuế với các cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức đoàn thể xã hội trong tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế.
C. Kết luận
Đất nước Việt Nam sau khi chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với định hướng của Đảng đã thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển, đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp Việt Nam ngày càng gia tăng, vì có sự gia nhập của các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài. Để từ đó việc giao lưu buôn bán trong nước cũng như trên thế giới ngày càng phong phú về các mặt hàng tiêu thụ. Qua đó Nhà nước dựa trên thế mạnh tiêu thụ các mặt hàng hóa, dịch vụ của đất nước để đánh các loại thuế. Nhất là thế mạnh của thuế GTGT sau khi Nhà nước áp dụng.
Thật vậy, khi thực hiện hệ thống thuế GTGT đã và đang giúp hệ thống hạch toán kế toán thích nghi với các loại hình doanh nghiệp sản xuất tiêu thụ trong nước. Chính vì vậy, một lần nữa lại khẳng định rằng, với công tác quản lý thuế GTGT một cách hoàn hảo, dễ hiểu, dễ áp dụng đã giúp các ông chủ doanh nghiệp thuận tiện trong việc kinh doanh. Hay nói cách khác tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, từ đó mang lại thu nhập của đất nước tăng và chúng được thể hiện thông qua việc thu ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên với sự hiểu biết và kinh nghiệm còn hạn hẹp trong vấn đề về thuế GTGT, vì thế đề tài chưa được mở rộng, phong phú và còn nhiều thiếu sót. Bởi vậy em rất mong sự giúp đỡ của các thầy cô giáo để giúp em khắc phục những nhược điểm này.
Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự tận tình giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn Năng Phúc đã giúp em thực hiện đề tài này.
Tài liệu tham khảo
Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính. Chủ biên: Nguyễn Văn Công
Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp. Chủ biên: TS.Đặng Thị Loan
Kế toán công trong các đơn vị hành chính sự nghiệp. Chủ biên: TS. Nguyễn Thị Đông
Kiểm toán tài chính. Chủ biên: GS.TS: Nguyễn Quang Quynh.
Lý thuyết hạch toán, kế toán. Chủ biên: TS. Nguyễn Thị Đông.
Tạp chí kế toán.
Tạp chí nghiên cứu và trao đổi.
Tạp chí kinh tế và phát triển.
Tạp chí thương mại và pháp luật
Các thông tư – Nghị định của Quốc Hội, Chính phủ ban hành
Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ
Và các tài liệu khác.
Mục lục
trang
A.lời nói đầu: 1
B.Nội dung: 2
Phần I. Lý luận chung về thuế GTGT: 2
1.Khái quát chung về thuế GTGT: 2
1.1.Khái niệm về thuế GTGT: 2
1.2.Cơ sở ra đời của thuế GTGT: 2
1.3.Đặc trưng của thuế GTGT: 4
1.4.Đối tượng nộp thuế GTGT: 5
1.5.Đối tượng chịu thuế GTGT: 5
1.6. Phương pháp tính thuế GTGT: 6
2.Hạch toán chi tiết: 9
2.1.Tài khoản chi tiết: 9
2.2.Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ: 10
2.3.Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp : 14
3.Hình thức sổ kế toán và chứng từ sử dụng: 15
3.1.Chứng từ sử dụng: 15
3.2.Hình thức sổ kế toán: 15
4.So sánh thuế GTGT với các thuế khác: 17
4.1.So sánh thuế GTGT với thuế doanh thu trước đây: 17
4.2.So sánh thuế GTGT với thuế tiêu thụ đặc biệt: 17
4.3.So sánh thuế GTGT với thuế nhập khẩu: 18
4.4.So sánh thuế GTGT với thuế thu nhập doanh nghiệp: 18
Phần II. Thực trạng và giải pháp: 19
1.Thực trạng: 19
1.1.Những mặt tích cực đã đạt được: 19
1.2.Những khó khăn vướng mắc: 20
2.Giải pháp: 22
C.Kết luận: 27
Tài liệu tham khảo: 28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K1112.doc