Chuyên đề Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các loại hàng hóa và dịch vụ cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay, vai trò của nhãn hiệu - một trong những đối tượng truyền thống và chủ yếu của sở hữu công nghiệp - ngày càng trở nên quan trọng. Với chức năng ban đầu là giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hóa cùng loại của các nhà sản xuất khác nhau, qua quá trình sử dụng và phát triển, nhãn hiệu đã trở thành một công cụ hữu hiệu cho một doanh nghiệp (dù lớn hay nhỏ) tiếp cận, phát triển và bảo vệ thị phần hàng hóa và dịch vụ của mình. Vì vậy vấn đề bảo hộ hàng hoá là vấn đề cấp thiết và quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam bắt buộc phải thực thi các quyền về sở hữu trí tuệ theo cam kết hội nhập.

doc77 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2027 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại Việt Nam. Hiện có khoảng 2.000 nhãn hiệu đăng ký theo phương thức kết hợp, trong đó có 153 nhãn hiệu của Việt Nam nộp đơn theo MA (Madrid Agreement) và MP (Madrid Protocol) so với số lượng đăng ký quốc tế chỉ định Việt Nam: 58.866 nhãn hiệu của nước ngoài vào Việt Nam. Chỉ sau hơn 1 năm, từ 11/7/2006, đã có 452 nhãn hiệu của Mỹ đăng ký vào Việt Nam, 257 của EU, 232 của Nhật Bản chỉ định vào Việt Nam  theo MP”.(Theo Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam). Thực ra thì đối với thị trường nước ngoài, do chi phí cho việc đăng ký khá lớn, doanh nghiệp cần cân nhắc khả năng xâm nhập vào từng thị trường cụ thể để quyết định xem có nên đăng ký nhãn hiệu hay không. Tại những thị trường mà sản phẩm của doanh nghiệp hầu như không có khả năng xuất khẩu thì cũng không cần quan tâm đến việc đăng ký làm gì cho tốn kém. Ngay cả khi nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam bị nẫng tay trên tại thị trường nước ngoài, thì cũng cần cân nhắc có nên tiến hành các thủ tục kiện tụng tốn kém hay không. Rất có thể nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam mặc dù bị “ăn cắp” nhưng thực tế không được mấy ai biết đến, hoặc có khi xuất khẩu dưới một cái tên mới lại có lợi hơn. Bảo hộ nhãn hiệu Việt tại Thị trường Mỹ Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA) đã tạo một bước phát triển rõ rệt trong quan hệ thương mại hai nước. Kết quả nghiên cứu “Đánh giá tác động kinh tế của BTA” do Viện nghiên cứu quản lý TW (CIEM) và Dự án Hỗ trợ thúc đẩy thương mại STAR – Việt Nam phối hợp thực hiện cho thấy, trong năm 2002, kim  ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tăng 128% so với năm 2001. Nhiều mặt hàng công nghiệp chế tạo trước khi ký kết hiệp định bị hạn chế bởi thuế suất cao thì nay đã tăng trưởng vượt bậc như may mặc tăng 18 lần, điện tử tăng 270%, đồ gỗ tăng 499%… Tuy nhiên, có một điều mà các chuyên gia quản ngại đó là nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam đang có nguy cơ bị xâm phạm rất cao, Quá ít nhãn hiệu được đăng ký tại Mỹ: Thực tế đã có không ít các nhãn hiệu như của thuốc lá Vinataba, cà phê Trung Nguyên, nước mắm Phú Quốc, gạo Nàng Hương, Petro… đã bị tranh chấp ở nước ngoài trong đó có Hoa Kỳ mà theo các chuyên gia, nguyên nhân là do các doanh nghiệp chưa đăng ký bảo hộ nhãn hiệu kịp thời tại các nước đó. Ông Trần Việt Hùng – Phó cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ cho biết, theo con số thống kê tại Cục Sở hữu trí tuệ và tra cứu trên trang web của cơ quan Patent và nhãn hiệu hàng hóa Hoa Kỳ thì số đơn đăng ký nhãn hiệu của các DN Việt Nam ra nước ngoài theo thỏa ước Madrid (gồm 52 nước) chỉ có 54 nhãn hiệu, và số nhãn hiệu có nguồn gốc Việt Nam xin đăng ký bảo hộ tại Hoa Kỳ mới chỉ là 164 nhãn hiệu. Con số này thật khiêm tốn khi các DN Hoa Kỳ đã đăng ký bảo hộ 8.988 nhãn hiệu của họ tại Việt Nam. Và càng quá nhỏ so với hàng triệu nhãn hiệu được đăng ký tại Mỹ. Trong khi đó, theo bà Lynne G. Beresford Phó Cục trưởng về Chính sách giám định nhãn hiệu hàng hóa, Cục sáng chế và nhãn hiệu hàng hóa Hoa Kỳ, năm 2007 Văn phòng Sáng chế và nhãn hiệu hàng hóa Hoa Kỳ (USPTO) sẽ nhận khoảng 265.000 đơn xin đăng ký. Rõ ràng số nhãn hiệu của Việt Nam được đăng ký ở nước ngoài nói chung và ở Mỹ nói riêng còn quá thấp so với yêu cầu thực tế. Phải chăng, thủ tục đăng ký tại Mỹ quá khó hoặc tốn kém hay các DN Việt Nam còn thờ ơ với vấn đề đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. (Theo Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam). (Nguồn: Theo báo Nhân Dân) Có thể thấy việc đăng ký nhãn hiệu hàng tại Hoa Kỳ không phải là quá khó đối với các DN Việt Nam mà do ý thức của các DN Việt Nam về việc bảo hộ nhãn hiêụ hàng hoá kịp thời ở nước ngoài còn thấp. Một số chuyên gia khác thì cho rằng đó là việc thiếu hiểu biết về hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ, trong đó bao gồm cả hệ thống luật pháp về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Dẫn chứng về trường hợp vi phạm bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường Mỹ: Khi công ty cà phê Trung Nguyên nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ thì phát hiện đã có một công ty Mỹ nộp đơn đăng ký nhãn hiệu Trung Nguyên ậuvà đang trong giai đoạn chờ cấp phép. "Chúng tôi đặt quyết tâm là phải lấy lại được nhãn hiệu cho mình, do vậy đã thuê luật sư và đồng thời tìm hiểu xem tại sao công ty đó lại nộp đơn xin đăng ký nhãn hiệu của Trung Nguyên. Sau đó chúng tôi hiểu ra rằng đó là một công ty phân phối hàng thực phẩm nông sản, biết Trung Nguyên là một nhãn hiệu thương mại nổi tiếng của VN nên đã đăng ký tên Trung Nguyên để giành độc quyền phân phối hàng của Trung Nguyên tại Mỹ". Bà Võ Thị Hà Giang, phụ trách quan hệ cộng đồng và quảng cáo, công ty cà phê Trung Nguyên đã kể lại câu chuyện của công ty mình. Trung Nguyên đã phải đồng ý để DN này là nhà phân phối độc quyền sản phẩm cà phê của Trung Nguyên của mình tại Mỹ trong vòng hai năm thì công ty này mới đồng ý rút hồ sơ. Không chỉ nhãn hiệu của Trung Nguyên bị đăng ký trước mà ngay cả tên miền của Trung Nguyên (trungnguyen.com) cũng đã bị một Việt kiều ở Tiệp Khắc đăng ký trước với mục đích đầu cơ và đang rao bán rất đắt. Bài học của Trung Nguyên tóm gọn lại là: Các DN có thể phải trả giá đắt cho việc nhận thức thấp về nhãn hiệu. Các DN với những thương hiệu rất nổi tiếng ở trong nước vẫn phải xây dựng từ đầu khi đi ra thị trường thế giới. Tư vấn bên ngoài cũng chỉ có thể giúp DN xây dựng nhãn hiệu trong khuôn khổ hợp đồng nhất định như thể hiện ý tưởng, in ấn, làm bảng hiệu... còn DN mới là người sống, gìn giữ và làm việc với nhãn hiệu của mình. Tóm lại, các doanh nghiệp cần đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam càng sớm càng tốt. Ðăng ký ra nước ngoài thì tuỳ thuộc vào tiềm lực, kế hoạch triển khai của từng doanh nghiệp và thị trường cụ thể. Dù sao khi xuất khẩu, khi đàm phán thương thảo với đại lý, bạn hàng, đối tác nước ngoài thì đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là việc đầu tiên mà các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm. 2.3. Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam 2.3.1.Khái quát chung về nhãn hiệu nổi tiếng Trong vài năm trở lại đây, có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng thế giới đã được đưa vào thị trường Việt Nam và trở thành những nhãn hiệu quen thuộc của người tiêu dùng trong nước như nước giải khát Pepsi, Coca Cola, xe hơi Ford, Toyota, sản phẩm thời trang Gucci, CK… Những nhãn hiệu này đã và đang đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia, đòi hỏi chúng ta cần phải có một cách nhìn nhận đúng đắn và có sự quan tâm cần thiết đến việc bảo hộ đối tượng này một cách hiệu quả và kịp thời trên thực tế. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói riêng. Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế quan trọng như Công ước Paris và Thoả ước Madrid từ năm 1949. Và những qui định mang tính nguyên tắc của các văn bản này về cơ bản đã được chuyển hóa và vận dụng một cách phù hợp trong hệ thống pháp luật quốc gia, đặc biệt là trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Tuy nhiên, những cố gắng kể trên nhìn chung chỉ thể hiện ở bề nổi và mang tính vĩ mô nhiều hơn chứ chưa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả những nhu cầu thực tiễn mà xã hội đang đặt ra, đặc biệt là đối với việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Trong bối cảnh nước ta đang tiến đến rất gần mục tiêu hội nhập vào nền kinh tế thế giới, mà đích đến cụ thể của quá trình đó chính là việc gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam sẽ trở thành một thị trường thực sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Và một thực tế trước mắt mà bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy là sẽ có rất nhiều các nhãn hiệu hàng hóa và dịch vụ nổi tiếng thế giới xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Nhu cầu về hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng sẽ càng thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Cách hiểu về “nhãn hiệu nổi tiếng” vẫn còn đang rất khác nhau trong các điều ước quốc tế cũng như trong pháp luật các nước. Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã lần đầu tiên đề cập đến nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng tại Điều 6bis bằng cách quy định nghĩa vụ bắt buộc của các quốc gia thành viên trong việc từ chối hay hủy bỏ mọi sự đăng ký cũng như ngăn cấm mọi sự sử dụng của nhãn hiệu hàng hóa mà nó được coi là một sự sao chép, một sự bắt chước, một bản dịch hoặc có thể gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu nổi tiếng và quy định về khoảng thời gian cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ sự đăng ký đối với những nhãn hiệu xâm phạm. Tuy nhiên, Công ước lại không hề đưa ra một định nghĩa chính thức và rõ ràng về “nhãn hiệu nổi tiếng”. Chỉ có một căn cứ duy nhất để xác định một nhãn hiệu hàng hóa trở nên nổi tiếng, đó là sự chấp nhận hay thừa nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc gia nơi nhãn hiệu được đăng ký hay quốc gia nơi sản phẩm được sử dụng. Theo những quy định của Hiệp định TRIPs,6 vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nhìn chung dựa trên các nguyên tắc được ấn định bởi Công ước Paris với những sự thay đổi và bổ sung phù hợp. Theo đó, khái niệm “nhãn hiệu nổi tiếng” không chỉ được sử dụng cho đối tượng là hàng hóa mà còn được sử dụng cho cả các đối tượng dịch vụ, và Hiệp định cũng ghi nhận một số căn cứ chung để xác định một nhãn hiệu hàng hóa có phải là nổi tiếng hay không 7. Ngoài ra, Hiệp định cũng mở rộng phạm vi các nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ, bao gồm cả các nhãn hiệu được coi là rất nổi tiếng. Bên cạnh các điều ước quốc tế nói trên, chúng ta cũng có thể tìm thấy các quy định về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, chẳng hạn, Đạo luật về Nhãn hiệu hàng hóa năm 1938 và sau đó được sửa đổi bởi Đạo luật Nhãn hiệu hàng hóa năm 1994 của Vương quốc Anh, Đạo luật Lanham năm 1946 của Hoa Kỳ (được sửa đổi bởi Đạo luật Liên bang về Sự mờ nhạt nhãn hiệu hàng hóa năm 1995), Đạo luật nhãn hiệu hàng hóa của Hàn Quốc, Đạo luật nhãn hiệu hàng hóa và Bộ luật về Sở hữu trí tuệ của Pháp, Luật nhãn hiệu hàng hóa Canada năm 1985… Tuy nhiên, pháp luật của không ít quốc gia đã không đưa ra được một hệ thống các tiêu chí cụ  thể để xác định “nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng”. Do vậy, trên thực tế khái niệm này sẽ được xác định bởi các Tòa án hay các cơ quan có thẩm quyền trong từng vụ việc cụ thể. Theo luật về nhãn hiệu hàng hóa của Nga năm 1992, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng cũng như những vụ việc, tình huống liên quan đến việc chủ sở hữu nhãn hiệu yêu cầu sự công nhận đối với nhãn hiệu nổi tiếng ở Nga sẽ được xem xét bởi Phòng Patent tối cao (Supreme Patent Chamber). Ở Trung Quốc, thông qua các quy định hiện hành của Luật Nhãn hiệu hàng hóa và các quy định hướng dẫn thi hành Luật Nhãn hiệu hàng hóa, lần đầu tiên Trung Quốc thừa nhận một cách chính thức nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng trong hệ thống pháp luật của họ dù rằng Trung Quốc đã chính thức trở thành thành viên của công ước Paris từ rất sớm. Luật Nhãn hiệu hàng hóa của Trung Quốc đã đưa ra một định nghĩa về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng hơi khác so với các nước khác. Cụ thể, nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký mà nó có một bộ phận khách hàng thực tế và được coi là nổi tiếng trong bộ phận công chúng liên quan. Như vậy, một nhãn hiệu hàng hóa có thể là nhãn hiệu nổi tiếng ở các nước khác nhưng chưa được đăng ký ở Trung Quốc thì sẽ không được xem là nhãn hiệu nổi tiếng để được hưởng chế độ pháp lý về bảo hộ theo Luật Nhãn hiệu hàng hóa của nước này. Mặc dù có những sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, chúng ta vẫn có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng. Theo đó, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng (well-known trademark): được hiểu là nhãn hiệu được biết đến một cách rộng rãi bởi nhiều người trong những phạm vi lãnh thổ nhất định hoặc được xem xét, thừa nhận bởi các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia nơi nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ hay được sử dụng. Như vậy, nhãn hiệu nổi tiếng trước hết phải là một nhãn hiệu hàng hóa, bao gồm các “ký tự, hình ảnh hay dấu hiệu hoặc sự kết hợp của những yếu tố đó được sử dụng cho những hàng hóa hay dịch vụ bởi một người mà người đó đã sản xuất, gia công, đảm bảo hay bán những hàng hóa, dịch vụ đó nhằm mục đích thương mại để phân biệt với hàng hóa hay dịch vụ của các chủ thể khác”. Tuy nhiên, với cách hiểu như đã đề cập ở phần trước, nhãn hiệu nổi tiếng có những đặc trưng nổi bật so với các nhãn hiệu hàng hóa thông thường khác. Đó là: - Thứ nhất, một nhãn hiệu nổi tiếng phải là nhãn hiệu có tính phân biệt. Thông qua một nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng, người tiêu dùng có thể nhận biết ngay loại hàng hóa hay dịch vụ mà nhãn hiệu đó được sử dụng. Ví dụ, khi nói đến nhãn hiệu Coca Cola, người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay đến nước giải khát, hoặc khi nói đến Toyota, họ sẽ nghĩ ngay đến xe hơi… - Thứ hai, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng thường có tính phổ biến cao. Một nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được biết đến bởi nhiều người ở nhiều khu vực địa lý khác nhau. Chẳng hạn, Ford là một nhãn hiệu xe hơi của Hoa Kỳ nhưng nó lại được biết đến bởi người tiêu dùng trên hầu hết các quốc gia trên thế giới. - Thứ ba, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng thường có giá trị kinh tế lớn và rất lớn. Nó cấu thành một bộ phận tài sản quan trọng trong khối lượng tài sản của doanh nghiệp. Thật vậy, có không ít nhãn hiệu nổi tiếng đã trở thành một phần tài sản quan trọng, thậm chí đóng vai trò quyết định, trong khối lượng tài sản các công ty sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp có thể sử dụng nhãn hiệu nổi tiếng của mình như là một loại vốn để đưa vào các hoạt động đầu tư, kinh doanh… Một nhãn hiệu hàng hóa chỉ có thể trở thành nhãn hiệu nổi tiếng nếu nó thỏa mãn những yêu cầu hay tiêu chí nhất định do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng minh hoặc theo quy định của pháp luật. Bất kể sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia trong lĩnh vực lập pháp cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật, chúng ta cũng có thể khái quát các trường hợp chung nhất mà theo đó một nhãn hiệu hàng hóa sẽ được công nhận là nổi tiếng. Đó là: Sự lặp đi lặp lại của nhãn hiệu trong một bộ phận công chúng liên quan; Mức độ được biết đến của nhãn hiệu trong công chúng; Quy mô và khoảng thời gian sử dụng nhãn hiệu; Thời gian, mức độ và phạm vi địa lý của bất kỳ sự quảng cáo hay thông tin cho nhãn hiệu; Mức độ của tính phân biệt vốn có hay được yêu cầu của nhãn hiệu nổi tiếng; Bản chất của những loại hàng hóa, dịch vụ và những kênh lưu thông cho những hàng hóa, dịch vụ mà nhãn hiệu được sử dụng; Bản chất và mức độ sử dụng của những nhãn hiệu giống hoặc tương tự bởi bên thứ ba; Lịch sử của quá trình thực thi quyền trong việc bảo hộ nhãn hiệu; Những quốc gia nơi nhãn hiệu đã được đăng ký. Những yếu tố được đề cập trên đây chỉ là những căn cứ chung được thừa nhận một cách rộng rãi trong pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể cũng như quan điểm lập pháp riêng của mỗi quốc gia mà họ có thể đưa ra các quy định cụ thể liên quan đến việc thừa nhận nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng. 2.3.2.Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam Là thành viên của Công ước Paris về bảo hộ SHCN, Việt Nam đã áp dụng các điều khoản để bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Trong Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về SHCN nhằm hướng dẫn thi hành các quy định về bảo hộ quyền SHCN tại Chương II, Phần thứ VI của Bộ Luật Dân sự (1995); tại Điều 6, khoản 1e quy định: Không chấp nhận bảo hộ là nhãn hiệu hàng hoá các dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác được coi là nổi tiếng. Điều khoản này đã được Cục SHTT (trước đây là Cục SHCN) áp dụng để: Từ chối bảo hộ các nhãn hiệu xin đăng ký trùng hoặc tượng tự tới mức gây nhầm lẫn với các nhãn hiệu nổi tiếng (cả trong các trường hợp các nhãn hiệu nổi tiếng này chưa đăng ký bảo hộ tại Việt Nam); huỷ bỏ các đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trùng hoặc tương tự với các nhãn hiệu nổi tiếng khi có khiếu nại của chủ các nhãn hiệu đó. Các trường hợp này được xem xét theo từng trường hợp cụ thể, căn cứ trên cơ sở các tài liệu chứng minh của bên khiếu nại hoặc trên cơ sở thông tin có được của Cục về sự nổi tiếng của nhãn hiệu. Các căn cứ chính để xác định nhãn hiệu là nổi tiếng gồm: Thời gian sử dụng nhãn hiệu; phạm vi địa lý sử dụng nhãn hiệu; doanh thu; phạm vi, tuần suất và chi phí cho quảng cáo; số lượng các quốc gia mà nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ; giá trị nhãn hiệu (nếu có); số nước công nhận nhãn hiệu nổi tiếng (nếu có). Trên cơ sở các quy định pháp luật và tiêu chí trên, Cục SHTT đã giải quyết một số  vụ việc cụ thể: Năm 1992, Cục đã bác bỏ đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá “McDonald’s” của một công ty Australia cho các sản phẩm đồ ăn nhanh, dịch vụ ăn uống và các nhóm sản phẩm khác. Cục có đủ thông tin để khẳng định nhãn hiệu “McDonald’s” là nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới cho đồ ăn nhanh và dịch vụ ăn nhanh của Công ty McDonald’s Corporation (Hoa Kỳ) mặc dù Công ty này chưa từng đăng ký và sử dụng nhãn hiệu trên tại Việt Nam. Năm 1993, Cục SHCN đã xem xét và quyết định huỷ bỏ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá số 4854 cấp cho OPHIX GROUP (Australia) đối với nhãn hiệu “Pizza Hut” trên cơ sở đơn khiếu nại của Công ty Pizza Hut International, LLC (Hoa Kỳ). Công ty Hoa Kỳ đã chứng minh được sự nổi tiếng của các nhãn hiệu của mình, mặc dù chưa được đăng ký bảo hộ cũng như chưa từng sử dụng ở Việt Nam. Năm 1998, Cục SHCN đã từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu “MILIKET” của một cơ sở thuộc thành phố Hồ Chí Minh cho sản phẩm vở học sinh vì dễ dàng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu mì “MILIKET” của Công ty thực phẩm quận 5. Để tăng cường bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam, ngày 1/2/2001 Chính phủ đã ban hành  Nghị định 06/CP, sửa đổi, bổ sung Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996, trong đó đã đưa vào các quy định mới nhằm bảo hộ hiệu quả hơn nhãn hiệu nổi tiếng. Để được công nhận nhãn hiệu nổi tiếng, chủ nhãn hiệu có thể nộp đơn yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi tiếng cho Cục SHTT. Cục sẽ xem xét đơn và ra Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng đối với nhãn hiệu liên quan. Nhãn hiệu được công nhận sẽ được bảo hộ theo Quy chế nhãn hiệu nổi tiếng và được đưa vào Danh mục các nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam. Chủ các nhãn hiệu nổi tiếng có quyền yêu cầu xử lý các vi phạm liên quan đến nhãn hiệu của mình ngay cả trong trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng chưa được đăng ký bảo hộ ở Việt Nam. Khi xét một nhãn hiệu có khả năng vi phạm một nhãn hiệu nổi tiếng thì không chỉ so sánh với các sản phẩm trùng hoặc tương tự với sản phẩm của nhãn hiệu nổi tiếng mà có thể xem xét với cả các sản phẩm khác loại nếu trong thực tế tồn tại nguy cơ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Cục SHTT đã áp dụng các nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng để giải quyết thành công một số vụ việc điển hình: 1) Không cấp đăng ký nhãn hiệu cho một công ty của ôxtrâylia nộp đơn đăng ký các nhãn hiệu “Mc Donald”, “KFC”, “PIZZA HUT” cho dịch vụ “cung cấp thức ăn nhanh” (nhóm 43). Lý do, trùng với các nhãn hiệu nổi tiếng của Hoa Kỳ; 2) Không cấp đăng ký nhãn hiệu cho một công ty của Nhật Bản xin đăng ký nhãn hiệu “TOYOTA” cho sản phẩm máy công cụ (nhóm 7). Lý do, trùng với nhãn hiệu nổi tiếng “TOYOTA” của Công ty TOYOTA (Nhật Bản) tuy không cho cùng sản phẩm; 3) Không cấp đăng ký nhãn hiệu cho một công ty của Inđônêxia xin đăng ký nhãn hiệu “VINATABA” cho sản phẩm “quần áo, giầy dép” (nhóm 25). Lý do, trùng với nhãn hiệu nổi tiếng “VINATABA” của Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam, tuy không cho cùng sản phẩm. Việc áp dụng quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng đã tỏ ra rất hiệu quả trong việc bảo hộ nhãn hiệu được nhiều người ưa chuộng của Việt Nam và nước ngoài cũng như bảo hộ quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều khó khăn và sự không đồng nhất của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trong phạm vi Việt Nam và trên thế giới. Đó là các thủ tục cụ thể công nhận nhãn hiệu nổi tiếng, việc thống nhất các tiêu chí công nhận nhãn hiệu nổi tiếng và việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần thấy được lợi ích và phương cách xây dựng nhãn hiệu của mình trở nên nổi tiếng cũng như bảo hộ hữu hiệu chúng, mặt khác tránh được sự vi phạm các nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác trong quá trình kinh doanh ở nội địa cũng như trên thị trường quốc tế. 2.4. Đánh giá tổng quan về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam 2.4.1.Kết quả Luật pháp Việt Nam chính thức bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá từ năm 1982. Hiện nay, việc bảo hộ nhãn hiệu được thực hiện theo Bộ Luật dân sự năm 1995 (chương II phần thứ sáu “Bảo hộ sở hữu công nghiệp”).Có thể chia bức tranh của công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam thành 3 giai đoạn: - Giai đoạn trước đổi mới (từ 1982-1989) Đây là giai đoạn của quản lý kinh tế quan liêu bao cấp, hàng hoá sản xuất theo kế hoạch, dịch vụ không phát triển, vì vậy ý thức, nhu cầu của các doanh nghiệp về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá rất thấp. Tổng số Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá được cấp trong giai đoạn này là 1.550, như vậy trung bình mỗi năm chỉ có gần 200 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cấp ra nhưng chủ yếu là của người nước ngoài. (Nguồn: Cục SHTT). - Giai đoạn 10 năm đầu đổi mới (từ 1990-1999) Trong giai đoạn này, do chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã làm cho nền kinh tế bao cấp chuyển dần sang kinh tế thị trường có điều tiết. ý thức của các doanh nghiệp, nhà sản xuất đối với nhãn hiệu hàng hoá đã tăng lên một bước. Trong toàn bộ thời gian này, Cục Sở hữu công nghiệp đã cấp ra hơn 31.000 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, bình quân hơn 3.100 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá mỗi năm, gấp hơn 15 lần bình quân của giai đoạn trước đó. Một điều đáng mừng là từ chỗ tỷ lệ người Việt Nam đăng ký nhãn hiệu rất thấp thì từ nay tỷ lệ người Việt Nam đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đã vươn lên gần bằng người nước ngoài (chiếm khoảng 34% số lượng đăng ký được cấp ra). (Nguồn: Cục SHTT). - Giai đoạn tăng tốc và hội nhập (2000 đến nay) Có thể nói đây là giai đoạn có những đột biến về số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Sự phát triển của nền kinh tế sau hơn 10 năm đổi mới và các đòi hỏi của hội nhập kinh tế quốc tế cùng với việc một số nhãn hiệu Việt Nam bị tiếm đoạt ở nước ngoài đã là những điều kiện và tác động để các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Việt Nam nhìn nhận đầy đủ hơn vai trò của nhãn hiệu hàng hoá trong kinh doanh và nền kinh tế đang hội nhập sâu vào kinh tế thế giới. Năm 2000, có 5.582 đơn đăng ký nhãn hiệu nộp trực tiếp tại Cục Sở hữu công nghiệp thì trong đó đã có gần 60% là của người Việt Nam. Năm 2002, tổng số đơn đăng ký nhãn hiệu nộp trực tiếp tại Cục Sở hữu công nghiệp tăng lên 8.818 đơn, tăng 39% so với năm 2001, trong đó số đơn của các doanh nghiệp Việt Nam là 6.564, tăng 112% (gấp hơn 2 lần) so với số đơn của doanh nghiệp Việt Nam nộp trong năm 2001 (3.095 đơn). Đặc biệt, cùng với bộ luật dân sự 2005, Luật SHTT 2005 và việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam vào năm 2007 thì số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đã tăng đột biến. Năm 2007 Cục SHTT (hậu thân của Cục SHCN) đã tiếp nhận khoảng 27.000 đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. ( Nguồn: Cục SHTT). 2.4.2. Hạn chế Có thể nói rằng vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ngày càng được quan tâm tại Việt Nam, lượng đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cũng tăng theo từng năm. Tuy nhiên vẫn còn tn tại những hạn chế cần khắc phục: Lượng nhãn hiệu hàng hoá đăng ký chưa đồng đều giữa các ngành: Lượng nhãn hiệu hàng hoá xin đăng ký nhiều nhất là cho các sản phẩm dược phẩm, thứ hai là thực phẩm và đồ uống, thứ ba là mỹ phẩm và đồ điện - điện tử, quần áo giày dép, thứ tư là phương tiện giao thông vận tải và văn phòng phẩm... Số lượng nhãn hiệu dịch vụ được đăng ký nhiều nhất cho các dịch vụ buôn bán hàng hoá và dịch vụ khách sạn, dịch vụ xây dựng và sửa chữa nhà cửa, công trình giao thông vận tải, dịch vụ vận tải hàng hoá và hành khách, dịch vụ tài chính... Việc đăng ký nhãn hiệu cũng thay đổi theo các vùng, miền tùy thuộc vào mức độ phát triển kinh tế, thương mại của nơi đó: Địa phương có số lượng doanh nghiệp, cá nhân đăng ký nhãn hiệu nhiều nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, chiếm hơn một nửa số lượng đăng ký của cả nước, tiếp theo là các địa phương Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng... Ngược lại có địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi có rất ít nhãn hiệu được đăng ký. Trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty TNHH, công ty cổ phần..., rất nhạy bén trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thì các doanh nghiệp Nhà nước, cá biệt là một số tổng công ty lớn lại khá thờ ơ trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chỉ khi có tranh chấp hoặc gặp rắc rối với ở nước ngoài họ mới vội vàng xin đăng ký nhãn hiệu của mình. Phải chăng đây cũng là một tâm lý ỷ lại còn rơi rớt từ thời kỳ bao cấp, sự chậm trễ này đã gây những khó khăn, tốn kém cho chính bản thân doanh nghiệp khi nhãn hiệu của mình bị vi phạm hoặc bị tiếm đoạt. Ngoài ra, thì việc đăng ký nhãn hiệu ra nước ngoài vẫn chưa có được sự quan tâm đúng mức của cac doanh nghiệp. Số lượng nhãn hiệu đăng ký cũng chưa cân xứng với lượng nhãn hiệu hàng hoá có trên thị trường, điều này dẫn đến việc vi phạm nhãn hiệu vẫn thường xuyên xảy ra. 2.4.3. Nguyên nhân - Khung pháp luật chưa hoàn chỉnh Trong vòng một thập kỷ qua, Việt Nam đã có những cố gắng đáng kể để xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT trong đó có vấn đề “bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá”. Bộ luật Dân sự được thông qua năm 1995 có một phần về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (Phần VI) và sau đó là hàng loạt các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành được ban hành. Tuy nhiên, SHTT chỉ là một phần nhỏ trong Bộ luật Dân sự cho nên còn chung chung và tương đối sơ sài, bên cạnh đó nhiều văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật chưa cụ thể và chi tiết. Thông thường ở các nước phát triển, luật SHTT là một bộ luật riêng biệt rất chi tiết, rõ ràng và được chia ra các nhánh cụ thể (bao gồm: quyền tác giả và sở hữu công nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp...). Các doanh nghiệp Việt Nam cũng thường đề cập đến một số chính sách bất cập trong việc phát triển nhãn hiệu, ví dụ như quy định về chi phí cho hoạt động tiếp thị và quảng cáo không được quá 10% tổng chi phí để tính thuế thu nhập trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. - Cơ chế xử lý vi phạm còn quá yếu Hiện tại, có nhiều cơ quan cùng tham gia việc thực thi bảo hộ nhãn hiệu như Cục SHTT, Quản lý thị trường, Công an Kinh tế, Thanh tra khoa học công nghệ, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Toà án. Tuy nhiên, không có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính về vấn đề này. Các thẩm phán thường thiếu kiến thức chuyên môn về SHTT, vì vậy khi xét xử, phải phụ thuộc vào ý kiến của nhiều cơ quan khác trước khi đưa ra phán quyết. Điều này làm cho quy trình xử lý vi phạm của toà án kéo dài và không hiệu quả. Do vậy, nhiều doanh nghiệp là nạn nhân của tình trạng đánh cắp và nhái nhãn hiệu đã buộc phải đàm phán trực tiếp với đối tượng vi phạm. Cách giải quyết không chính thức như thế này không những gây tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp mà còn tạo cơ hội cho tham nhũng. Nhiều doanh nghiệp cho rằng mức xử phạt hành chính đối với vi phạm nhãn hiệu hiện nay từ 2 triệu đến 100 triệu đồng là còn quá thấp và không có tác dụng nhiều đến việc ngăn ngừa tình trạng làm hàng nhái hoặc hành vi đánh cắp nhãn hiệu. Việc xử phạt hình sự lại rất ít khi được áp dụng mà mức phạt cũng chỉ từ 20 đến 200 triệu đồng. (Nguồn: Cục SHTT). - Năng lực hạn chế của các cơ quan quản lý việc đăng ký và thực thi bảo hộ SHTT Gần đây số lượng hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá đã tăng nhiều do các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhận thức tốt hơn về tầm quan trọng của nhãn hiệu. Trong năm 2003, Cục SHTT đã nhận được tổng số gần 16.000 hồ sơ xin đăng ký sở hữu công nghiệp. Hiện Cục chưa có chi nhánh tại các tỉnh thành và với tổng số 140 cán bộ thì khối lượng công việc như vậy là quá tải. Vào năm 2002, Cục đã xây dựng trang web của mình, cung cấp một số thống kê cơ bản về số lượng hồ sơ đăng ký sở hữu công nghiệp và một số rất ít các văn bản pháp luật về sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên trang web này vẫn chưa đăng tải những thông tư hướng dẫn chi tiết, những thủ tục hay biểu mẫu để người dùng có thể tham khảo và đăng ký, và các thông tin chưa được cập nhật thường xuyên. - Hiểu biết hạn chế về nhãn hiệu từ phía doanh nghiệp và thiếu vắng các chuyên gia giỏi về nhãn hiệu Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của nhãn hiệu, song việc đầu tư cho nhãn hiệu vẫn còn rất dè dặt. Theo các chuyên gia, việc phát triển nhãn hiệu là vô cùng quan trọng, cần phải có thời gian và hệ thống; trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ đăng ký nhãn hiệu khi sản phẩm của mình bán chạy trên thị trường. Một kết quả khảo sát gần đây cho thấy: chỉ khoảng 16% doanh nghiệp có bộ phận chuyên phụ trách công tác tiếp thị, hơn 80% doanh nghiệp không có chức danh quản lý nhãn hiệu, và 74% doanh nghiệp chỉ đầu tư dưới 5% doanh thu cho việc xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu. ( Nguồn: Báo Sài Gòn Tiếp Thị ). Không chỉ các doanh nghiệp mà các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực này cũng ít về số lượng, thiếu kỹ năng và chuyên môn. Phần lớn các công ty tư vấn chỉ đơn thuần giúp các doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu; rất ít công ty chuyên sâu về phát triển nhãn hiệu. Còn các công ty tư vấn nước ngoài tuy có tính chuyên nghiệp và chuyên môn cao song còn hạn chế về hiểu biết tâm lý và văn hoá bản địa nên cũng chưa cung cấp được dịch vụ hỗ trợ hiệu quả. - Sự hiểu biết và ý thức pháp luật của cộng đồng xã hội đối với vấn đề của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn nhiều hạn chế Điều này chính là nguyên nhân chính dẫn đến nạn hàng giả tràn lan hiện nay - Trong thời gian qua, đã có nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị “đánh cắp” nhãn hiệu ở thị trường nước ngoài khi không được đăng ký, bảo hộ Điển hình nhất là các vụ bị tranh chấp nhãn hiệu của Petro Vietnam và Cà phê Trung Nguyên tại Hoa Kỳ, của thuốc lá Vinataba tại châu Á, kẹo dừa Bến Tre tại Trung Quốc; bánh phồng tôm Sa Giang tại Pháp và châu Âu... Không chỉ ở nước ngoài nhãn hiệu Việt Nam mới bị xâm phạm mà ngay cả thị trường trong nước các DN cũng đang phải đối mặt với tình trạng bị xâm phạm về nhãn hiệu hàng hoá cũng như nhãn hiệu. Theo bà Trần Thị Hồng Vân, Giám đốc Công ty Sở hữu trí tuệ Banca, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu hàng hoá ở trong nước ngày càng tinh vi. Nhiều DN lớn với nhãn hiệu nổi tiếng đang gặp khó khăn khi nhãn hiệu sản phẩm luôn trong tình trạng bị đe dọa. Riêng trong năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007, có tới 21.000 vụ vi phạm liên quan đến nhãn hiệu với tổng số tiền xử phạt tới 11 tỷ đồng. Hiện VN có đến 300.000 doanh nghiệp đang hoạt động, dự kiến đến năm 2010, số doanh nghiệp sẽ tăng lên 500.000 doanh nghiệp. Nhưng mới có 10% doanh nghiệp có ý thức tự bảo vệ nhãn hiệu sản phẩm. Theo Cục Sở hữu trí tuệ: sở dĩ có tình trạng này là do việc xây dựng nhãn hiệu của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay còn mang tính tự phát, mang tính manh mún, rời rạc. Nhiều doanh nghiệp còn ngần ngại trong việc đầu tư xây dựng, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Có như vậy là bởi đa số các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay nên ngại tốn kém chi phí khi phảibỏ ra số tiền không phải là nhỏ và còn gặp nhiều khó khăn trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, đặc biệt là ở thị trường nước ngoài. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu về nhận thức luật pháp, phong cách kinh doanh manh mún nên chỉ khi nào thương hiệu bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại từ phía thứ ba thì doanh nghiệp mới tính đến việc làm thủ tục đăng ký bảo hộ. Ở các doanh nghiệp nhà nước, do ràng buộc về cơ chế, chính sách, sự bảo hộ và ưu đãi của Nhà nước dẫn đến vấn đề thương hiệu chưa được quan tâm thỏa đáng nên hiện có đến 80% số doanh nghiệp đầu tư dưới 5% chi phí cho nhãn hiệu. (Nguồn: Cục SHTT). CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ BẢO HỘ NHÃN HIỆU 3.1. Xu hướng gia tăng nhu cầu bảo hộ nhãn hiệu sau khi Việt Nam gia nhập WTO Việc VN gia nhập WTO về cơ bản đồng nghĩa với việc các DN VN bước vào một sân chơi rất rộng với vô số luật lệ vừa đa dạng vừa phức tạp. Cái khó không những ở chỗ phần lớn các DN VN chưa nắm và hiểu hết những luật lệ này là gì, ở những lĩnh vực nào mà còn ở chỗ dù VN đã cố gắng đến mức tối đa trong việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại để có thể gia nhập WTO, nhưng cũng phải thừa nhận rằng pháp luật của chúng ta còn thiếu nhiều định chế và một số định chế chưa tương thích với pháp luật quốc tế. Gia nhập WTO, chúng ta sẽ phải đối mặt với không ít thách thức về SHTT. Chắc chắn các quan hệ thương mại, dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ gia tăng nhanh chóng, đòi hỏi các cơ quan chức năng và doanh nghiệp phải tranh bị những kiến thức về pháp luật quốc tế. Lâu nay chúng ta vẫn quen chỉ sử dụng luật “nước mình”. Việc áp dụng chính xác luật, việc dẫn chiếu pháp luật, sử dụng thành thảo quy phạm xung đột pháp luật... là rất quan trọng đối với cả nhà nước và doanh nghiệp. Có thể nhận thấy những lợi ích sẽ mang lại cho các doanh nghiệp từ việc xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu trong quá trình xúc tiến thương mại và đầu tư như sau: Thứ nhất, nhãn hiệu là một trong những yếu tố quan trọng góp phần khẳng định vị thế của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, tạo ra sự phát triển bình đẳng, lành mạnh trên thị trường. Việc bảo hộ nhãn hiệu không thoả đáng luôn bị coi là thiếu lành mạnh và là rào cản đối với việc mở cửa thị trường, khi các đối thủ cạnh tranh không cần đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, có thể bắt chước, sao chép và bán các sản phẩm với giá rẻ hơn nhiều và vì thế chiếm thị phần và đẩy các sản phẩm hợp pháp và chính hiệu ra khỏi thị trường. Kết quả là các nhà đầu tư chân chính không có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục duy trì hoạt động cải tiến và sáng tạo, bao gồm cả việc tạo ra các sản phẩm mới dưới nhãn hiệu của mình. Thứ hai, bảo hộ nhãn hiệu sẽ khuyến khích hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam. Thực tế cho thấy những khiếm khuyết trong hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ là nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế đầu nước ngoài. Các nhà kinh doanh nước ngoài sẽ không mạo hiểm đầu tư vốn liếng vào một môi trường kinh doanh mà không biết chắc chắn được rằng các sản phẩm của họ sẽ không bị chiếm đoạt một cách trái phép. Các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn nếu được tạo điều kiện thuận lợi và có cơ sở pháp lý vững chắc, an toàn khi đầu tư vào Việt Nam dưới một tên thương mại được bảo hộ hay đưa vào Việt Nam hàng hoá, dịch vụ dưới một nhãn hiệu hàng hoá, một chỉ dẫn địa lý được công nhận. Thứ ba, xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vươn ra chiếm lĩnh các thị trường nước ngoài, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước. Như vậy, bảo hộ nhãn hiệu sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất hiện với tư cách là những người tham gia bình đẳng trong hệ thống thương mại toàn cầu. Nếu một sản phẩm xuất khẩu không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại nước nhập khẩu thì dễ bị bắt chước, sao chép, nhất là khi đã gây dựng được uy tín nhất định đối với khách hàng. Điều đó không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp tới cơ sở sản xuất mà còn có thể ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế do tác động dây chuyền. Thứ tư, bảo hộ nhãn hiệu còn có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng tránh bị nhầm lẫn, bị lừa dối trong quá trình lựa chọn hàng hoá, dịch vụ. Bảo vệ tối đa quyền lợi người tiêu dùng là một trong những mục đích hướng tới của văn minh thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay. Đồng thời chúng ta cũng phải từng bước thực thi luật sở hữu trí tuệ trong đó có vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá theo cam kết gia nhập WTO. Do đó mà nhu cầu của các doanh nghiệp về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá ngày càng gia tăng. Bảng 3.1. Biểu đồ về số nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ 3.2. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp - Thứ nhất, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược về bảo hộ nhãn hiệu Tương tự như chiến lược kinh doanh, muốn bảo hộ có hiệu quả nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược về hoạt động này. Chiến lược về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá thường phải gắn chặt với chiến lược kinh doanh, đặc biệt khi doanh nghiệp có chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu. Chiến lược bảo hộ hàng hoá của doanh nghiệp phải đặt ra được những nội dung sau: +) Xác định cách thức tạo dựng (nguồn) của khối tài sản của nhãn hiệu Các quyền về bảo hộ nhãn hiệu hàng háo có thể phát sinh từ các thành quả sáng tạo của chính doanh nghiệp, cũng có thể được tạo dựng bằng cách nhận chuyển nhượng từ người khác. Khi xác định cách thức tạo dựng quyền sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý đến lợi thế cạnh tranh nói chung. Không nên tập trung vào việc tạo dựng những tài sản trí tuệ cần đến sự đầu tư quá lớn, không phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp. +) Xác định lãnh thổ cần bảo hộ đối với từng nhãn hiệu Đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược bảo hộ nhãn hiệu vì nó liên quan đến các hoạt động xác lập, khai thác và bảo vệ nhãn hiệu. Lãnh thổ bảo hộ nhãn hiệu được xác định phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp sẽ không nhất thiết phải tiến hành bảo hộ các nhãn hiệu ở tất cả các thị trường mà mình kinh doanh. Có những thị trường mà việc đưa trực tiếp hàng hóa mang nhãn hiệu của mình vào hệ thống bán lẻ là không thể được thì cũng có nghĩa là doanh nghiệp cần sử dụng quyền của người khác bằng cách mua li-xăng. +) Xác định bộ máy quản lý và phát triển nhãn hiệu Tùy thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, việc quản lý và phát triển nhãn hiệu có thể được giao cho các bộ phận liên quan đến kinh doanh hoặc thành lập ra những bộ phận chuyên môn để quản lý và phát triển nhãn hiệu. Trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, do vậy phương thức phù hợp hơn cả là giao chức năng quản lý và phát triển nhãn hiệu của doanh nghiệp cho bộ phận có chức năng quản lý kinh doanh. - Thứ hai, doanh nghiệp cần đầu tư nhân lực, vật lực cho việc bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá. Nhãn hiệu hàng hoá đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp với quy mô khác nhau. Những doanh nghiệp lớn nói chung có các phòng, ban chuyên trách về phát triển và thực hiện chiến lược về bảo vệ và phát triển nhãn hiệu, gồm đội ngũ nhân viên với đầy đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết, có thể là các luật sư, các kỹ sư, nhà khoa học, nhà kinh tế, các chuyên gia nghiên cứu thị trường… Đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ cần có một bộ phận hoặc một người chuyên trách về vấn đề này. Hơn nữa, do nhãn hiệu hàng hoá là một lĩnh vực đặc thù có quan hệ tới tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, pháp lý nên những người trực tiếp tiến hành các công việc về nhãn hiệu hàng hoá đòi hỏi phải có hiểu biết về các vấn đề đó. 3.4. Các giải pháp từ nhà nước - Thứ nhất, Nhà nước phải hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đăng ký, xác lập nhãn hiệu hàng hoá Khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhãn hiệu, đơn giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu nhanh chóng; hỗ trợ doanh nghiệp trong đào tạo, cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp xây dựng và quảng bá nhãn hiệu. Tuy nhiên nhà nước chỉ tạo ra những cơ chế, hành lang pháp lý thích hợp để các chủ thể bảo vệ quyền của mình. Giải pháp hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp tiến hành đăng ký xác lập quyền không phải là giải pháp có hiệu quả. Cần phải nhắc lại rằng việc đăng ký xác lập quyền chỉ là một công đoạn đầu tiên trong một quá trình lâu dài để bảo vệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ, trong đó có quyền bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá. Nhà nước hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp đăng ký xác lập quyền trong khi doanh nghiệp không hiểu rõ vai trò, ý nghĩa cũng như không có chiến lược cho hoạt động bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá thực tế sẽ phản tác dụng, làm cho doanh nghiệp ảo tưởng rằng chỉ cần đăng ký quyền là đủ mà không có bất cứ hành động nào khác để khai thác cũng như bảo vệ quyền đó. Hơn nữa, việc lấy ngân sách nhà nước (thực tế là tiền đóng thuế của các doanh nghiệp) để hỗ trợ cho một số doanh nghiệp nào đó đơn thuần để đăng ký xác lập nhãn hiệu hàng hoá là không công bằng, không bình đẳng trong hoạt động kinh doanh. Trong giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký xác lập nhãn hiệu hàng hoá, có một cách tiếp cận có hiệu quả đối với các doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, đó là cách tiếp cận tập thể - tiếp cận theo ngành hàng. +) Đối với các loại nông phẩm: Dường như phương thức tiếp cận tập thể để bảo hộ nhãn hiệu là có hiệu quả nhất. Ví dụ điển hình là trường hợp cà-phê Cô-lôm-bi-a. Hành khách đi trên các hãng hàng không thường nghe thấy lời mời của tiếp viên về loại sản phẩm này. Khi đó, chúng ta có thể thấy tất cả những người sản xuất và buôn bán loại sản phẩm này của Cô-lôm-bi-a đều được hưởng lợi. Liên hệ với các sản phẩm xuất khẩu tương tự của Việt Nam, nếu từng doanh nghiệp sản xuất, chế biến cà-phê tiến hành quảng bá sản phẩm của mình với các nhãn hiệu riêng rẽ, sẽ rất khó có thể đạt được thành công trên thị trường quốc tế, nhất là hiện nay loại sản phẩm này hầu hết được xuất khẩu dưới dạng cà-phê hạt (sản phẩm thô). Trong trường hợp đó, khi các doanh nghiệp chế biến của nước ngoài mua nguyên liệu thô của Việt Nam và chế biến, gắn nhãn hiệu của họ vào sản phẩm và tung ra thị trường thì khi đó sẽ không còn mối liên quan nào đến Việt Nam trong sản phẩm đó. +) Tương tự như vậy là đối với sản phẩm gạo: Người tiêu dùng thường biết đến một loại gạo mà họ mua xuất xứ từ nước nào trước khi họ quan tâm đến việc hãng bán lẻ nào cung cấp loại gạo đó. Chưa nói đến việc tự mình tạo ra một mạng lưới phân phối và sử dụng riêng nhãn hiệu của mình trên bao bì bán lẻ hàng hóa, việc làm cho khách hàng biết được nguồn gốc gạo của Việt Nam hiện vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. +) Đối với sản phẩm dệt, may: Khi hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu hướng tới các thị trường của các nước phát triển thì việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của riêng mình hay sử dụng nhãn hiệu của các hãng nổi tiếng trên thế giới cũng là một vấn đề đáng quan tâm trong kinh doanh. Một số công ty may mặc có truyền thống và đã có những thành công nhất định ở thị trường nước ngoài có thể nghĩ đến việc sử dụng nhãn hiệu riêng của mình (chẳng hạn Công ty May 10). Tuy nhiên, hầu hết các công ty may mặc của Việt Nam chủ yếu gia công cho các hãng nước ngoài. Trong trường hợp đó, đương nhiên bên đặt gia công sẽ yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải gắn trên sản phẩm nhãn hiệu của họ. Ngay cả trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam tự sản xuất (không phải là gia công) thì việc không có hệ thống phân phối ở nước ngoài cũng là một trở ngại cho các doanh nghiệp khi sử dụng nhãn hiệu của mình trên sản phẩm. Khi mua sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam sau đó gắn những nhãn hiệu nổi tiếng, các doanh nghiệp nhập khẩu của nước ngoài có thể thu được lợi nhuận rất lớn. Đó cũng là lý do vì sao có rất nhiều ý kiến của các doanh nghiệp dệt may cho rằng, không cần thiết phải đăng ký và sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của mình ở nước ngoài mà thay vào đó là xuất khẩu hàng không gắn nhãn hiệu, còn sau đó việc gắn nhãn hiệu nào vào sản phẩm đó là công việc của người nhập khẩu hàng. Như vậy, Nhà nước cần tập trung vào hỗ trợ các ngành hàng xác lập nhãn hiệu ở nước ngoài thay vì hỗ trợ từng doanh nghiệp xuất khẩu. - Thứ hai, hỗ trợ thành lập các tổ chức quản lý tập thể chỉ dẫn về dăng ký nhãn hiệu Ở nước ta, hầu như mỗi địa phương đều có không ít các đặc sản truyền thống mang tên của địa phương đó (như nước mắm Phú Quốc, cà-phê Đắc Lắc, bưởi năm roi Bình Minh, xoài cát Hòa Lộc, thanh long Bình Thuận, v.v.). Nhiều đặc sản được người tiêu dùng ưa chuộng, vì thế bị làm giả ở mức độ khác nhau và vì vậy doanh nghiệp cũng đã ít nhiều thấy được sự cần thiết phải có sự bảo hộ pháp lý đối với tên gọi của sản phẩm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không biết sản phẩm của mình có đáp ứng các điều kiện luật định để được hưởng sự bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá hay không. Bởi vậy, họ cần được hỗ trợ trong việc đánh giá sơ bộ khả năng đáp ứng các điều kiện bảo hộ đó. Mặt khác, công việc xác định và chứng minh các điều kiện bảo hộ rất tốn công và tốn của, trong khi cộng đồng doanh nghiệp chưa thể khẳng định được giá trị kinh tế thực sự do sự bảo hộ đem lại. Bởi vậy, họ cần được hỗ trợ về phương pháp luận và các nguồn lực để đánh giá sự cần thiết phải bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm của mình. - Thứ ba, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, cho các doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng cũng như lợi ích của việc đăng ký nhãn hiệu: Phổ biến các vấn đề chung về sở hữu công nghiệp cho doanh nghiệp như cách thức thủ tục để đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp, vấn đề quản trị sở hữu công nghiệp và đối với từng loại hình doanh nghiệp cụ thể có những chỉ dẫn riêng cho từng đối tượng. Thứ tư, Nhà nước cần bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý có đủ các chế tài xử lý và có hình thức xử phạt cao, kể cả việc tước giấy phép kinh doanh: Quy định trách nhiệm cho các cơ quan cấp giấy phép, cơ quan phối hợp cưỡng chế có trách nhiệm, sau khi có quyết định xử phạt hành chính. Xây dựng một hệ thống tòa án có khả năng giải quyết các khiếu nại, tố cáo vi phạm nhãn hiệu. Thành lập những lực lượng “cảnh sát nhãn hiệu”, “công an nhãn hiệu” chuyên xử lý về hành vi vi phạm quyền sở hữu về nhãn hiệu hàng hóa. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật dân sự. Hoàn thiện các quy định về việc xác định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; nâng cao vai trò của Toà án dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách kịp thời và có hiệu quả. Xác định rõ thẩm quyền vụ việc của Toà án trong việc xét xử các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, bổ sung những quy định chi tiết về các chế tài đủ mạnh để chống lại các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, tham khảo một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở một số nước trên thế giới. - Thứ năm, về vấn đề liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng Hiện nay đã có một số đơn yêu cầu công nhận nhãn hiệu nổi tiếng được nộp cho Cục SHTT. Tuy nhiên, do VN chưa có văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về thủ tục và các căn cứ để công nhận nhãn hiệu nổi tiếng nên chưa có nhãn hiệu nào được Cục SHTT VN chính thức ra quyết định công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng. Mặc dù vậy, qua các quyết định giải quyết các đơn khiếu nại, yêu cầu kết luận vi phạm nhãn hiệu, Cục SHTT cũng đã gián tiếp công nhận một số nhãn hiệu như Miliket, McDonald's, Superman, v.v. là nhãn hiệu nổi tiếng. Trong thời gian tới cùng với việc thông qua Luật Sở hữu trí tuệ, VN sẽ và cần phải ban hành văn bản quy định cụ thể các căn cứ, thủ tục công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Các quy định này cần phải được xây dựng trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cũng như Khuyến nghị của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới về công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Các căn cứ để xác định nhãn hiệu nổi tiếng có thể là: số lượng người tiêu dùng đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng sản phẩm mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo; phạm vi lãnh thổ mà sản phẩm mang nhãn hiệu đã được lưu hành; doanh số từ việc bán sản phẩm mang nhãn hiệu hoặc số lượng sản phẩm đã được bán ra; thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; uy tín rộng rãi của sản phẩm mang nhãn hiệu; số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu, v.v... Thứ sáu, nhà nước cần khuyến khích thành lập các trung tâm, công ty tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong vấn đề đăng ký nhãn hiệu. KẾT LUẬN Trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các loại hàng hóa và dịch vụ cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay, vai trò của nhãn hiệu - một trong những đối tượng truyền thống và chủ yếu của sở hữu công nghiệp - ngày càng trở nên quan trọng. Với chức năng ban đầu là giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hóa cùng loại của các nhà sản xuất khác nhau, qua quá trình sử dụng và phát triển, nhãn hiệu đã trở thành một công cụ hữu hiệu cho một doanh nghiệp (dù lớn hay nhỏ) tiếp cận, phát triển và bảo vệ thị phần hàng hóa và dịch vụ của mình. Vì vậy vấn đề bảo hộ hàng hoá là vấn đề cấp thiết và quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam bắt buộc phải thực thi các quyền về sở hữu trí tuệ theo cam kết hội nhập. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. Năm 2005 2. Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá theo thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu và nghị định thư của Thoả ước 3. GS.TS. Đỗ Đức Bình, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng. Năm 2002. Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Lao động – Xã hội 4. PGS.TS. Nguyễn Thừa Lộc; TS. Trần Văn Bão. Năm 2005. iáo trình chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, NXB Lao động – Xã hội 5. TS Nguyễn Quế Anh. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các qui định về xác lập quyền sở hữu công nghiệp - Tạp chí Dân chủ và pháp luật, chuyên đề về sở hữu trí tuệ, tháng 3/2005. 6. Luận án Tiến sĩ của NCS Nguyễn Văn Luật về đề tài “ Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam – 28/2/2006 7. Ths. Phan Ngọc Tâm. Ngày 20/2/2008. Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Châu Âuvà Hoa kỳ. Website:www.thongtinphapluatdansu.com.vn 8. Vũ Hạnh. Ngày 30/10/2007. Doanh nghiệp cần đăng ký nhãn hiệu hàng hoá khi thâm nhập thi trường Hoa Kỳ. Website: www.beta.baomoi.com 9. Luật sư Nguyễn Đức Thọ. Ngày 23/12/2007. Nhãn hiệu hàng hoá.Website: www.tuvanphaply.com.vn 10. - Luật sư Nguyễn Đức Thọ. Ngày 23/12/2007. Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá như thế nào. Website: www. tuvanphaply.com.vn 11. MBA. Vũ Quang Vịnh. Ngày 20/3/2008. Thương hiệu quốc gia . Website: nhanhieuviet.com.vn 12. MBA. Vũ Quang Vịnh. Ngày 3/3/2008. Lợi ích thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Webisite: nhanhieuviet.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10055.doc
Tài liệu liên quan