Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trương hiện nay, hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang bước những bước hội nhập và phát triển, cũng như mọi doanh nghiệp khác, mục tiêu của ngân hàng là đạt đươc hiệu quả kinh tế cao nhất với mức rủi ro hạn chế nhất, công cụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, do vậy đối tượng khách hàng của ngân hàng là tồn bộ các thành phần kinh tế, bởi vậy ngân hàng phải đối phó với rất nhiều rủi ro khác nhau. Những rủi ro này gây ra thiệt hại không nhỏ cho các ngân hàng thương mại và là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà kinh tế nói chung và các nhà quản lý ngân hàng nói riêng.
Tuy nhiên, với đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh tiền tệ, nhu cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong cơ chế kinh tế mới - nền kinh tế thị trường - rủi ro tín dụng cần phải được đề cập một cách cơ bản, tồn diện và cụ thể khi đánh giá hiệu quả hoạt động của một ngân hàng.
Trong điều kiện mới - điều kiện không còn bao cấp về vốn, NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang cố gắng rất lớn trong việc tự cân đối vốn và nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng ngày càng tăng và đa dạng hơn. Cũng như các Ngân hàng khác bước vào môi trường kinh tế mới, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang gặp phải rất nhiều khó khăn và rủi ro trong kinh doanh đặc biệt là rủi ro tín dụng. Do vậy, để thực sự kinh doanh có hiệu quả, các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang nói riêng cần nắm vững các loại rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng và những biện pháp nhằm hạn chế những rủi ro đó. Để góp phần vào quá trình phát triển ngân hàng an tồn và vững mạnh , em đã chọn đề tài: ” Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc Giang” này nhưđể tiếp xúc với ngân hàng trong thực tế, làm quen và bổ sung vào kiến thức cho quá trình sau này.
Chuyên đề gồm ba chương chính như sau:
Chương I: Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang
Chương III: Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang
Tuy nhiên, do thời gian tìm hiểu cũng như trình độ nhận thức còn hạn chế, bài chuyên đề không tránh khỏi những sơ sài và thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của thầy giáo và các cán bộ tín dụng tại NHNo & PTNT Bắc Giang để em hồn thiện chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn !
59 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng dư nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn của NHNo&PTNT Bắc Giang
Đơn vị : tỷ đồng
ChỉhØ tiêuªu
ĐVTVT
Năm¨m 2003
Năm¨m 2004
Năm¨m 2005
Tổngng dưd nợnî
TỷTû
1.251
1.540
1.866
DưD nợnî quáu¸ hạn¹n
“
11,447
11,921
68,25
TỷTû lệlÖ nợnî quáu¸ hạn¹n/Tổngng dưd nợnî
%
0,9
0,77
3,66
(Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế tốn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Để hoạt động ngân hàng ngày càng có hiệu quả, vừa đảm bảo tăng khối lượng hoạt động, vừa củng cố và nâng cao chất lượng phục vụ. Trong thời gian qua NHNo&PTNT Bắc Giang không ngừng chỉ đạo thực hiện chấn chỉnh công tác Ngân hàng theo công văn chỉ đạo 756 của Thống đốc NHNN và các văn bản chỉ đạo của NHNo&PTNT Việt Nam, từ mấy năm lại đây tín dung luôn được mở rộng và tăng trưởng với nhịp độ cao, chất lượng tín dụng đã được cải thiện nhiều, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ thấp. Tuy nhiên, nợ quá hạn trọng thời gian qua vẫn có những thay đổi mà lãnh đạo Ngân hàng phải lưu tâm. Năm 2003 và năm 2004 chi nhánh đã chỉ đạo thực hiện nghiêm ngặt quy trình cho vay , để hạn chế nợ phát sinh mới, thường xuyên kiểm tra phân tích từng khoản nợ đến hạn, nợ quá hạn để có biện pháp xử lý thu hồi nợ phù hợp với điều kiện và tính chất của từng khoản nợ như : khai thác triệt để các nguồn thu của khách hàng để thu nợ quá hạn, phát mại tài sản đối với các khoản nợ có đảm bảo bằng tài sản, phối hợp với cơ quan pháp luật để cưỡng chế thu hồi nợ, phân tích từng khoản nợ để xử lý bằng nguồn vốn dự phòng rủi ro... Tổng dư nợ quá hạn năm 2003 là 11,447, năm 2004 con số này là 11,921. Tổng dư nợ quá hạn năm 2005 đã tăng lên 68,25 tỷ.
Để hiểu thêm về nợ quá hạn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang ta đi vào phân tích cụ thể chỉ tiêu này theo nhiều khía cạnh khác nhau.
Bảng 4: Kết cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Nợ quá hạn
11,447
100
11,921
100
68,25
100
+ Quốc doanh
9,4
82,1
9,42
84
60,067
88
+ Ngồi quốc doanh
2,049
17,9
2,5
16
8,19
12
( Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế tốn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Qua bảng số liệu ta thấy, nợ quá hạn của thành phần kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng chủ yếu. Cụ thể là năm 2003, tỷ lệ này là 81,2% tổng dư nợ quá hạn, năm 2004 là 84%, đến năm 2005 tỷ lệ này lên đến 88%. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp quốc doanh đang trong tình trạng máy móc thiết bị lạc hậu , bộ máy quản lý cồng kềnh kém năng động, năng suất lao động thấp. Nhiều doanh nghiệp có máy móc thiết bị hiện đại nhưng hàng sản xuất ra lại không tiêu thụ được do không đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng hoặc không cạnh tranh được với hàng giả, hàng nhập lậu tràn lan trên thị trường, đặc biệt là hàng hố trà lan từ Trung Quốc. Vì là doanh nghiệp quốc doanh lên phần lớn các doanh nghiệp này sử dụng hình thức tín dụng là tín chấp, do vậy nợ quá hạn của thành phần kinh tế này tăng theo từng năm. Điển hình trong thành phần kinh tế này là nhà máy gạch Tân Xuyên hay như công ty dứa Sơn Động, nhà máy phân đạm Hà Bắc...Trong khi tỷ lệ nợ quá hạn của doanh nghiệp quốc doanh tăng thì tỷ lệ nợ quá hạn của các doanh nghiệp ngồi quốc doanh giảm dần qua các năm. Năm 2003 là 17,9% thì đến năm 2005 tỷ lệ này là 12%. Tuy nhiên về số tuyệt đối thì nợ quá hạn lại tăng trong thành phần kinh tế này, từ 2,047 tỷ năm 2003 lên 2,5 tỷ năm 2004 và 8,19 tỷ năm 2005. Điều này có thể hiểu là tại vì trong thời gian gần đây Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đang mở rộng thị phần tín dụng sang doanh nghiệp ngồi quốc doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn khá thì cũng có doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, chính vì vậy mà nợ quá hạn tăng lên nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại giảm.
Biểu đồ 2: Tỷ trọng nợ quá hạn theo thành phần kinh tế.
Xét cơ cấu nợ quá hạn theo thời hạn cho vay ta có bảng sau:
Bảng 5: Nợ quá hạn theo thời gian cho vay
Đơn vị : Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Nợ quá hạn
11,447
100
11,921
100
68,25
100
-Ngắn hạn
4,24
37
4
34
19,8
29
-Trung, dài hạn
7,21
63
7,87
66
48,45
71
( Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế tốn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Qua bảng trên ta thấy, xu hướng đang diễn ra về nợ quá hạn theo thời hạn cho vay rất rõ ràng, tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn có xu hướng giảm, trong khi đó tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn tăng theo từng năm. Cụ thể là trong năm 2003 nợ quá hạn ngắn hạn là 4,23 tỷ, chiếm 37% tổng nợ quá hạn. Con số này giảm từ 34% (tương ứng 4tỷ năm 2004) xuống còn 29% năm 2005 (tương ứng 19,8tỷ). Tuy nhiên cũng phải thấy rằng tỷ lệ nợ quá hạn ngắn hạn giảm nhưng về số tuyệt đối thì vẫn tăng, Trong khi đó tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn tăng lên qua các năm đồng thời số tuyệt đối cũng tăng lên tương ứng, từ 7,21 tỷ ( 63% năm 2003) lên 7,87tỷ năm 2004 ( 66% ) và lên 48,45 tỷ năm 2005 ( 71% ). Tuy có sự tăng giảm về tỷ lệ nợ quá hạn theo thời gian cho vay nhưng sự tăng giảm này còn nhỏ. Điều đó có thể được giải thích như sau: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đang dần chuyển dịch đầu tư cho vay từ ngắn hạn là chủ yếu sang trung dài hạn, chính điều đó đã làm cho tổng dư nợ của các khoản vay ngắn hạn và trung dài hạn thay đổi. Một điều cần nhấn mạnh ở đây là cho vay trung dài hạn có thể mang lại lợi nhuận cao hơn ngắn hạn nhưng nó lại tiềm ẩn rủi ro cao hơn, điều đó có thể thấy được một phần qua bảng đã nêu trên.
Biểu đồ 3: Tỷ trọng nợ quá hạn theo thời gian
Xét về nợ quá hạn nói chung thì tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đã giữ được ở mức an tồn cho phép qua các năm trở lại đây. Mức an tồn này là động lực để cho ngân hàng có những quyết định sáng suốt trong quá trình hoạt động tín dụng thời gian tới. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần lưu ý bởi vì bên cạnh đó vẫn tồn tại những khoản tín dụng mang lại tổn thất cho ngân hàng.
Ta sẽ xem xét vấn đề này qua vấn đề về nợ khoanh.
Bảng 6: Tỷ lệ nợ khoanh trên tổng dư nợ
đơn vị: tỷ đồng
ChỉhØ tiêuªu
ĐVTVT
Năm¨m 2003
Năm¨m 2004
Năm¨m 2005
Tổngng dưd nợnî
TỷTû
2019
2718
3397
NợNî khoanhnh
“
16,362
21,373
8
NợNî khoanhnh
%
1,3
1,4
0,4
Tổngng dưd nợnî
( Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế tốn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang )
Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ nợ khoanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đạt thấp. Sở dĩ năm 2004 tăng hơn so với năm 2003 là vì trong thời gian này ngân hàng đang có sự dịch chuyển dần về thành phần cho vay cũng như về thời gian cho vay. Lúc này có nhiều doanh nghiệp chưa có khả năng thanh tốn cho ngân hàng gây ra tình trạng nợ khoanh tăng lên. Trong quá trình thay đổi cơ cấu cho vay và dần hồn thiện các bước, các chính sách cho vay, điều đó làm cho nợ khoanh giảm cả về số tuyệt đối và số tương đối. Cụ thể là năm 2003 nợ khoanh chiếm tới 16,461 tỷ ( bằng 1,3% tổng dư nợ), năm 2004 con số này là 21,37 (chiếm 1,4% tổng dư nợ) thì đến thời điểm năm 2005 còn 8 tỷ nợ khoanh và chỉ chiếm 0,4% tổng dư nợ giảm 1% so với năm 2004. Cho dù vẫn tồn tại những khoản nợ khoanh, là một điều mà các ngân hàng đều không muốn xảy ra tại ngân hàng mình – là một khoản nợ mà các ngân hàng đều muốn giảm thiểu tối đa, nhưng cũng phải thấy được sự cố gắng của các cán bộ công nhân viên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang.
Biểu đồ 3 : Tỷ lệ % nợ khoanh trên tổng dư nợ
Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy ngay rằng tỷ lệ nợ khoanh đang đi xuống tức là giảm dần qua các năm .
Khi đánh giá về rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thì cũng không thể bỏ qua chỉ tiêu về tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng. Chỉ tiêu này là phản ánh một cách gián tiếp xem liệu ngân hàng đang ở trong tình trạng rủi ro ra sao. Nói là gián tiếp vì có thể có ngân hàng có tỷ lệ này cao song rủi ro của ngân hàng đó lại thấp hoặc ngược lại có ngân hàng có tỷ lệ này thấp nhưng không có nghĩa là ngân hàng đang trong tình trạng an tồn.
Bảng 7: Tỷ lệ dự phòng tổn thất.
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Dự phòng tổn thất
Tỷ đồng
4,9
7,2
32
Doanh số cho vay trong kỳ
“
52,8
130
150
Tỷ lệ dự phòng tổn thất/ doanh số cho vay
%
9,3
5,45
2,14
(Nguồn: Bảng báo cáo chi tiết kết quả kinh doanh hàng năm tại phòng kế tốn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang)
Qua bảng phân tích trên ta thấy Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang đã có sự chuẩn bị đề phòng trường hợp xấu nhất xảy ra. Tuy tại ngân hàng tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng với vấn đề an tồn là quan trọng, quỹ dự phòng hàng năm vẫn duy trì ở mức ổn định tương ứng với doanh số cho vay của ngân hàng
2.3. Đánh giá rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc Giang
NHNo&PTNT Bắc Giang chiếm thị phần tín dụng lớn trên địa bàn, điều đó chứng minh vào sự uy tín của Ngân hàng đối với người dân. Chính vì vậy Ngân hàng đã cố gắng hết sức để bảo vệ uy tín của mình bằng nhiều hoạt động đặc biệt là hoạt động tín dụng.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ >7% thì bị coi là Ngân hàng hoạt động yếu kém, còn Ngân hàng có tỷ lệ <5% thì được xem là Ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt. Qua phân tích bảng 3 cho ta thấy chất lượng tín dụng của NHN0&PTNT Bắc Giang mấy năm lại đây tương đối tốt, tỷ lệ nợ quá hạn từ năm 2003 luôn đạt dưới 0,9%. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng mức độ tín dụng còn thấp, khả năng mở rộng tín dụng ngân hàng còn hạn chế. Mặc dù từ năm 2003-2004, nợ quá hạn có giảm nhưng chủ yếu là do khoanh nợ số nợ tồn đọng cũ thì khó thu hồi. Năm 2005, tổng dư nợ có tăng nhưng song song với nó là tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ cũng tăng(3,66%), điều đó cho thấy sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro nếu không có biên pháp quản lý, phòng ngừa rủi ro hữu hiệu.
Tỷ lệ rự phòng tổn thất/ doanh số cho vay tương đối cao: năm 2003 la 9,3%, 2004 là 5,45% điều đó chứng tỏ NHNo&PTNT Bắc Giang đã có sự chuẩn bị tương đối tốt trong việc đề phòng với những rủi ro có thể xảy ra.
* Những tồn tại
- Đối tượng cho vay được mở rộng, dư nợ cho vay hàng năm không ngừng tăng lên cả về quy mô và cơ cấu nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu về vốn cho các chương trình phát triển kinh tế của tỉnh, đặc biệt là vốn để khai thác các tiềm năng về đất đai, khai thác các tài nguyên rừng, tài nguyên biển hiện có. Cho vay để phát triển các mô hình sản xuất hàng hố, mô hình kinh tế trang trại, đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, cho vay kinh tế hợp tác xã, cho vay nhu cầu đánh bắt hải sản chưa được nhiều.
- Diện cho vay tuy đã được mở rộng song mức cho vay đối với kinh tế hộ còn thấp, địa bàn cho vay nông nghiệp, nông thôn rộng lớn ,món vay nhỏ lẻ nên chi phí hoạt động cao, khối lượng công việc nhiều, lượng khách hàng là nông dân đông dẫn tới việc quá tải cho cán bộ tín dụng, từ đó gây không ít khó khăn cho công tác kiểm tra kiểm sốt các món vay.
Chưa áp dụng rộng rãi các phương thức, các hình thức cho vay mới. Hình thức cho vay chủ yếu vẫn là cho vay trực tiếp. Trong những năm qua NHNo&PTNT Bắc Giang đã áp dụng hình thức cho vay thông qua tổ, nhóm hội nông dân, hội phụ nữ …đến tận các xác xã phường tuy nhiên thực hiện chưa đuợc nhiều và quán triệt.
Vấn đề tài sản thế chấp bảo đảm vốn vay, chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất nhưng giá trị quyền sử dụng đất được tính theo khung giá thường rất thấp, do đó hạn chế các diện cho vay và mức cho vay. Việc xử lý thu hồi nợ cũng gặp không ít những khó khăn, nhất là đối với nợ quá hạn, nợ tồn đọng.Việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ không mấy thuận lợi, thủ tục phức tap rườm rà, chi phí phát mại tài sản thu hồi quá cao vì phải qua nhiều khâu, nhiều bước gây ảnh hưởng rất lớn tới việc mở rộng đầu tư, đặc biệt là các món đầu tư lớn, yêu cầu phải thực hiện bảo đảm nợ vay bằng tài sản.
Công tác chỉ đạo điều hành của một số giám đốc chi nhánh cấp I, cấp II chưa thực sự sâu sát, chưa thực sự đi cơ sở, chưa sử lý dứt điểm các tồn tại.
Việc thuc hiên phân tích nợ xấu, quá hạn, nợ đã sử lý rủi ro chưa thường xuyên, sau khi phân tích chưa đề ra các biện pháp tích cực để sử lý thu hồi nợ.
Triển khai thực hiện đề án củng cố huy động và vay vốn còn châm.
Trình độ nghiệp vụ của một số cán bộ kế tốn, tín dụng còn hạn chế.
Trong một số lĩnh vực hoạt động việc cung ứng công nghệ tin học chưa phát huy hiệu quả tối đa, thông tin khach hàng vay vốn chưa kịp thời, thiếu chinh xác do số lương khách hàng lớn, phần mềm tin học hiếu đồng nhất, kết nối giữa các nghiệp vụ chưa triển khai kịp thời các ứng dụng tin học của một ngân hàng bán lẻ hiện đại.
*Một số nguyên nhân dẩn đến rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang
Hiệu quả sử dụng vốn vay của các DN chưa cao, nợ đến hạn không trả được để phát sinh nợ quá hạn còn nhiều, nhiều trường hợp đã được Chính phủ cho giãn nợ, khoanh nợ nhưng vẫn không khôi phục được sản xuất. Trách nhiệm của các ngành quản lý theo dõi giúp đỡ doanh nghiệp chưa cao, khi doanh nghiệp khó khăn phó mặc cho ngân hàng và giám đốc doanh nghiệo tự xoai sở, nhiều doanh nghiệp lúng túng không tìm được lối thốt, điều này đã ảnh hưởng lớn tới việc phòng ngừa rủi ro và mở rộng tín dụng của ngân hàng .
Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thấp, đặc biệt là các DNNN địa phương quản lý, hiệu suất sử dụng tài sản cố định vào sản xuất thấp, sản xuất kinh doanh không hiệu quả, tài sản đảm bảo nợ không đáng kể lại không đủ điều kiện đảm bảo. Bên cạnh đó công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngồi quốc doanh chưa cao, việc chấp hành chế độ báo cáo thống kê, báo cáo tài chính chưa nghiêm túc, đã làm ảnh hưởng tới chất lượng kiểm tra, thẩm định của Ngân hàng trước, trong và sau khi cho vay.
Đối với các HTX đã được chuyển đổi từ mô hình cũ sang mô hình HTX kiểu mới và HTX thành lập mới theo Luật nhưng hầu hết chưa đủ vốn, tài sản, cơ sở vật chất để hoạt động kinh doanh. Hơn nữa trình độ quản lý còn yếu kém, chưa có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, doanh số hoạt động trong năm thấp, không đủ bù đắp chi phí, không trả được lãi cổ tức, một số nơi tái xuất hiện nợ khê đọng.
Hiện nay do việc đổi điền dồn thửa nên còn một tỷ lệ rất lớn các hộ chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc UBND xã xác nhận diện tích đất hộ đang sử dụng không có tranh chấp, đã tạo điều kiện thuận lợi cho vay các hộ. Song bản thân chính quyền địa phương cũng gặp khó khăn trong việc theo dõi và xác nhận, về phía ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm sốt cho vay, dễ dẫn đến việc cho vay chồng chéo, vượt quá nhu cầu thực tế cho sản xuất kinh doanh .
Mặt khác trong quá trình hoạt động, ngân hàng gặp phải trở ngại rất lớn là việc thiếu thông tin tín dụng. Để có thể phòng ngừa rủi ro tín dụng thì cần phải nắm bắt được những thông tin chủ yếu như: Về khách hàng, về các chính sách mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung, về các thông tin về biến động kinh tế thị trường, lãi suất ... .Nhưng hiện nay, việc không lắm bắt được thông tin hay không cập nhật đầy đủ, cập nhật quá muộn dẫn đến ảnh hưởng công tác rủi ro tín dụng.
Ngồi ra cũng cần phải kể đến nguyên nhân từ phía ngân hàng dẫn đến tinhg trạng nợ quá hạn.Việc cấp tind dụng không đúng do đánh giá sai lệchphương án sản xuất kinh doanh,tình hình tài chính của công ty có thể do thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệmt thiếu kiến thức dẫn đến đánh giá sai lệch.Việc cố ý đánh giá sai cũng cũng co thể do xuất phát từ tình hình thực tế, nếu đánh giá đúng thực chất thì rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện cho vay dẫn đến hoạt động tín dụng bị thi hẹp.Trong xuốt qúa trình cấp tín dụng, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng là pahi thương xuyên theo dõi việc sử dụng vốn cũng như biến độngcủa doanh nghiệp đẻ kịp thời sử lýkhi có tinh huống xấu.hiện nay cán bộ tín dụng đã thực thiện việc theo dõi này nhưng còn nhiều hạn chế do cán bộ tín dụng it đi xuống thực tế, giám sát trực tiếp mà chỉ nhận thông tin từ khách hàng. Ngồi ra sự tập chung tín dụng qú mức vào một khu vực khách hàng, sự thiếu vắng các biện pháp điều chỉnh danh mục tín dụng trước các diễn biến vĩ mô bất lợi ………là những yếu tố đẩy ngân hàng vào các khoản nợ xấu.
Bên cạnh đố cần kể đến một số nguyên nhân khác như: Tình trạng suy thối kinh tế và giảm phát lớn, tỷ giá ngoại tệ tăng cao đầu tư nước ngồi giảm sút. Do sức mua của thị trường giảm sút nên hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị thu hẹp, hàng tồn kho, nhu cầu vay giảm đi. Mặc dù trong năm 1999 chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp để kích cầu như giảm lãi suất cho vay và áp dụng chế độ làm việc 8 giờ/ ngày.
chương III - biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tai nhno&ptnt tỉnh bắc giang
3.1.định hướng phát triển của nhno&ptnt bắc giang
Tập trung tồn hệ thống thực hiện bằng được những nội dung cơ bản theo tiến độ đề án cơ cấu lại NHNo việt nam giai đoạn 2001 – 2010 đã được phê duyệt và tập trung xây dựng NHNo Việt Nam thành lập đồn tài chính.
Tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối,an tồn và khả năng sinh lời, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh với nhưng ngân hàng khác.
Tập trung đầu tư hiện đại hố, đào tạo nguồn nhân lực đổi mới công nghệ ngân hàng phù hợp với hiện đại hố đủ năng lực hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển giá trị thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hố doanh nghiệp.
Mục tiêu cụ thể:
Nguồn vốn tăng tối thiểu 27%
Dư nợ thông thường tăng tối đa 27%
Tỉ lệ nợ quá hạn / tôngt dư nợ < 5%
Lợi nhuận tăng 10% so với năm 2005
Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định.
3.2. biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại nhno&ptnt
bắc giang
3.2.1 Chú trọng công tác tuyển dụng và đào tạo cán bộ tín dụng, đặc biệt là cán bộ chuyên trách về quản trị rủi ro.
Việc tuyển dụng nhân việc nên coi trọng như việc đánh giá cán bộ. Nên chọn đúng người đúng việc, căn cứ vào khả năng thực có của họ chứ cũng không nên xem trọng bằng cấp. Nên chọn đủ người chứ không nên chọn nhiều hoặc ít quá, vì hai khả năng này đều dẫn đến sự bất cấp trong vấn đề bố trí công tác.
Việc xác định nhu cầu tuyển dụng nên xuất phát từ cơ sở, định hướng chiến lược phát triển của ngân hàng. Ngồi ra cần nêu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động để lựa chọn những người có năng lực thực sự.
Thông qua phỏng vấn trực tiếp để đánh giá phần nào năng lực của từng người ...
Trên đây là một số điểm cần lưu ý trong khâu tuyển dụng. Việc tuyển dụng được làm tốt sẽ hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong lĩnh vực nghiệp vụ mà còn nâng cao được chất lượng phục vụ khách hàng, từ đó nâng cao uy tín của ngân hàng.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng thì vấn đề đào tạo và đào tạo lại chuyên mon cho đội ngũ cán bộ ngân hàng luôn cần được quan tâm. Bởi nhhư chúng đã biết, khoa học ngày càng phát triển đã cho ra đời những máy móc ngày càng hiện đại hơn, như vậy chúng ta sẽ bị tụt hậu so với tiến bộ của lồi người. Mà ngân hàng là một ngành cần nắm bắt những công nghệ hiện đại hơn bao giờ hết. Do vậy hàng năm ngân hàng nên tổ chức những đợt tập huấn nhằm nâng cao hơn nữa trình độ của cán bộ nhân viên. Nên thuê thêm những chuyên gia giỏi trong lĩnh vực ngân hàng để tư vấn cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Tổ chức các cuộc thi tay nghề (nghiệp vụ), tài trợ du học cho các cán bộ có năng lực... Việc tổ chức đào tạo chuyên môn gồm một số giai đoạn lần lượt sau:
- Thực hiện đánh giá thực trạng nguồn nhân lực của ngân hàng và mức độ đáp ứng nhu cầu hiện đại. Nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn này là phát hiện những hụt hẫng về kiến thức của mỗi cán bộ khi thực hiện các chức trách cụ thể và tác động của những thiếu sót đó đến kết quả công việc.
- Tổng hợp các nhu cầu cụ thể về đào tạo cán bộ - Ưu tiên lựa chọn ứng cử viên đi đào tạo là cán bộ, chuyên gia có triển vọng và năng lực nhất, có ý nghĩa quyết định đến hoạt động của ngân hàng.
- Lập kế hoạch và ngân sách đào tạo theo từng bộ phận.
- Giám sát quá trình đào tạo cán bộ và kết quả đào tạo.
- Tổng kết công tác đào tạo sau một năm, xây dựng các phương pháp động viên cá nhân với việc sử dụng một số khuyến khích về tinh thần và vật chất.
Quá trình đào tạo chuyên môn cho cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng cần đi vào bề sâu. Nhân viên tín dụng không chỉ phải biết rõ về các nghiệp vụ tín dụng mà còn phải am hiểu các vấn đề xã hội cũng như một số vấn đề về các ngành kinh tế then chốt, về giá, thị trường. Có như vậy mới bảo đảm giảm tối thiểu được rủi ro khi tiến hành cho khách hàng vay vốn.
+ Bố trí công tác.
Hiện nay hầu hết các ngân hàng ở Việt Nam đều gặp phải các vướng mắc trong công tác tổ chức và phân chia quyền hạn của cán bộ ngân hàng. Bộ máy tổ chức của ngân hàng quá khồng kềnh, song lại hoạt động kém hiệu quả. Cán bộ tín dụng hiện nay vừa làm công tác thẩm định tín dụng vừa làm công tác cho vay, điều này là cơ hội để cho một loạt những vấn đề tiêu cực xảy ra, thiệt hại tới lợi ích của ngân hàng. Trong khi đó, hệ thống ngân hàng nước ngồi tại Việt Nam vẫn tồn tại được trong môi trường rủi ro với khối lượng nhân viên rất ít những giỏi và cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Tổng dư nợ bình quân của các chi nhánh ngân hàng nước ngồi cung cấp cho nền kinh tế trên 25% tổng dư nợ tồn hệ thống, nhưng dư nợ tín dụng chỉ chiếm khoảng 0,2%.
Với lý do phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, đề tài này xin đưa ra một cơ cấu tổ chức tương đối hồn chính để thực hiện nghiệp vụ tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung của một ngân hàng hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam.
Phân cấp quản lý và chế độ báo cáo tín dụng.
Hầu như tất cả các nội dung thẩm định đều được thực hiện bởi các cán bộ tín dụng, nhưng bên cạnh đó vẫn có mối quan hệ theo chiều ngang, chều dọc giữa các bộ phận trong ngân hàng và giữa các chi nhánh trong ngân hàng mẹ. Những mối liên hệ này nhằm mục tiêu cao nhất là nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung.
3.2.2 Nâng cao chất lượng kết qủa phân tích, thẩm định khách hàng, phương án vay vốn.
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng hay nói cách khác của bất kỳ một doanh nghiệp nào khác thì khách hàng cũng là đối tượng đầu tiên quan trọng nhất. Nhưng do những đặc điểm kinh doanh khác biệt của ngân hàng mà đối tượng khách hàng của ngân hàng cũng khác biệt. Khách hàng là người đảm bảo an tồn cho khoản tín dụng mà ngân hàng cấp và họ phải chịu trách nhiệm việc sử dụng có hiệu quả vốn vay và hồn trả đúng thời hạn cho ngân hàng. Song chính họ cũng là 1 nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng khi hồn trả các khoản vay đúng hạn hoặc không có khả năng hồn trả hoặc cố ý lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng. Do đó trong các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng thì đánh giá khách hàng là 1 biện pháp rất quan trọng và cần thiết.
Khi đánh giá khách hàng ngân hàng phải lưu ý 1 số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất là về tư cách pháp nhân của đơn vị vay vốn. Tư cách pháp nhân là một yếu tố quan trọng quyết định đơn vị đó có được ký kết các hợp đồng kinh tế hay không hay nói cách khác đơn vị có được tham gia vào hợp đồng tín dụng với ngân hàng hay không. Theo luật pháp quy định một đơn vị có đủ tư cách pháp nhân tối thiểu phải có những giầy tờ sau:
Quyết định thành lập doanh nghiệp.
Quyết định tổ chức.
Giấy phép kinh doanh.
Thứ hai, khi phân tích đánh giá khách hàng, ngân hàng cần phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của họ. Doanh thu và kết quả kinh doanh là hai chỉ tiêu quan trọng vì vậy ngân hàng cần phải phân tích hai chỉ tiêu này trước khi cho vay. Doanh thu là chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng của quá trình tiêu thụ hàng hố. Doanh thu của doanh nghiệp càng lớn doanh nghiệp càng có điều kiện tăng thu nhập và mở rộng sản xuất có khả năng trả nợ ngân hàng.
Còn kết quả kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá tồn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tính bằng giá thành và giá bán sản phẩm. Kết quả kinh doanh càng cao thể hiện quá trình hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả, khả năng sử dụng vốn vay đạt mực đích kinh tế đặt ra, khoản tín dụng của ngân hàng càng có điều kiện hồn trả đúng hạn.
Tuy nhiên, khi phân tích doanh thu của doanh nghiệp ngân hàng cần phải xem xét doanh thu tăng lên vì nguyên nhân nhân, sự tăng lên đó có hợp lý hay không. Trong một số trường hợp doanh thu tăng lên chưa chắc đã chứng tỏ tình hình kinh doanh của doanh nghiệp tốt. Ví dụ doanh thu tăng lên do gía cả đầu vào tăng, mà giá cả đầu vào tăng xẽ gây ảnh hưởng không tốt đến tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp, dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng. Bên cạnh đó một số doanh nghiệp vì muốn vay vốn hay muốn lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng đã tạo ra kết quả kinh doanh giả trong đó doanh thu tăng lên. Do vậy khi phân tích doanh thu cần đặt nó trong mối quan hệ với các con số và dữ liệu khác để đưa ra kết luận chính xác hơn.
Ngồi ra khi phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải nghiên cứu sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh hoặc sản xuất xem có phù hợp với nhu cầu của thị trường không. Điều này rất quan trọng bởi vì nếu việc đầu tư của doanh nghiệp vay vốn không đúng hướng có thể gây khó khăn cho chính doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến ngân hàng. Nhưng nếu ngân hàng nghiên cứu sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh hoặc sản xuất thì có thể đưa ra những nhận xét đúng đắn về sản phẩm, đánh giá tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, tư vấn cho doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết, từ đó tránh được những rủi ro không đáng có...
Thứ ba, ngân hàng cần phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp:
Qua báo cáo tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm gần nhất, ngân hàng cần tiến hành phân tích, có thể đánh giá được ảnh hưởng của nó đến mức độ rủi ro của khoản cho vay sau này. Việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp cho thấy doanh nghiệp đang thừa vốn hay thiếu vốn, vốn của doanh nghiệp được sử dụng như thế nào, khả năng tiềm tàng nằm ở đâu để từ đó có những giải quyết đúng đắn với các khoản tín dụng phát ra.
Các chỉ tiêu ngân hàng sử dụng trong việc phân tích:
- Tỷ lệ vốn tự có/ vốn sử dụng:
Tỷ số này càng cao thì ngân hàng có khả năng chi vay và sẽ hạn chế cho vay đối với doanh nghiệp có mức vốn tự co thấp hơn nhiều so với vốn sử dụng.
Chênh lệch các khoản phải tra, phải thu cho biết tỷ lệ vốn bị chiếm dụng và vốn chiếm dụng của doanh nghiệp. Xem xét chỉ tiêu này ngân hàng có thể đánh giá ảnh hưởng của nó đến khả năng hồn trả khoản vay đúng hạn của khách hàng.
Khả năng thanh tốn của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến mức rủi ro cho một khoản vay. Một doanh nghiệp có khả năng thanh tốn tốt là có đủ khả năng hồn trả các khoản nợ khi hết hạn. Thông thường các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt có khả năng tự cân đối các khoản nợ khi đến hạn và ngược lại, các doanh nghiệp có tình hình tài chính xấu không thể tự cân đối để trả nợ khi đến hạn, thường thì họ kéo dài thời hạn vay, hoặc vay nơi này trả nơi khác nên tình trạng nợ dây dưa và một lúc nào đó doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh tốn. Đối với những trường hợp này, khi ngân hàng cho vay sẽ gặp rủi ro rất lớn, các chỉ tiêu ngân hàng sử dụng để phân tích là các hệ số thanh tốn:
Hệ số thanh tốn ngắn hạn = Tài sản lưu động/ tài sản có lưu động
Hệ số này cao thì tốt nhưng quá cao thì cũng không tất vì lức đó số lượng hàng tích trữ quá lớn, điều này phản ánh việc sử dụng tiền không có hiệu quả vì không sinh lời. Tỷ lệ này biến động từ 1,5 đến 2 là tốt. Tuy nhiên để đánh giá khả năng thanh tốn của doanh nghiệp một cách đúng đắn hơn cần xem xét các yếu tố sau:
Bản chất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ cấu tài sản lưu động.
Hệ số quay vòng của một số tài sản lưu động.
Hệ số thanh tốn tức thời (hay còn gọi là hệ số thanh tốn nhanh) thể hiện khả năng về tiền mặt và các loại tài sản có thể chuyển ngay thành tiền để thanh tốn nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh tốn nhanh = TSLĐ - Hàng tồn kho/ tài sản nợ lưu động
Nhìn chung tỷ lệ này biến động từ 0,5 - 1 là tốt nhất, nếu tỷ lệ này quá nhr (<0,5) doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong thanh tốn, và có thể tạo nên sự căng thẳng tức thời của doanh nghiệp.
Tỷ lệ cân đối vốn: tỷ lệ này phản ánh khả năng thanh tốn dài hạn. Tỷ lệ này càng thấp doanh nghiệp càng ổn định. Ngồi ra khi phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ngân hàng cần nắm được những thủ thuật mà các doanh nghiệp sử dụng khi đệ đơn xin vay:
- Tính khấu hao tài sản cố định thấp hơn so với mức thực tế để nâng cao giá trị còn lại của tài sản cố định lên.
- Doanh nghiệp thường bù trừ giữa số tiền phải thu và ứng trước của người mua để dấu bớt nợ nần hỗ trợ lẫn nhau để vay vốn ngân hàng bằng cách ghi khống vào doanh thu các khoản khách hàng chưa chấp nhận hoặc khách hàng đã trả tiền mà doanh nghiệp chưa giao hàng hoặc tạo những khách hàng ma. Trong thực tế ở những doanh nghiệp yếu kém và tài chính nhằm nâng cao khả năng thanh tốn và tạo uy tín với ngân hàng, doanh nghiệp có thể phản ánh sai lệch vốn bằng tiền trên bảng cân đối kế tốn bằng cách ghi thể vào phần thu vốn bằng tiền các nghiệp vụ sẽ diễn ra ở đầu niên độ kế tốn sau hoặc chuyển bớt một số nghiệp vụ chi của niên độ kế tốn này sang niên độ kế tốn sau để giảm bớt thực chi.
- Tăng giá hàng hố dự trữ tồn kho, nhận những khoản thu nhập theo giá trị hợp đồng trong khi chỉ một phần cam kết được thực hiện hoặc hợp đồng bị huỷ bỏ. Nhiều trường hợp thay vì coi như một khoản nợ lại ghi là một khoản thu ứng trước của khách hàng.
- Vì ngân hàng thường kiểm tra báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong vòng 3 năm do vậy nhiều doanh nghiệp đã dấu bới donh thu và thu nhập của niên độ kế tốn trước chuyển sang niên độ kế tốn sau. Làm như vậy doanh nghiệp có thể tăng doanh thu trong niên độ kế tốn sau đảm bảo lợi nhuận để vay vốn ngân hàng.
Thông qua nghiên cứu đánh giá về khách hàng trên các mặt tư cách pháp nhân, tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ xếp loại khách hàng và có chính sách cho vay phù hợp.
Khách hàng đáp ứng đầy đủ các điều kiện trên thì được xếp vào loại A. Loại A luôn được ngân hàng ưu tiên vì khả năng hồn trả nợ đúng hạn đầy đủ là rất cao.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định hiệu quả thấp, có khó khăn về tài chính nhưng trước mắt vẫn vay trả bình thường được xếp loại B, loại này khi cho vay ngân hàng phải xem xét kỹ hơn.
Loại C là các đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, có khả năng giải thể. Ngân hàng không cho doanh nghiệp thuộc loại này vay vì mức độ rủi ro quá cao.
Mặc dù việc đánh giá khách hàng là cần thiết nhưng thế vẫn chưa đủ ngân hàng còn phải tiếp tục đánh giá dự án mà khách hàng vay vốn dể quyết định cho vay hay không cho vay.
Phân tích dự án vay vốn của khách hàng, nói cách khác chính là phân tích dự án kinh doanh của đơn vị vay vốn là 1 công việc hết sức quan trọng nhằm đánh giá và chứng minh tính khả thi, tính hiệu quả và tính hợp lý của dự án, làm cơ sở cho việc thẩm định phê duyệt dự án.
Phân tích dự án kinh doanh là cơ sở để các nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư cho dự án kinh doanh. Và qua đó cung cấp các thông tin cần thiết để các nhà quản trị dự án kinh doanh có những quyết định đúng đắn trong quá trình quản trị dự án.
Đối với các dự án lớn, cần phải có 2 bước phân tích là phân tích dự án tiền khả thi và dự án khả thi.
Phân tích dự án tiền khả thi là chứng minh một cách khái quát rằng ý đồ đầu tư của dự án là đúng đắn và việc phát triển tiếp tục ý đồ là cần thiết. Còn phân tích dự án khả thi nhằm chứng minh khả năng thực hiện dự án về tất cả các nội dung có liên quan.
Trong việc phân tích dự án kinh doanh cần phân tích về các mặt như: Phân tích kỹ thuật đối với dự án kinh doanh, phân tích tài chính đối với dự án kinh doanh, phân tích tính kinh tế đối với dự án kinh doanh.
Phân tích kỹ thuật đối với dự án kinh doanh nhằm định hình dự án về mặt tổng thể bao gồm quy mô đầu vào, công nghệ được sử dụng để thực hiện dự án v.v... từ đó làm rõ tính khả thi của dự án về mặt kỹ thuật. Đây là một bước rất quan trọng trong quá trình phân tích dự án kinh doanh, bởi vì nếu dự án không đảm bảo về mặt kỹ thuật thì sẽ không tạo được chấp nhận và như vậy các bước tiếp theo sẽ không có ý nghĩa.
Phân tích tài chính đối với dự án kinh doanh là đánh giá hiệu quả của dự án từ góc độ của những nhà đầu tư và các bên tham gia dự án kinh tế. Mục đích của phân tích tài chính là phân tích chi phí và lợi ích của dự án từ đó xác định tiêu chuẩn để đánh giá dự án và quyết định có nên chấp nhận dự án hay không. Thông qua việc phân tích tài chính đối với dự án kinh doanh xác định qui mô đầu tư, cơ cấu các loại vốn, các nguồn tài trợ, tính tốn lỗ lãi, lợi ích cho các nhà đầu tư và những người tham gia dự án.
Đối với nhà đầu tư thì họ không quan tâm tới việc dự án mang lại hiệu quả kinh tế cho xã hội như thế nào, cái mà họ quan tâm là khi dự án được thực hiện thì nó có hiệu quả và mang lại lợi ích cho họ như thế nào họ quyết định đầu tư.
Khi phân tích tài chính đối với một dự án kinh doanh cần chú ý phân tích các chỉ tiêu như: Giá trị hiện tại (NPV); tỷ suất nội hồn (IRR); tỷ lệ lợi ích chia chi phí (B/C); tỷ lệ lợi ích thuần trên vốn đầu tư (N/K); tỷ lệ giá trị hiện tại thuần (NPVR). Việc phân tích các chỉ tiêu này có một ý nghĩa nhất định đối với việc ra quyết định của nhà đầu tư cũng như của ngân hàng.
Về nguyên tắc người ta sẽ chấp nhận những dự án có: NPV, NPVR lớn hơn 0; IRR lớn hơn chi phí cơ hội của vốn vì lúc đó dự án có mức lãi cao hơn mức lãi thực tế phải trả cho cac nguồn vốn sử dụng trong dự án; B/C ³ 1 vì trong trường hợp này lợi ích đủ bù đắp chi phí và có khả năng sinh lời; N/K > 1.
Tuy nhiên việc quyết định không chỉ dựa vào việc tính tốn đơn thuần các chỉ tiêu trên, mà dựa trên sự tính tốn các chỉ tiêu này, so sánh với các điều kiện khác sẵn có, dự án đó là độc lập hay phụ thuộc... nhà đầu tư (ngân hàng) sẽ ra quyết định sử dụng hiệu quả vốn của mình.
Phân tích kinh tế đối với dự án kinh doanh là đánh giá hiệu quả của dự án trên góc độ nền kinh tế quốc dân. Phân tích kinh tế xem xét sự đóng góp của dự án cho các mục tiêu phát triển của nền kinh tế. Vì vậy phân tích kinh tế thường được sử dụng để đánh giá và lựa chọn các dự án có liên quan đến tài trợcủa Nhà nước.
Như vậy qua phân tích ở trên ta thấy việc phân tích kỹ lưỡng dự án kinh doanh của đơn vị vay vốn sẽ giúp ngân hàng giảm bớt được các rủi ro khi cấp tín dụng.
3.2.3 Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng phòng ngừa rủi ro
Ngày nay vai trò của thông tin rất quan trọng. Bất kể là doanh nghiệp nào nếu muốn tồn tại đều phải có quá trình thu thập và xử lý thông tin. Làm tốt công việc này sẽ đem lại những lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp như: lợi nhuận, tăng trưởng thị phần và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Đối với ngân hàng thì việc nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng là vô cùng cần thiết, bởi như trên đã nói hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại > 70% lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó, nếu hoạt động tín dụng gặp rủi ro có nghĩa là sự tồn tại và phát triển của ngân hàng gặp khó khăn. Việc cung cấp nguồn thông tin nhanh, kịp thời, chính xác và đầy đủ sẽ giảm tối thiểu được các rủi ro. Đối với ngân hàng thì các thông tin cần quan tâm là các hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp, kết quả sản xuất kinh doanh và đặc biệt quan trọng là lịch sử vay vốn của doanh nghiệp: Doanh nghiệp vay bao nhiêu lần, số lượng bao nhiêu và vay của ai, tình hình trả nợ, hiệu quả vốn vay, để có thể đưa ra quyết định đúng đắn.
Nhận thức rõ vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng, Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã sớm có chủ trương xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng mà sau này đã trở thành hệ thống thông tin tín dụng (gọi tắt là CIC) của ngành ngân hàng.
Hệ thống CIC đã phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục vụ công tác cho vay của các ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng. Tuy nhiên do mới được thành lập và đi vào hoạt động, còn đang củng cố và hồn thiện nên CIC vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc thu thập thông và xử lý thông tin. Việc thu thập và cập nhật thông tin biến động của CIC thực hiện chưa có hiệu quả, các số liệu cập nhất không kịp thời, độ tin cậy thấp đã khiến cho các Ngân hàng Thương mại và Tổ chức tín dụng ít sử dụng tài liệu do CIC cung cấp. Một trong số các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là thông tin của CIC phần lớn là do các doanh nghiệp, các Tổ chức tín dụng cung cấp. Thông tin này thường bị phản ánh sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng và đầy đủ kịp thời làm cho các thông tin thường bị lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Về phía các Tổ chức tín dụng chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, thiếu tinh thần hợp tác với nhau để cho vay... Chính vì vậy, thông tin của CIC không đủ khả năng giúp cho các ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư nợ của doanh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của các quyết định cho vay, khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các Ngân hàng Thương mại Việt Nam vào con số cao hơn mức cho phép. Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ hoạt động cho vay của các Ngân hàng Thương mại và Tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó thì các ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng cần phải năng động trong việc tìm hiểu nắm bắt được các thông tin chính xác của khách hàng. Cụ thể:
- Phỏng vấn người xin vay: Qua phỏng vấn người xin vay, cán bộ ngân hàng biết được lý do xin vay và biết được yêu cầu xin vay có đáp ứng được các đòi hỏi khác nhau của ngân hàng hay không. Nhờ đó cán bộ ngân hàng cũng có những ý tưởng nào đó về tính thật thà của người vay, nguồn nguyên liệu, lợi thế cạnh tranh, kế hoạch cho tương lai. Ngồi ra cán bộ tín dụng yêu cầu bổ sung những thông tin tài chính cần thiết phục vụ cho việc phân tích tín dụng.
- Điều tra tại nơi hoạt động kinh doanh của người vay:
Các doanh nghiệp xin vay cho phép cán bộ tín dụng đến thăm nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Một nhân viên tín dụng có trình độ sẽ biết được nhiều thông tin đáng kể về mức độ phát triển và trình độ quản lý của doanh nghiệp thông qua tài sản của họ và phỏng vấn các viên chức quản lý.
Qua chuyến thăm, cán bộ tín dụng sẽ xem xét tổ chức bộ máy quản lý thế nào, cơ cấu hoạt động ra sao, hệ thống dây chuyền sản xuất, phương pháp sản xuất kinh doanh, kho tàng dự trữ. Với doanh nghiệp sản xuất thì trang thiết bị và sơ đồ sản xuất được chú trọng nhất. Với doanh nghiệp bán lẻ thì hoạt động nhộn nhịp nói lên sức mạnh của doanh nghiệp.
Qua việc tham quan, cán bộ tín dụng có điều kiện kiểm tra lại những thông tin thu thập được qua phỏng vấn và thu thập được từ những nguồn khác.
- Lấy nguồn thông tin từ ngân hàng bạn.
Thường doanh nghiệp quan hệ với nhiều bạn hàng, với mỗi ngân hàng doanh nghiệp phải cung cấp một số lượng thông tin nhất định tuỳ theo yêu cầu của ngân hàng. Vì vậy, để tìm hiểu sâu thêm và có cái nhìn tổng thể về doanh nghiệp ngân hàng có thể thu thập thêm thông tin từ ngân hàng bạn.
- Nguồn thông tin từ các báo cáo tài chính.
Như ở phần trên đã phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một trong những bằng chứng đánh giá xác thực nhất kết quả hoạt động, tình hình tài chính... của doanh nghiệp. Do vậy ngân hàng cần thường xuyên xem xét các báo cáo tài chính, quan trọng hơn là xác định tính trung thực của các báo cáo tài chính để có những quyết định đúng đắn người nhất.
- Nguồn thông tin khác: Thông tin từ phía đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đó, từ các cơ quan chức năng, tạp chí, sách báo... Những thông này cũng rất cần thiết đối với ngân hàng.
Sau khi thu thập đầy đủ thôg tin, cán bộ tiến hành chế biến thông tin để chuẩn bị cho việc phân tích và xử lý thông tin.
3.2.4. Trích lập dư phòng rủi ro
Hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường diễn ra rất sôi động, tuy nhiên để cạnh tranh và tồn tại được đòi hỏi các ngân hàng phải trnh lập quỹ dự phòng để xử lý các rủi ro khi xảy ra. Việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro là chủ trương cực kỳ sát hợp bởi vì nó đáp ứng kịp thời đòi hỏi bức bách trong thực tiễn, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro cũng cần tuân thủ theo những quy định nhất định cụ thể:
- Một là, việc thực hiện lập quỹ dự phòng rủi ro phải thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định, tiền trích lập quỹ được đưa vào chi phí, đối tượng làm cơ sở trích lập quỹ dự phòng là tất cả các tài sản có khả năng rủi ro chứ không chỉ là dư nợ tín dụng hay nợ quá hạn. Mức trích căn cứ vào mức độ rủi ro của tài sản, được khống chế ở mức tối đa, có tính đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Định kỳ trích lập và sử dụng hàng quý để ngân hàng kịp thời giải quyết các rủi ro và điều chỉnh các hoạt động của mình theo hướng cần thiết. Đối tượng được bù đắp rủi ro từ khoản dự phòng này là các loại rủi ro phát sinh từ hoạt động của ngân hàng, trong đó có rủi ro tín dụng.
- Hai là, quỹ dự phòng bù đắp rủi ro phải xuất phát từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mức trích và nguồn trích phải căn cứ vào nguyên nhân và mức độ gây ra rủi ro cho ngân hàng.
- Ba là, chỉ sử dụng quỹ dự phòng bù đắp cho những rủi ro tín dụng gây ra bởi nguyên nhân khách quan, còn những thiệt hại tín dụng do nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng thì phải được bù đắp bằng vốn tự có.
3.2.4. Tăng cường quản lý cho vay.
Trong ngân hàng còn yếu kém về quản lý, đặc biệt là quản lý tind dụng, dẫn tới chất lượng tín dụng bị giảm sút, nợ quá hạn cao, trong đó một bộ phận không có khả năng thanh tốn, làm thấ thốt một lượng vốn lớn.Trọng của các ngan hàng là phai tăng cường quản lý cho vay( phân loại khách hàng, thực hiện các nguyên tắc cho vay, các điều kiện đảm ảo cho vay như cầm cố thế chấp) trogn khi vẫn đảm bảo cho góp phần cung ứng đủ vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng cao và ổn định.
Nếu tăng vốn cho ngân hàng và xử lý nợ quá hạn là biện pháp chủ yếu để lành mạnh hố ngân hàng thì quản lý cho vay và tăng cường giám sát tài chính là các biện pháp nhằm ngăn ngừa phat sinh các khoản nợ xấu mới.
Để gảm rủi ro tín dụng, trước khi cho vay ngân hàng càn tiến hành đánh giá hiểu quả và rủi ro các khoản cho vay đó. Có nhiều pương pháp đánh giá rủi ro tín dụng khac nhau song phương pháp áp dụng phỏ biến nhất hiện nay là phương pháp “5C”.
- Vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu thể hiện tiềm lực tài chính của khách hàng. Trong khi đánh giá sức mạnh tài chính của khách hàng vay cần đánh giá thực trạng tài chính của người đi vay và thu nhập dự kiến của họ.
- Khả năng trả nợ quyết định chất lượng tín dụng. Khi đánh giá khả năng hồn trả phải phân tích được dòng tiền vào và ra, đánh gía được thu nhập và lợi nhuận trong tương lai của khách hàng để khẳng định nguông trả nợ dựa vào bảng tổng kết tài sản của khách hàng.
- Đặc tính liên quan đến khả năng độc lập của khách hàng. Khách hàng phải có khả năng độc nập cao trong trong kinh doanh, có năng lực kinh doanh nhưng không quá mạo hiển.
- Điều kiện là các yếu tố bên trong và bên ngồi có ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng, có thể liên quan trực tiếp đến rủi ro của khoản vay. Người phân tích tín dụng phải dự dốn những trường hợp xấu nhất để lường trước những rủi ro phát sinh trong trong suốt thời gian cho vay, nhất là nhưng khoản vay trung và dài hạn.
Thế chấp chấp là những đảm bảo cho các món vay nhằm tăng cường trách nhiệm của khách hàng đồng thời là giá để đảm bảo cho các khoản tín dụng mà ngân hàng đã cấp.
Các chỉ tiêu trên cần được lượng hố trên cơ sở và ngân hàng căn cứ vào đó để cho vay hay không. Ngồi ra, các ngân hàng phải áp dụng hệ thống trong đó việc thực hiện thẩm định và cho vay phai được thực hiện bởi hai bộ phận khác nhau, độc lập và kiểm tra lân nhau từ khi tiếp nhận dự án đến khi phê duyệt hợp đồng cho vay.
Để đảm bảo an tồn cho vay, hạn chế rủi ro và thất thốt, ngân hàng của các nước phát triển thường lựa chọn đối tơựng cho vay và theo dõi sát sao quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng. Khách hàng mới và không đủ tin cậy thì phải có tài sản thế chấp hay ký quỹ co tính thanh khoản cao. Ngược lại ở các nước đang phát triển thế chấp tài sản dường như là bắt buộcvà phổ biến để tránh rủi ro.
Cần chú ý tuân thủ các nguyên tắc quản lý các khoản vay:
- Sàng lọc và giám sát khách hàng: thu thập thông tin về khách hàng, xếp loại mực độ tín nhiệm của họ. Việc chuyên môn hố cho vay tạo điều kiện thuân lợi để ngân hàng nắm chắc và hiểu rõ về khách hàng.
Quan hệ khác hàng lâu dài và quy tắc tín dụng: Quan hệ lâu dài giữa khách hàng và ngân hàng có lợi cho cả hai. Ngân hàng biết được nhiêu thông tin hơn về khách hàng, khả năng rủi ro giảm cả hai đều muốn duy trì quan hệ lau dài và khách hàng có thể hưởng những ưu đãi từ phía ngân hàng.
- Thế chấp và số dư tài khoản: Tài sản thế chấp có thể được ngân hàng đem bán để bù đắp những tổn thất do người đi vay – người thế chấp gây ra. Một dạng của thế chấp bắt buộc khi cho vay thượng mại là số dư tài khoản, nghĩa là khách hàng phải giữa một số vốn tối thiểu nhật định trong tài khoản ở ngân hàng cho vay.
3.3. một số kiến nghị
3.3.1 kiến nghị đối với chính phủ
- Nhà nước cần chỉ đạo cấc cấp, các ngành quan tâm tháo gỡ khó khăn nhất là đối với các doanh nghiệp thua lỗ, có sản phẩm ứ đọng và có nợ quá hạn Ngân hàng không có khả năng trả nợ.
- Các cơ quan chức năng cần kiểm tra và chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, chỉ cấp một bản gốc duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng tài sản thế chấp nhiều nơi để vay vốn gây thất thốt vốn của Ngân hàng.
- Bộ tài chính cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra buộc các doanh nghiệp tiến hành hạch tốn đúng theo pháp lệnh Hạch tốn kế tốn và Thống kê,đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời. Nhằm giúp cho các Ngân hàng có được các thông tin tài chính giúp cho việc phân tích tín dụng được chính xác.
- Luật pháp hố các quy định về an tồn trong hoạt động Ngân hàng, thường xuyên kiểm tra, giám sát và bắt buộc các Ngân hàng phải thực hiện đầy đủ các qui định của pháp luật trong hoạt động tín dụng. Cần hết sức thận trọng trong việc xét đủ điều kiện khi thành lập các Ngân hàng cổ phần, nâng cao tính ổn định và vững chắc của Ngân hàng hiện có.
3.3.2 kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam
- Quyết định số 67 của Chính phủ đã mở ra cho hoạt động Ngân hàng thực sự đi vào đời sống nhân dân, tạo điều kiện để Ngân hàng gần dân sát dân hơn, tạo điều kiện cho dân vay vốn để phát triển kinh tế. Song hiện nay ở một số vùng làm kinh tế trang trại, nông lâm trường lại đang rất khó khăn trong việc vay vốn vì họ chỉ có Biên bản giao thầu đất mà không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, nếu cho vay thế chấp biên bản giao thầu đất là không đúng với chế độ, mà nếu cho vay thì họ có thể vay được từ nhiều nguồn sẽ không đảm bảo chất lượng tín dụng. Vậy nên NHN0&PTNT Việt Nam cần có những giải pháp để giúp đỡ các thành phần kinh tế nói trên.
- Hiện nay đang diễn ra tình trạng nhiều tổ chức tín dụng cùng đầu tư cho một khách hàng (cạnh tranh cho vay chứ không phải cho vay đồng tài trợ) nhưng lại rất thiếu thông tin về khách hàng, tiềm ẩn rủi ro cao . Để các tổ chức tín dụng có đủ lượng thông tin cần thiết để phòng ngừa rủi ro, vậy NHN0&PTNT Việt Nam cần củng cố và nâng cao vai trò hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng(CIC),trung tâm thông tin (TRR) định kỳ hoặc đột xuất các trung tâm này có những thông tin cảnh báo cho các tổ chức tín dụng hoặc khi cần các tổ chức tín dụng có thể khai thác được những thông tin cập nhật, chính xác, thông tin chất lượng đủ độ tin cậy,góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng.
3.3.3 Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Bắc Giang
- Tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng tín dụng, tích cực thu hồi số nợ tồn đọng, nợ quá hạn cũ, hạn chế hết sức việc phát sinh sự quá hạn mới.
- Tăng cường tài sản xiết nợ, thực hiện xử lý tài sản thế chấp cầm cố có hiệu quả hơn nhằm nhanh chóng giải phóng vốn cho NHNo&PTNBG đặc biệt là số tài sản còn bị kẹt ở những vụ án lớn do NHNo&PTNT Bắc Giang quản lý.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động liên doanh liên kết nhằm giảm tình trạng vốn bị đọng và rủi ro cao. Đa dạng hố hơn nữa các hoạt động đầu tư.
Kết luận
Nước ta đang trong quá trình đổi mới, bên cạnh những thuận lợi do quá trình hội nhập mang lại thì chúng ta cũng gặp không ít khó khăn. Để đối đầu và giải quyết khó khăn đòi hỏi đất nước ta phải có một nền tài chính vững mạnh, mà ngành ngân hàng là một trong những ngành đại diện cho sức mạnh ấy. Song hoạt động trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, phải nói rằng yếu tố rủi ro là vô cùng lớn. Rủi ro là một hiện tượng khách quan của mọi lĩnh vực. Nhưng nếu chúng ta sớm có giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro, thì rủi ro nếu có sẩy ra cũng có nhưng phương hướng giải quyết, tránh được những tổn thất cho xã hội. Nói như vậy để thấy rằng vai trò của việc nghiên cứu đưa ra các giải pháp phòng ngừa và hạn chế và hạn chế rủi ro chiếm một vị trí quan trọng, có tính chiến lược. Đây là một nhiệm vụ phức tạp, khó khăn đòi hỏi nhiều công sức và kiến thức của các nhà kinh tế. Vì vậy với khả năng và trình độ của một sinh viên em chỉ xin đưa ra một vài ý kiến nhỏ trong khối giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng mà các nhà kinh tế ít nhiều đã đề cập đến. Mong rằng đó sẽ là một đóng góp nho nhỏ vào chiến lược phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc Giang.
Qua đây cho phép em một lần nữa gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo hướng dẫn Phan Hữu Nghị, cùng tồn thể các thầy cô giáo trường Đại học kinh tế quốc dân hà nội, các cán bộ đặc biệt là nhưng anh chị cán bộ phòng tín dụng NHNo&PTNT tỉnh Bắc Giang đã giúp em hồn thành đề tài này.
Tài liệu tham khảo
- Tạp chí Ngân hàng
- Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ
Nguyễn Văn Luân, 2004, Các nguyên lý tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
TS. Nguyễn Văn Tiến,2003, Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng. NXB Thống Kê.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, 2002, Cẩm nang tín dụng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH149.docx