Ngày nay trong xu thế hội nhập quốc tế hoá và toàn cầu hoá ngày càng phát triển mạnh mẽ, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài xu thế đó mà phải chủ động hội nhập. Hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở thành nhân tố không thể thiếu trong thương mại quốc tế. Đặc biệt khi Việt Nam vừa là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì các hoạt động xuất khẩu càng sôi nổi hơn rất nhiều. Nhận thức được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng mở rộng quy mô hoạt động xuất khẩu của mình. Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu đã mở rộng hoạt động sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu, tích cực tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động này.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động này diễn ra cực kì khó khăn và phức tạp, đòi hỏi công ty phải không ngừng nắm bắt kịp thời, nhanh nhậy những thông tin về thị trường, đối thủ cạnh tranh của mình trên thương trường quốc tế.
95 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1913 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sản phẩm sản phẩm gỗ của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất lượng ngày càng được nâng cao đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Điều đó thể hiện rõ qua việc công ty lấy lại được được một số thị trường như Thuỵ Điển và mở rộng thị trường ra một số nước châu Âu.
Công ty không ngừng củng cố quan hệ khách hàng với các khách hàng cũ, và có chiến lược phát triển thị trường hợp lý. Như đối với các thị trường tiềm năng nhưng hiện tại kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường này tuy chưa lớn lắm nhưng công ty vẫn duy trì quan hệ để phát triển thị trường mới
Công ty nỗ lực xuất khẩu giải quyết việc làm cho nhiều lao động, đảm bảo đựơc cuộc sống, tạo niềm tin vững vàng cho cán bộ công nhân viên của công ty. Mức thu nhập của cán bộ công nhân viên tương đối ổn định được thể hiện qua bảng sau
Bảng 12: Chỉ tiêu lao động - thu nhập của cán bộ công nhân viên chức của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
2005
2006
2007
1
2
Lao động bình quân
Thu nhập bình quân
Người
đ/ng/th
229
750.000
181
1.100.000
172
2.280.000
Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu (2005-2007)
Tuy những thành tựu trên còn chưa xứng với tiềm năng phát triển của công ty nhưng cũng thể hiện thành tựu của công ty. Công ty đã vượt qua thời kỳ khó khăn và đang đi đúng hướng
3.2. Tồn tại cần khắc phục.
- Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ (sản phẩm chủ yếu từ gỗ) do thị trường trong nước co lại nên hàng xuất khẩu bị ảnh hưởng lớn. Mặt hàng chủ lực của công ty là gỗ, năm nay Nhật Bản, Đài Loan mua có dấu hiệu nhỏ giọt dần.Bên cạnh đó giá bán nội địa có những thời điểm lại cao hơn giá xuất khẩu, ví dụ như mặt hàng gỗ, 1m2 ván sàn gỗ Pơmu có thời điểm giá xuất khẩu là 210.000 VNĐ/m2 trong khi đó bán nội địa trong nước là từ 220.000 – 250.000 VNĐ/m2, 1 kg bột hoàng liên xuất khẩu chỉ đạt 155.700 VNĐ/ kg xấp xỉ bằng 10,26 USD/ kg giá bán nội địa được 188.000 VNĐ/ kg xấp xỉ bằng 12,43 USD/kg nên công ty đã hạn chế để bán trong nước để có hiệu quả cao hơn. Điều này được giải thích là do giá cả một số mặt hàng xuất khẩu trong những năm gần đây giảm mạnh trong khi giá cả đầu vào ngày một tăng. Chi phí sản xuất kinh doanh xuất khẩu ngày một tăng trong khi giá bán lại giảm, nên lợi nhuận thấp là điều tất yếu.
- Như các doanh nghiệp khác trong ngành gỗ, mặc dù đã cố gắng thiết lập một mạng lưới cung cấp các nguyên liệu đầu vào, công ty vẫn đang phải đối mặt với khó khăn về nguồn nguyên liệu gỗ.Hiện tại, để bảo vệ môi trường, chình phủ cho phép khai thác khoảng 200.000-300.000 m3 gỗ từ nguồn rừng tự nhiên.Con số này chỉ đáp ứng được khoảng 20% nguyên liệu cho sản xuất sản phẩm gỗ, còn lại các doanh nghiệp đều phải nhập khẩu.Nhập khẩu nguyên liệu sẽ tăng làm giá thành tăng, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm, gây khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm.
- Nói đến xuất khẩu là nói đến cạnh tranh và cạnh tranh ở đây là cạnh tranh về sản phẩm. Trong thời gian vừa qua công ty đã hết sức nỗ lực nhưng chất lượng sản phẩm của công ty vẫn chưa ổn định, chưa đáp ứng được yêu cầu của các thị trường khó tính do vậy việc mở rộng thị trường của công ty là rất khó và buộc công ty phải bán sản phẩm của mình thấp hơn so với thị trường thế giới. Giá bán thấp không phải do để sản phẩm của công ty có tính chất cạnh tranh mà do chất lượng sản phẩm. Sản phẩm của công ty chỉ tiêu thụ ở những thị trường nhỏ và dễ tính. Đây là nhược điểm cần khắc phục của công ty
- Bên cạnh chất lượng sản phẩm chưa tốt, chưa đạt tiêu chuẩn và ổn định thì mẫu mã sản phẩm của công ty còn quá ít, không phong phú đa dạng về chủng loại. Hơn thế nữa thương hiệu của công ty chưa có. Hầu hết các sản phẩm của công ty tiêu thụ trên thị trường các nước đều phải dưới nhãn hiệu của các công ty nước ngoài
- Về công tác thị trường, việc tìm hiểu thông tin về tình hình cung cầu, giá nguyên vật liệu, nhu cầu, văn hoá thị trường tiêu thụ còn rất yếu và thường không cập nhật. Do đó công ty khó có thể ký kết được các hợp đồng lớn có lợi nhuận và không dự báo được những thuận lợi khó khăn để đưa ra những quyết định phù hợp
- Về mặt hàng: Định hướng đa dạng hoá các mặ hàng, phát triển các mặt hàng chiến lược, mũi nhọn của công ty là rất hợp lý như việc công ty chọn mặt hàng thủ công mỹ nghệ, ván trang trí.. là mặt hàng chủ lực là rất hợp lý thế nhưng quá trình thực hiện còn nhiều thiếu xót
Việt Nam vào WTO đồ gỗ nhập khẩu chỉ áp dụng thuế cho 2 mặt hàng là ván nhân tạo và mộc tinh chế.Do đó tiêu thụ sản phẩm gỗ giảm mạnh không chỉ trong xuất khẩu mà ngay cả tại thị trường trong nước.Bên cạnh đó thị trường WTO mở rộng song song với các rào cản kỹ thuật ngày càng chặt chẽ, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ quy trình quản lý chất lượng chặt chẽ, với công nghệ hiện đại, đâm bảo chất lượng sản phẩm.
3.3. Nguyên nhân.
Công ty là một doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu mặt hàng chủ yều là các sản phẩm từ gỗ.Trong khi gỗ là nguồn nguyên liệu kém ổn định, hơn nữa giá vận chuyển về tới công ty lại cao dẫn đến giá thành sản xuất ra sản phẩm cao.
Các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu của công ty luôn phải sử dụng những máy móc, công nghệ lạc hậu dẫn đến sản phẩm làm ra có chất lượng thấp, hàng bị loại nhiều không đủ chất lượng xuất khẩu dẫn đến tình trạng lãng phì nguyên liệu. Mặt khác các sản phẩm của công ty chưa đáp ứng được các nhu cầu thị hiều của thị trường về mẫu mã cũng như chất lượng, nên hang hóa của công ty thiếu tính cạnh tranh trên thị trường.
- Trình độ chuyên môn của các cán bộ thu mua, kiểm tra hàng xuất khẩu của công ty còn thấp nên việc lựa chọn hang xuẩt khẩu còn chưa chính xác, chất lượng không cao. Cán bộ công tác kinh doanh còn hạn chế về một số mặt như kém về ngoại ngữ, quan hệ ít, hiểu biết pháp luật kinh doanh xuất nhập khẩu còn hạn chế, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, kinh doanh trong giai đoạn hội nhập quốc tế và khu vực đòi hỏi cán bộ kinh doanh ở một trình dộ cao mới có thể đáp ứng đựoc với yêu cầu, đồng thời đòi hỏi khắt khe khi chúng ta gia nhập WTO.
- Công ty còn thiều một đội ngũ công nhân lành nghề. Đây là yếu tố quan trọng để cải tiến mẫu mã cũng như nâng cao được chất lưọng sản phẩm.
- Thị trường còn giới hạn tập trung tại thị trường châu Á, chưa mở rộng sang thị trường châu Âu, chưa xâm nhập vào các thị trường lớn, nhiều tiếm năng
CHƯƠNG III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU BAO BÌ
1. Mục tiêu và phương hướng xuất khẩu sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam.
1.1. Mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam.
Từ năm 2002- 2007, sản phẩm gỗ Việt Nam đã có mặt tại 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Sản phẩm đồ gỗ trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực lớn thứ 5 của Việt Nam sau dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản. Năm 2008, xuất khẩu gỗ Việt Nam phấn đấu đạt kim ngạch 3 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gỗ xuất khẩu từ nay đến năm 2010 được dự báo là tăng hơn 30% năm
Trong chiến lược xuất khẩu của bộ thương mại đề ra mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ năm 2010 là 5,56 tỷ USD và đạt 7 tỷ USSD vào năm 2020 như chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
1.2. Phương hướng xuất khẩu sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam.
Để đạt mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ đến năm 2010 là 5,56 tỷ USD như chiến lược xuất khẩu của Bộ Thương mại đề ra, và đạt 7 tỷ USSD vào năm 2020 như chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Bộ Thương mại đề xuất các biện pháp chủ yếu để phát triển bền vững ngành chế biến xuất khẩu sản phẩm gỗ tại Hội nghị "Phát triển bền vững ngành đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam" do Bộ Thương mại tổ chức (tại Tp.HCM, ngày 8/6)
- Một là, tập trung trồng rừng theo phương thức thâm canh để tự túc nguồn nguyên liệu gỗ vào năm 2020, đồng thời đẩy mạnh công nghệ chế biến ván nhân tạo từ gỗ rừng trồng để giảm 50% nhập khẩu ván nhân tạo vào năm 2010.
Vấn đề búc xúc nhất của ngành gỗ hiện nay là việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu thì chính phủ có chiến lược lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 – 2020 đặt mục tiêu phát triển 825.000 ha rừng nguyên liệu của ngành gỗ Việt Nam với sự kết hợp giữa các loại cây có chu kỳ kinh doanh ngắn 7-10 năm và chu kỳ kinh doanh dài từ 15 năm trở lên. Sản lượng dự kiến cho khai thác để phục vụ ngành gỗ vào năm 2020 sẽ đạt 20 triệu m3/năm (trong đó có 10 triệu m3 gỗ lớn), mới đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu. Nhưng theo tính toán của hiệp hội gỗ Việt Nam thì các doanh nghiệp gỗ phải chờ ít nhất 10 năm nữa mới hy vọng chủ động được một phần nguyên liệu trong nước khi các khu rừng trồng gỗ lớn do các doanh nghiệp phát triển bắt đầu cho khai thác. Còn trong tương lai gần, không có cách nào khác là phải tiếp tục nhập khẩu gỗ nguyên liệu.
Trước mắt để khắc phục việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu, vừa qua Thủ tướng đã phê duyệt đề án thành lập sàn giao dịch gỗ điện tử với tổng vốn đầu tư khoảng 5 tỷ đồng, hiện Hiệp hội Gỗ và Lâm sản đang triển khai các công việc cụ thể. Dự kiến, sàn giao dịch sẽ cung cấp thông tin giá cả thị trường gỗ trong nước và thế giới, các vấn đề về pháp luật khi các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ ra nước ngoài... Việc thực hiện các giao dịch qua mạng của các doanh nghiệp ngành gỗ sẽ được kết nối qua cổng thương mại điện tử của Bộ Công Thương. Bên cạnh đó, việc phát triển các chợ nguyên liệu ở ba vùng miền trên địa bàn cả nước cũng đang nhanh chóng được triển khai nhằm giúp cho các daonh nghiệp có nơi mua bán, trao đổi thông tin về giá cả và thị hiếu tiêu dùng trên thế giới.
Để tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhập khẩu và cung ứng nguyên liệu gỗ cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu sản phẩm gỗ đáp ứng số lượng, chất lượng và thời gian với giá cả cạnh tranh, chính phủ cần ký kết với Chính phủ các nước có nguồn nguyên liệu gỗ dồi dào các thỏa thuận về cung cấp gỗ dài hạn cho Việt Nam...
- Hai là, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ cũng là một định hướng phát triển ngành gỗ xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Hiện nay gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên 120 nước, chiến lược phát triển của ngành gỗ là tập trung vào các thị trường truyền thống như Nhật, Mỹ, Đài Loan… và cũng không ngừng mở rộng vào các thị trường tiềm năng như Canada và các nước Đông Âu. Canada không chỉ là nước có thế mạnh về cung cấp nguyên liệu mà năng lực tiêu thụ gỗ nội thất hàng năm cũng rất lớn. Nếu các doanh nghiệp biết liên kết để làm ăn như các đối tác từ Canada vừa cung cấp nguyên liệu vừa là đầu mối tiêu thụ thành phầm thì việc sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu sẽ thu đựơc rất nhiều lợi nhuận. Nga cũng là thị trường tương tự có cung cấp nguyên liệu nhưng cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm gỗ rất lớn. Việc đa dạng hoá thị trường không những giúp doanh nghiệp tăng lợi nhuận mà còn giúp các doanh nghiệp tránh được rất nhiều rủi ro.
- Ba là, mặc dù số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam là hơn 300, nhưng trong số đó hầu hết là quy mô vừa và nhỏ.Với quy mô đó, các doanh nghiệp gỗ Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với một số doanh nghiệp ở các nước xung quanh như: Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc.Theo các chuyên gia, một trong những nguyên nhân chính khiến cho khá nhiều lô hàng đồ gỗ nội thất của ta bị trả lại từ nhiều nước trong những năm qua là do khâu tìm hiểu thị trường, đàm phán của các doanh nghiệp chưa chuyên nghiệp. Song song với việc mở rộng thị trường, tự bản than các doanh nghiệp cũng phải không ngừng đầu tư máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu nhưng các doanh nghiệp lớn cũng phải từ chối các đơn hàng do không đáp ứng được các đơn hàng quá lớn. Trước tình hình trên các doanh nghiệp đang có đinh hướng là liên doanh liên kết để không phải bỏ lỡ những hợp đồng lớn do không đủ năng lực sản xuất và cung cấp sản phẩm. Lợi ích của việc liên kết này không chỉ giúp doanh nghiệp đáp ứng được những đơn hàng lớn từ phía đối tác, mà còn giúp doanh nghiệp có điều kiện sản xuất những mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn.
- Thứ tư là về mặt hàng, chúng ta đang có chiến lược cơ cấu lại ngành chế biến gỗ, tập trung vào phát triển những mặt hàng trọng điểm, mũi nhọn và hàm chứa nhiều giá trị gia tăng. Theo nhận xét của hiệp hội gỗ, trong tương lai nhu cầu ván nhân tạo là rất lớn. Sản xuất các mặt hàng này giúp chúng ta tận dụng được nguồn nguyên liệu rừng trồng, khuyến khích người dân trồng rừng.
- Thứ năm là tập trung mọi nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức khác để xây dựng các trung tâm đào tạo nghề cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu đồ gỗ... nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành.
- Sáu là, tăng cường đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
- Bảy là nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong công tác xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu gỗ Việt Nam...
- Tám là, nâng cao vai trò Hiệp hội lâm sản Việt Nam và các Hiệp hội chế biến xuất khẩu đồ gỗ địa phương. Nâng cao tính liên kết giữa các doanh nghiệp, từng bước thực hiện sự phân công hợp tác lao động giữa các doanh nghiệp theo phương thức chuỗi giá trị gia tăng.
Cuối cùng là, tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ về tài chính đối với ngành chế biến xuất khẩu sản phẩm gỗ. Cụ thể là các chính sách ưu đãi tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO; chính sách hỗ trợ cước vận tải nội địa và quốc tế...
2. Mục tiêu và phương hướng phát triển của công ty cổ phẩn sản xuất bao bì và xuất khẩu.
2.1. Mục tiêu của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu.
2.1.1. Mục tiêu cơ bản 3 năm (2007-2009).
Bảng 7: Dự kiến kết quả thực hiện các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh 3 năm (2007-2009)
Tt
Chỉ tiêu
ĐV
2007
2008
2009
1
Vốn điều lệ
Trđ
7.000
777.000
7000
Vốn cổ đông nhà nứơc (10%)
Trđ
700
700
700
Vốn của các cán bộ công nhân
viên của công ty (70%)
Trđ
4.900
4.900
4.900
Vốn của các cổ đông khác (20%)
Trđ
1.400
1.400
1.400
2
Tổng doanh thu
Trđ
210.000
240.000
270.000
Doanh thu sản xuất
Trđ
10.000
12.000
15.000
Doanh thu kinh doanh thương
mại
Trđ
200.000
228.000
255.000
3
Tổng chi phí
Trđ
209.657
239.480
269.200
4
Các khoản nộp ngân sách nhà
nước
Trđ
2.300
2.600
2.900
5
Lợi nhuận trước thuế
Trđ
433
520
800
6
Thuế thu nhập doanh nghiệp
%
0
0
14
7
Lợi nhuận sau thuế
Trđ
433
520
688
8
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn
điều lệ
%
6,19
7,42
9,43
9
Tăng vốn điều lệ
Trđ
0
0
50
10
Trích quỹ
Trđ
86,6
104
127,6
Quỹ dự phòng tài chính 5%
Trđ
21,65
26
31,9
Quỹ khuyến khích phát triền
sản xuất 10%
Trđ
43,3
52
63,8
Quỹ khen thưởng phúc lợi
Trđ
21,65
26
31,9
11
Tỷ lệ chia cổ tức
%
5
6
7,29
12
Lao động
Ng
200
200
200
13
Thu nhập bình quân
1,1
1,2
1,3
Nguồn: Báo cáo hoạt động của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu.
Ghi chú:
- Công ty được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 02 năm và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 02 năm tiếp theo.
- Sau khi quyết toán năm 2008 sẽ tăng vốn điều lệ 50.000.000 đồng. Doanh số 2006 - 2008 giảm so với năm 2005 lý do công ty phải di dời nhà xưởng xuống khu công nghiệp Ngọc Hồi- huyện Thanh Trì nên sản xuất kinh doanh của công ty có thể bị gián đoạn một thời gian.
2.1.2. Các chỉ tiêu kế hoạch năm 2008.
- Vốn điều lệ: Dự kiến tăng từ 7 tỷ đồng lên 10,5 tỷ đồng ( từ quý 2 năm 2008 )
- Chỉ tiêu doanh thu
Dự kiến năm 2008 là 350 tỷ đồng = 124,5% so với thực hiện năm 2007(281,4 tỷ đồng)
Chỉ tiêu sản xuất năm 2008 là 11 tỷ đồng so với năm 2007 là ( 8,5 tỷ đồng ) = 129,4%
Giá trị xuất khẩu là 25 tỷ đồng so với năm 2007 là ( 19,25 tỷ đồng )= 129,87%
Kinh doanh dịch vụ trong nước là 314 tỷ đồng so với năm 2007 là ( 253,65 tỷ đồng ) = 124%
Chỉ tiêu kim ngạch xuất nhập khẩu: 2,1 triệu USD
Xuất khẩu: 1,5 triệu USD so với năm 2007 là ( 1,2 triệu USD) tăng 25% .
Nhập khẩu : 0,6 triệu USD so với năm 2007 là ( 0,35 triệu USD) bằng 171,42%.
- Các khoản nộp ngân sách nhà nước: 15 tỷ đồng (nếu kinh doanh nhập ôtô còn thực hiên được).
- Lao động và thu nhập của người lao động.
Lao động bình quân là 200 người
Thu nhập bình quân là 2.300.000 đồng/ người/ tháng
- Lợi nhuận trước thuế: 1,5 tỷ đồng, so với năm 2007 là 150%(1 tỷ đồng)
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn: 15,58% (1,5 tỷ đồng/ 9,625 tỷ đồng)
- Dự kiến tỷ lệ chia cổ tức năm 2008 là 11%
2.2. Phương hướng hoạt động của công ty.
Hiện nay công ty đang có những thách thức và cơ hội lớn từ nền kinh tế. Đó chính là khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức WTO công ty có thể thâm nhập vào các thị trường xuất khẩu dễ dàng hơn và thu hút được vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài thế nhưng công ty lại đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các công ty nước ngoài thâm nhập vào Việt Nam. Hơn thế nữa khi gia nhập vào WTO các ngành như xuất khẩu gỗ, bao bì và nhiều mặt hàng là sản phẩm chiến lược của công ty đã mất đi sự trợ cấp của nhà nước. Tuy nhiên công ty có nhiều mặt thuận lợi đó chính là công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên đồng lòng nhất trí và nhiệt tình với công việc. Động lực từ việc công ty đã hoàn thành rất tốt giai đoạn cổ phần hoá đầy khó khăn và tốc độ tăng trưởng của công ty ngày một cao. Từ những thách thức và thuận lợi công ty đã xây dựng phương hướng cụ thể để thực hiện tốt các mục tiêu đề ra.
Hướng phát triển cụ thể của công ty như sau
- Sản phẩm xuất khẩu gồm
+ Hàng thủ công mỹ nghệ
+ Bàn ghế, giường tủ
+ Ván ốp trần, tường, ván sàn tinh chế
+ Thiết bị văn phòng
+ Cửa các loại
+ Hàng hải sản: mực khô, sứa muối…
+ Hàng nông sản: Chè, vải, nhãn…
+ Lâm đặc sản: Quế, hồi, sa nhân…
+ Dược liệu: Bột hoàng liên..
- Hàng nhập khẩu:
+ Hàng điện tử, chi tiết máy vi tính
+ Vải các loại
+ Ôtô chuyên dùng và xe chở khách, phụ tùng máy móc nông nghiệp
+ Nguyên liệu gỗ tròn, gỗ hộp các loại.
- Về vốn kinh doanh: Công ty có phương hướng là huy động mọi nguồn vốn hiện có trong công ty để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh, chống lãng phí, tránh các nguy cơ gây thất thoát vốn, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận để có hướng phát triển tổ chức quản lý lâu dài trong những năm tới.
Để huy động vốn từ các ngân hàng thuận lợi, công ty có phương hướng là xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng tốt hơn nữa, tạo lập và duy trì niềm tin của công ty bằng các hoạt động cụ thể, thiết thực như trả lãi vay ngân hàng đúng kỳ hạn, cung cấp cho các ngân hàng thông tin lành mạnh về tài chính của mình đồng thời tranh thủ các nguồn vốn trong nước và nước ngoài
- Chiến lược mở rộng thị trường nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước và xuất khẩu nước ngoài. Phương hướng của công ty là giữ vững các thị trường truyền thống như Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc… bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, giao hàng đúng hẹn, đúng chất lượng và số lượng hàng hoá, … tạo dựng uy tín với khách hàng.
Với những thị trường công ty có thị phần nhỏ nhưng nếu là thị trường tiềm năng thì công ty quyết tâm giữ vững thị phần như thị trường các nước châu Âu. Thêm vào đó công ty có kế hoạch tìm hiểu khai thác các thị trường tiềm năng như thị trường Mỹ, một số thị trường các nước châu Âu.
Để mở rộng thị trường công ty có chiến lược tập trung vào các mặt hàng chủ lực như hàng thủ công mỹ nghệ, các ván gỗ, nông sản, dược liệu… Đồng thời công ty có chiến lược nhập khẩu các mặt hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nứơc như phụ tùng xe máy, thuỷ tinh phalê. Mở rộng và phát triển hình thức kinh doanh khách sạn, các văn phòng giới thiệu sản phẩm
3. Một số biện pháp thúc hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của công ty
3.1. Đối với công tác đổi mới công nghệ nhằm nâng cao khâu chế biến.
Ngày nay khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhu cầu của con người ngày càng cao hơn cả về chất lượng và số lượng. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau không chỉ bằng giá thành mà chất lượng sản phẩm cũng là yếu tố then chốt. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm ngoài tay nghề của công nhân thì công nghệ cũng đóng yếu tố then chốt và là vấn đề buộc các doanh nghiệp phải quan tâm.
Với hơn 20 năm hoạt động, công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh. Thế nhưng công nghệ của công ty có từ thời bao cấp nên rất lạc hậu, không phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường hiện nay. Mặc dù công ty có những đổi mới nhưng do hệ thống máy móc của công ty không đồng bộ dẫn đến sản phẩm của công ty không có tính cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy công ty cần đổi mới công nghệ theo chiều sâu, tiết kiệm nhiên liệu, công nghệ hiện đại để tăng năng suất lao động, sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó do nguồn vốn của công ty còn eo hẹp nếu công ty mua những công nghệ hiện đại mới 100% từ các nước phát triển thì công ty phải đầu tư các khoản chi phí rất lớn và trình độ tay nghề của công nhân công ty khó có thể sử dụng những công nghệ hiện đại như vậy. Vì vậy công ty có thể tìm kiếm đàm phán với các doanh nghiệp phát triển như Mỹ, Anh, Nhật Bản …có nhu cầu chuyển nhượng công nghệ.
Công ty có thể đổi mới công nghệ chế biến hàng gỗ xuất khẩu theo các hướng sau đây:
- Đối với lĩnh vực chế biến: Công ty cần nghiên cứu để áp dụng công nghệ tiên tiến của các nước trong khu vực như công nghệ đảm bảo cho các khâu sấy, tẩm, bảo quản…
- Đối với hàng thủ công mỹ nghệ: Công ty cần mở rộng cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Đối với những sản phẩm này công ty không cần tập trung quá nhiều vào công nghệ mà cần tập trung vào khâu đào tạo thợ lành nghề. Chiến lược của công ty đối với mặt hàng này là cần nâng cao kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này hơn nữa. Bên cạnh đó công ty có thể phát triển sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ bằng cách kết hợp sản xuất với các làng nghề thủ công mỹ nghệ.
- Đối với các việc hoàn thiện các sản phẩm như bàn ghế, ván trang trí, gỗ Pơmu… là những sản phẩm cần có sự đầu tư về công nghệ như công nghệ đẽo, đục, tạo độ bong…công ty cần đầu tư, tăng cường đổi mới máy móc để hoàn thiện sản phẩm hơn nữa.
3.2. Chủ động tạo nguồn nguyên liệu gỗ phục vụ hoạt động chế biến xuất khẩu.
Đối với hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam thì hầu hết đều gặp phải vấn đề về nguồn nguyên liệu gỗ. Cần đảm bảo nguồn nguyên liệu gỗ liên tục thì việc sản xuất mới được liên tục. Trong khi đó nguồn nguyên liệu gỗ của Việt Nam lại thất thường và thường không đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước. Rừng tự nhiên Việt Nam có xu hướng tăng về diện tích, nhưng chất lượng rừng tăng rất chậm; năng suất rừng thấp, nhất là gỗ, thậm chí có vùng, có nơi bị suy giảm cạn kiệt. Trước tình hình đó, Chính phủ đã có chủ trương giảm dần lượng gỗ khai thác hằng năm. Về gỗ rừng trồng, hiện nay cả nước có khoảng hơn hai triệu ha, trồng phân tán ở khắp các địa phương trong cả nước.
Có tình trạng một số nhà máy chế biến gỗ, mặc dù có quy hoạch vùng nguyên liệu gắn với nhà máy, nhưng khi bắt tay vào trồng rừng, lại thiếu diện tích đất có quy mô tập trung, dẫn đến trồng rừng phân tán khắp nơi, thậm chí phải trồng cả trên các sườn dốc cao, đất xấu, rất xa nhà máy, năng suất rừng trồng thấp đã gây khó khăn cho việc khai thác, vận chuyển làm tăng chi phí sản xuất, tăng giá gỗ nguyên liệu, tăng giá thành sản phẩm, dẫn đến sức cạnh tranh thấp... Để đảm bảo công tác tạo nguồn nguyên liệu cho sản xuất trước mắt và lâu dài thì công ty có thể tiến hành gom nguyên liệu theo các nguồn sau đây:
- Nguồn hàng thu mua thông qua các đại lý và thu gom trực tiếp của người trồng rừng.
Ưu điểm của nguồn hàng này là tính cơ động và giá thành nguyên liệu tương đối rẻ. Nhưng nhược điểm của nguồn hàng này là chỉ có thể đáp ứng được các đơn hàng nhỏ, trung bình. Hơn nữa nguồn hàng này có tính thất thường, chất lượng hàng hoá thất thường
- Tạo nguồn hàng bằng cách liên kết với người trồng rừng. Đây là xu hướng nói chung của các doanh nghiệp nói chung. Xu hướng này phát triển do các doanh nghiệp muốn có được các nguồn hàng ổn định nhưng để có diện tich trồng rừng là vấn đề nan giải với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, người trồng rừng có đất có nhân công nhưng họ lại không có vốn. Trong liên kết này các doanh nghiệp cung cấp cây giống, quy trình công nghệ cho người dân…Hình thức này vừa mang lại lợi ích cho người dân trồng rừng vừa mang lại lợi ích cho doanh nghiệp nên đang được nhà nước ủng hộ
- Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác trong nước để tạo ra nguồn hàng ổn định hơn
Một cách để khắc phục việc chi phí nhập gỗ nguyên liệu cao là công ty có thể kết hợp với các doanh nghiệp khác để có thể mua hàng tận gốc với khối lượng lớn. Hình thức lập kho ngoại quan gỗ ở nước ngoài đang được đánh giá cao. Mới đây, kho ngoại quan gỗ đầu tiên của Việt Nam tại Cộng hòa Nam Phi đã được lập với vốn đầu tư 6 triệu USD. Kho ngoại quan này bao gồm cả nơi tập trung hàng hóa (chứa được khoảng 350.000 m3 gỗ), nơi sơ chế, chế biến hàng xuất khẩu.
Nhờ kho ngoại quan này, doanh nghiệp có thể sơ chế gỗ nguyên liệu trước khi vận chuyển về nước, có điều kiện chọn lọc gỗ theo yêu cầu, tập trung đủ lượng gỗ cần thiết mới chuyển về nước. Song điều quan trọng nhất là do không còn phải qua trung gian, nên doanh nghiệp có thể mua "tận gốc" với giá hợp lý.
- Bên cạnh đó, việc phát triển công nghệ chế biến, công nghệ sản xuất đồ gỗ để giảm tỷ lệ gỗ trên 1 sản phẩm gỗ xuất khẩu cũng được bàn tới như là một trong những giải pháp lâu dài. Hiện nay, tỷ lệ gỗ trên các sản phẩm gỗ của Việt Nam vẫn chiếm gần 100%, nguyên liệu gỗ vẫn chiếm đến 60-70% giá thành sản phẩm.
- Ngoài ra công ty cần có biện pháp sử dụng tiết kiệm nguyên liệu gỗ và tận dụng phế phẩm để sản xuất ván nhân tạo có nhiều tính năng hơn gỗ tự nhiên: Ván có thể có kích thước rộng, cấu trúc đồng đều, không dễ bị nứt vỡ, cong vênh…Đây là biện pháp tăng thêm nguồn nguyên liệu cho các cơ sở chế biến, tăng khả năng cạnh tranh ... cho công ty
3.3. Mở rộng và phát triển thị trường.
- Để có thế phát triển tốt thì công ty cần có chiến lược mở rộng và phát triển thị trường.Đối với các bạn hàng truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU,Mỹ … công ty cần chú trọng hơn đến chất lượng sản phẩm, đảm bảo nguồn hàng và cần đa dạng hoá sản phẩm để nâng cao số lượng sản phẩm xuất vào các thị trường này. Đặc biệt với thị trường Mỹ, Nhật, EU là thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng đầy rủ ro, cạnh tranh khốc liệt công ty cần chú trọng nghiên cứu các thị trường này. Để có thể mở rộng và phát triển thị trường thì công ty có thể thực hiện theo các cách sau:
- Công ty cần tổ chức tốt hơn nữa khâu nghiên cứu thị trường. Công ty có thể nghiên cứu thì trường thông qua cách tham gia hội chợ của các nước nhập khẩu, hội chợ do hiệp hội gỗ và lâm sản tổ chức tại các thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó công ty có thể mở các đại lý tiêu thụ giới thiệu sản phẩm tại các nước, liên kết với tham tán thương mại của Việt Nam tại các nước… để nắm bắt thông tin chính xác, cập nhật hơn.
- Đối với các khách hàng lâu năm thì công ty có những chiến lược thích hợp để giữ vững mối quan hệ với họ như ưu tiên họ trong việc vận chuyển, thanh toán, tạo điều kiện thuận lợi cho họ tại các buổi giao dịch đàm phán…
3.4. Hoàn thiện chiến lược về sản phẩm.
Như đã phân tích ở trên nguyên nhân cơ bản làm cho hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của công ty chưa có hiệu quả cao là do sản phẩm của công ty chất lượng chưa cao, chưa ổn định, mẫu mã chưa đa dạng. Vì vậy phát triển sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đa dạng vừa mang tính chất trước mắt vừa mang tính chất lâu dài
Bản thân khâu thiết kế mẫu mã là một công đoạn rất quan trọng trong chu trình từ ý tưởng đến khi thương mại hoá ra thành sản phẩm. Đối với ngành hàng xuất khẩu sản phẩm gỗ, việc tiêu hao nguyên liệu cho đầu vào tương đối như nhau nhưng nều mẫu mã khác nhau thì chắc chắn sản phẩm làm ra sẽ mang lại giá trị gia tăng rất khác nhau
Tạo ra mẫu mã riêng, phù hợp với nhu cầu từng thị trường. Đây là cách tốt nhất để khẳng định mình và khách hàng sẵn sàng trả giá cao cho những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của họ. Đối với mặt hàng gỗ mà công ty xuất khẩu, để có chất lượng cao không chỉ đòi hỏi đảm bào các tiêu chuẩn: Cơ, lý, hoá học… mà còn cần chú ý đến các tiêu chuẩn thẩm mỹ bởi nó là một trong những yếu tố quyết định. Để có thể tạo ra sản phẩm có tính thẩm mỹ cao phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và ta có thể thực hiện như sau:
- Lập riêng ra một bộ phận chuyên làm nhiệm vụ nghiên cứu mẫu mã và hoàn thiện sản phẩm, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ hiện có, tuyển chọn kỹ càng đội ngũ thiết kế
- Mua lại các thiết kế độc đáo tại các làng nghề truyền thống.
- Có thể thuê các chuyên gia thiết kế.
- Để sản phẩm có thể thích hợp với thị hiếu trên các thị trường xuất khẩu thì công ty có thể liên kết với Kiều bào ta ở nước ngoài để có thể tạo ra những sẩn phẩm phù hợp
3.5. Hoàn thiện chiến lược về giá.
Thị trường quốc tế là thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt. Đặc biệt là vấn đề về giá cả. Vì vậy công ty cần có một chiến lược về giá phù hợp,mềm dẻo. Tuỳ từng thị trường thì công ty có mức giá phù hợp khác nhau
- Đối với từng thị trường thì công ty có những chiến lược về giá riêng biệt. Ví dụ với thị trường Mỹ bên cạnh yếu tố về giá công ty còn phải chú trọng đến chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng
- Đối với khách hàng truyền thống công ty có thể dành cho họ ưu đãi như áp dụng mức giá thấp hơn so với khách hàng trong cùng mặt hàng
- Với những khách hàng quan trọng mang lại nguồn thu lớn cho công ty thì công ty nên có những biện pháp hữu hiệu để làm cho họ tin tưởng gắn bó lâu dài với công ty như áp dụng giá phí thấp
- Với những khách hàng có nhiều triển vọng, trước hết công ty cần làm tốt công tác Marketting để họ hiểu khả năng của công ty, sau đó công ty đưa ra mức giá hợp lý
3.6. Giảm chi phí và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
Sau cổ phần hoá tình hình sản xuất và kinh doanh của công ty tương đối ổn định. Mấy năm trở lại đây đặc biệt là năm 2007 vừa qua, tình hình kinh doanh của công ty tăng trưởng khá nhanh, có bứơc tăng trưởng vượt bậc. Do đó tình hình tài chính của công ty hiện nay tương đối ổn định.
Như đã biết nguồn vốn ổn định có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động king doanh. Khi có cơ hội thì công ty có thể huy động ngay được vốn, nguồn vốn lớn giúp công ty có khả năng mở rộng quy mô sản xuất vì vậy lành mạnh hoá tài chính là vấn đề rất cần thiết với bất cứ một doanh nghiệp nào.
- Công ty cần xây dựng nền tài chính lành mạnh, công khai, minh bạch và dân chủ, làm cho tài chính trở thành thước đo hiệu quả trên mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Việc phân bổ vốn đầu tư cho các công trình, dự án đảm bảo nguyên tắc: ưu tiên bố trí vốn cho các dự án trọng điểm, có yêu cầu mang tính bức bách, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải. Đối với chi thường xuyên thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng nguồn vốn đó.
- Bên cạnh đó công ty cũng cần giải quyết hàng tồn kho, tiết kiệm các khoản chi tiêu không hợp lý, giảm bớt chi tiêu hành chính để tăng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đưa ra những giải pháp nhằm giảm chi phí liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu như
+ Giảm chi phí lưu thông bằng cách lựa chọn phương thức vận tải phù hợp bởi chi phí vận chuyển nguyên liệu và vận chuyển hàng gỗ xuất khẩu chiếm khoản tương đối lớn trong việc hinh thành giá thành của công ty. Bên cạnh đó công ty có thể bố trí mạng lưới kênh phân phối, tạo cho nguyên liệu, hàng hoá có đường vận chuyển ngắn nhất
+ Giảm chi phí bảo quản thông qua việc lưu trữ nguyên liệu phù hợp với nhu cầu sản xuất. Tăng cường quản lý và sử dụng tốt, có hiệu quả tài sản của công ty
- Trong thời gian tới ngoài việc huy động vốn bằng hình thức truyền thống như trong chiến lược phát triển của công ty đề ra, công ty có thể huy động vốn cổ phần hoá. Bên cạnh đó công ty cũng cần quan tâm đến việc đưa công ty lên sàn giao dịch chứng khoán. Đây là biện pháp huy động vốn tương đối hiệu quả và kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
3.7. Tập trung xây dựng thương hiệu và dịch vụ sau bán hàng.
Hiện nay, nhiều hợp đồng của công ty với đối tác đều đi kèm với các mẫu mã thiết kế riêng theo đơn đặt hàng để đáp ứng yêu cầu khắt khe của người mua, công ty thường buộc phải đầu tư thêm phân xưởng gia công. Đây là nhược điểm rất lớn của công ty nói riêng và của toàn ngành gỗ Việt Nam nói chung. Do vậy công ty cần đẩy mạnh hoạt động xây dựng thương hiệu sản phẩm gỗ của công ty. Để xây dựng thương hiệu sản phẩm gỗ của công ty là công việc khó khăn và tốn rất nhiều chi phí. Trước mắt công ty cần tham gia vào các hội chợ quảng bá thương hiệu sản phẩm gỗ của Việt Nam tại các thị trường nước ngoài do cơ quan nhà nước và hiệp hội gỗ tổ chức, tham gia vào các hội chợ lớn của các nước nhập khẩu.
Công ty cũng cần thiết lập một kênh thông tin cho hoạt động sau bán hàng, như giải đáp những yêu cầu thắc mắc của khách hàng, có thể tư vấn cho khách hàng về cách sử dụng, bảo quản sản phẩm gỗ… Hiện nay công ty còn chưa có hoạt động này.
3.8. Hạn chế những rủi ro trong thanh toán.
Hiện nay, công ty sản xuất bào bì và hàng xuất khẩu sử dụng hai phương thức thanh toán chính là điện chuyển tiền và thanh toán tín dụng chứng từ. Tuy nhiên không phải lúc nào hai hình thức này cũng đem lại hiệu quả cao nhất cho công ty, chúng có những vấn đề có thể xảy ra trong mọi thời điểm gây ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Để nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ thanh toán công ty cần quan tâm một số vấn đề sau:
Đánh giá đúng khả năng thanh toán của khách hàng thông qua sự hỗ trợ về thông tin của các cơ quan chức năng như ngân hàng trong nước và nước ngoài, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Đánh giá tình hình chính trị của nước nhập khẩu nhằm tránh những rủi ro về chính trị.
Đánh giá khả năng thanh toán của ngân hàng người nhập khẩu.
Khi thanh toán bằng L/C công ty cần kiểm tra cẩn thận L/C và bộ chứng từ thanh toán để đưa ra các biện pháp giải quyết các vấn đề phát sinh.
Hàng ngày công ty cần theo dõi sự biến động của tỷ giá giữa các đồng ngoại tệ mạnh so với đồng VNĐ để có phương án ngăn ngừa rủi ro kịp thời bằng cách công ty có thể tham gia thị trường ngoại hối bằng việc ký kết hợp đồng ký hạn.
Mặt khác, công ty nên phân bổ lại nghiệp vụ thanh toán ở một số phòng ban cho hợp lý hơn như: Quy định việc ký kết và tổ chức việc thực hiện hợp đồng phải do phòng kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu đảm nhận và không nên để khâu thanh toán, giao dịch với ngân hàng do nhân viên phòng kế toán thực hiện như hiện nay.
3.9. Nâng cao trình độ tay nghề của công nhân và trình độ quản lý của cán bộ, có chế độ khuyến khích vật chất và tinh thần.
Đội ngũ lao động là tiềm lực vô hình quan trọng nhất của bất kỳ doanh nghiệp nào. Có thể nói tất cả các biện pháp nêu trên đều liên quan đến con người, nếu không có con người thực hiện một cách có khoa học và hợp lý thì những biện pháp nêu trên chỉ mãi là trên lý thuyết. Do đó công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên. Để làm được điều này, công ty phải có chương trình đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên của mình bằng cách thường xuyên gửi cán bộ có năng lực đi học tập nghiên cứu các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh trong và ngoài nước. Đồng thời khuyến khích các cán bộ theo học các khoá học dài hạn như đại học tại chức, học văn bằng hai. Công ty cũng cần tạo điều kiện cho cán cán bộ công nhân viên đi học các lớp học ngắn hạn về thị trường chứng khoán, Marketting...
Đối với người lao động là những người trực tiếp tạo ra sản phẩm, công ty cần có chương trình đào tạo về tay nghề, kỹ năng làm việc cho họ. Những thợ có tay nghề khá, là những thợ bậc cao công ty có thể đưa họ lên là những người hướng dẫn và dạy nghề cho lao động trẻ, với những công nghệ hiện đại như công nghệ bảo quản, ngâm tẩm, trang trí... hiện đại thì công ty cần phải nhờ chuyên gia hướng dẫn cho lao động của công ty
Bên cạnh nâng cao trình độ tay nghề của công nhân và trình độ quản lý của cán bộ công ty cũng cần quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ công nhân viên, động viên mọi người tích cực lao động sáng tạo, nâng cao năng suất lao động. Công ty cần sử dụng đòn bẩy kinh tế: thưởng, khuyến khích vật chất đối với cá nhân, phòng ban có thành tích cao trong kinh doanh, đồng thời gắn trách nhiệm vật chất với những cá nhân vi phạm các nguyên tắc làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty cũng cần tạo môi trường làm việc thoải mái, hài hoà, thống nhất từ trên xuống dưới, tạo niềm tin quyết tâm cho người lao động khi đó họ sẽ mang hết khả năng của mình để phục vụ cho công ty
3.10. Tăng cường hợp tác và tận dụng sự hỗ trợ của hiệp hội gỗ.
Trong quá trình hội nhập, cộng đồng doanh nghiệp vừa là đối tượng hưởng lợi từ khung pháp lý đang trở nên minh bạch hơn, môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, từ những cam kết cắt giảm thuế, được quyền tiếp cận thị trường của các thành viên WTO nhưng một thách thức lớn mà các doanh nghiệp phải đối mặt là các doanh nghiệp sẽ không được hưởng sự bảo hộ của Nhà nước. Để duy trì và bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp thì bản thân doanh nghiệp cần phải kết hợp chặt chẽ với hiệp hội gỗ.
Hiệp hội có thể hỗ trợ doanh nghiệp tích cực trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, củng cố và mở rộng thị trường nội địa, xây dựng cơ chế trao đổi thông tin thị trường và khách hàng trong các doanh nghiệp hội viên; xác định được phương hướng liên kết, liên doanh và hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tự nguyện của các hội viên; bảo vệ quyền lợi của các hội viên trong các vụ kiện bán phá giá hoặc chống bán phá giá; phản ánh trung thực ý kiến của các hội viên về quy hoạch và các chính sách phát triển sản xuất kinh doanh lên các cơ quan liên quan; hợp tác giữa các hiệp hội ngành hàng Việt Nam với các tổ chức hiệp hội ngành hàng quốc tế nhằm nâng cao vị thế và uy tín của các ngành hàng trong cộng đồng quốc tế; tăng cường hơn sự phối hợp giữa các bộ, ngành và các hiệp hội trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong việc thực hiện các cam kết của Việt Nam đối với WTO.
Từ những phân tích trên đây cho thấy doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác với hiệp hội gỗ để có thêm thông tin về thị trường, mẫu mã kiểu dáng, và được sự giúp đỡ của hiệp hội khi tranh chấp. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi công ty đang có chiến lược xuất khẩu mặt hàng gỗ sang thị trường các nước phát triển như Mỹ, các nước EU…
4. Một số kiến nghị với nhà nước và hiệp hội gỗ và lâm sản.
4.1. Kiến nghị với nhà nước.
Hiện nay, Đảng và nhà nước đã chủ trương phát triển nền kinh tế hướng ra xuất khẩu, đưa xuất khẩu trở thành một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nước nhà. Nhà nước cũng xác định xuất khẩu gỗ chế biến là một trong những ngành chủ lực. Song, cơ chế chính sách quản lý xuất nhập khẩu thường xuyên thay đổi làm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ. Mặt hàng gỗ xuất khẩu là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của nước ta do đó nhà nước cần có nhiều biện pháp giúp đỡ, khuyến khích phát triển. Từ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hội nhập, đặc biệt là sau khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới thì để cho ngành gỗ xuất khẩu ngày càng phát triển ngoài những chính sách đã phân tích ở trên thì nhà nước cần xem xét một số vấn đề sau.
4.1.1. Hoàn thiện chính sách quản lý xuất nhập khẩu.
Mở rộng quyển kinh doanh nhập khẩu nguyên liệu cho các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài để hạ giá thành sản xuất, giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm gỗ xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Một nguyên nhân gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam là việc giao hàng cho phía đối tác. Các đối thủ cạnh tranh của chúng ta trong khối như Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc… có thời gian làm thủ tục nhanh hơn chúng ta. Để nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp gỗ xuất khẩu thì nhà nước phải xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất khẩu để phấn đấu đến năm 2010 giảm thời gian làm thủ tục hải quan xuống bằng mức trung bình so với các nước trong khu vực ASEAN
Mặt khác, nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa các quan hệ kinh tế thương mại với các nước khác trên thế giới để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ nói riêng. Việc Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO đã góp phần tạo điều kiện cho ngành gỗ phát triển. Trong thời gian tới chúng ta cần đẩy mạnh các quan hệ thương mại đa phương (ASEAN, WTO…) và quan hệ song phương như Việt Nam – Hoa Kỳ, Việt Nam – Canada…Những ưu đãi cụ thể mà các quan hệ thương mại đó đem lại thường là mức thấp, bãi bỏ hạn ngạch …
4.1.2. Thực hiện có hiệu quả công tác hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm gỗ.
4.1.2.1. Thực hiện kiểm nghiệm, giám định hàng hoá.
So với trình độ chung của thế giới, trình độ kiểm nghiệm, giám định hàng hoá của Việt Nam còn kém do thiết bị kiểm định còn lạc hậu, chưa đồng bộ mang tính chất thủ công. Trình độ cán bộ kiểm định còn hạn chế làm ảnh hưởng đến kết quả công tác kiểm định, kiểm nghiệm làm cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bị khiếu nại ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và làm giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Có nhiều hợp đồng mà đối tác buộc chúng ta phải mang hàng đi đến nước khác để kiểm định làm các doanh nghiệp của chúng ta tốn một khoảng chi phí tương đối lớn.
Để thực hiện tốt quy trình xuất khẩu và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, ta cần nâng cao công tác kiểm nghiệm và giám định hàng hoá cho phù hợp với yêu cầu của đối tác hơn thế nữa còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm một khoản chi phí lớn.
4.1.2.2. Dịch vụ vận tải, giao nhận.
Ngày nay dịch vụ giao nhận hàng hoá của Việt Nam đi các nước chủ yếu do các công ty nước ngoài đảm nhận. Nguyên nhân của tình trạng trên là do tàu thuyển của Việt Nam chưa đủ chất lượng, không đủ an toàn, giá cước đắt…Do đó nếu dịch vụ vận tải của chúng ta phát triển hơn thì sẽ góp phần cải thiện tình hình xuất nhập khẩu. Để giải quyết tình hình trên nhà nước có thể đưa ra các biện pháp sau:
Tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty giao nhận xây dựng kho bãi, các kho ngoại quan để các doanh nghiệp có thể gửi nguyên vật liệu nhập khẩu về.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên doanh, liên kết tạo kho bãi trong nước và nước ngoài bằng cách giảm thời gian đăng ký, giảm lệ phí, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp muốn mở kho bãi ở nước ngoài…
Bên cạnh đó nhà nước cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp logistics hoạt động và liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài…
4.1.2.3. Thực hiện chính sách hỗ trợ công tác thị trường và xúc tiến thương mại.
Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh nhưng hoạt động xuất khẩu của các công ty còn mang tính chất tự phát. Các công ty thường tự tìm kiếm hợp đồng của mình theo các kênh riêng của mình rồi tự xúc tiến quảng cáo mà không theo một quy mô lớn. Tuy hình thức này sẽ giúp cho các doanh nghiệp thường xuyên có hợp đồng nhưng lại dẫn đến tình trạng tranh mua tranh bán, tự hạ thấp giá thành để có thể ký đựơc hợp đồng, cạnh tranh không lành mạnh
Bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp để có thể tìm kiếm được nhiều đơn hàng mà không nghĩ đến lâu dài, có nhiều doanh nghiệp chấp nhận làm gia công để xuất khẩu sang nước thứ ba. Với hình thức này doanh nghiệp sản xuất chỉ được hưởng phần giá trị gia tăng rất thấp từ xuất khẩu. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp không quan tâm làm như vậy trên danh nghĩa sẽ tăng lượng hàng, tăng nhanh thị phần danh nghĩa sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam sang thị trường các nước như châu Âu, Mỹ…. Đây là nguyên nhân khiến cho mật hàng gỗ dễ bị các nước nhập khẩu kiện bởi họ dễ dàng trong việc tập hợp và tìm kiếm bằng chứng để đưa ra kiện chống bán phá giá. Việc này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam.
Để khắc phục tình trạng trên, cần có những biện pháp chấn chỉnh và quy hoạch lại hệ thống quảng bá, xúc tiến thương mại đối với các sản phẩm gỗ trong thời gian tới có thể bằng các hình thức sau
- Hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm ở các thị trường quan trọng như Mỹ, Nhật, EU… để tập hợp cũng như quy tụ các doanh nghiệp tham gia cũng như tìm kiếm bạn hàng và ký kết hợp đồng xuất khẩu một cách có quy hoạch và trật tự.
- Triển khai các biện pháp nắm bắt và khai thác triệt để, đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp cách thu thập thông tin của các tổ chức nước ngoài hiện có mặt ở Việt Nam
Bến cạnh đó,doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan đại diện, các tham tán thương mại để nắm bắt thông tin về tình hình phát triển kinh tế xã hội , kinh tế văn hoá, các chính sách của nứơc nhập khẩu … để các doanh nghiệp có chiến lược phù hợp
4.1.3. Các giải pháp nhằm hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành xuất khẩu sản phẩm gỗ.
Nguồn nguyên liệu và con người là hai vấn đề then chốt của ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu. Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ gặp nhiều khó khăn do sự thiếu hụt về lao động và khả năng quản lý doanh nghiệp dẫn đến năng suất lao động thấp, hiệu quả kinh doanh không cao. Thêm vào đó, lượng công nhân được đào tạo còn hạn chế và sự phát triển ồ ạt của các cơ sở chế biến nên xảy ra tình trạng các doanh nghiệp chế biến gỗ thiếu lực lượng công nhân lớn. Để phát triển ngành gỗ thì nhà nước cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực phù hợp với cơ chế thị trường.
Từ những yếu cầu trên bộ thương mại cần làm việc với tổng cục dạy nghề để xác định nhân lực cho ngành chế bíên gỗ trong thời gian tới là bao nhiêu, phương án đầu tư, đào tạo cho phù hợp, việc đào tạo phải có địa chỉ sử dụng rõ ràng không gây lãng phí cho nhà nước và xã hội
4.2. Một số kiến nghị với hiệp hội gỗ và lâm sản.
Trong thời gian tới, hiệp hội gỗ và lâm sản cần tập trung vào công tác kiện toàn bộ máy tổ chức để nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt là người đại diện, bảo vệ quyền lợi cho các hội viên trứơc các vụ kiện từ các nhà nhập khẩu
Ngoài ra hiệp hội cần tập trung làm tốt công tác thông tin, cung cấp cho các doanh nghiệp các thông tin về thị trường các nước nhập khẩu như văn hoá, xu hướng tiêu dùng… và dự báo khả năng phát triển, khó khăn mà các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ có thể gặp phải và các giải pháp để khắc phục những khó khăn đó…Hiện nay hiệp hội cũng đang thực hiện những nhiệm vụ này nhưng các hoạt động còn chưa có tính hiệu quả cao.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các tổ chức ngành nghề trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ sự hỗn trợ về chuyên môn, công nghệ, kinh nghiệm hoạt động.
KẾT LUẬN
Ngày nay trong xu thế hội nhập quốc tế hoá và toàn cầu hoá ngày càng phát triển mạnh mẽ, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài xu thế đó mà phải chủ động hội nhập. Hoạt động xuất khẩu ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở thành nhân tố không thể thiếu trong thương mại quốc tế. Đặc biệt khi Việt Nam vừa là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì các hoạt động xuất khẩu càng sôi nổi hơn rất nhiều. Nhận thức được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng mở rộng quy mô hoạt động xuất khẩu của mình. Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu đã mở rộng hoạt động sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu, tích cực tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động này.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động này diễn ra cực kì khó khăn và phức tạp, đòi hỏi công ty phải không ngừng nắm bắt kịp thời, nhanh nhậy những thông tin về thị trường, đối thủ cạnh tranh của mình trên thương trường quốc tế.
Sau khi phân tích thực tiễn hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ - một mặt hàng chiến lược của công ty – em mạnh dạn đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm củng cố và phát triển hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của công ty trong thời gian tới. Nhưng do khả năng có hạn chắc chắn bài viết này có nhiều thiếu sót, vì vậy em mong nhận được sự góp ý của thầy cô và của cán bộ công nhân viên của công ty.
Em xin chân thành cảm ơn đến cô giáo Thạc sỹ. Nguyễn Thị Liên Hương - người đã nhiệt tình giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này, cùng toàn thể cán bộ công nhân viên công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại công ty.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình giao dịch và thanh toán quốc tế -PGS- TS: Nguyễn Duy Bột.
Giáo trình kinh doanh quốc tế- PTS: Đỗ Đức Bình- NXB: Giáo dục.
Giáo trình Marketing Thương mại quốc tế PGS.TS Nguyễn Bách Khoa.
Giáo trình kinh tế thương mại: PGS- TS: Đặng Đình Đào- chủ biên.
Kỹ thuật kinh doanh XNK PGS Võ Thanh Thu. NXB Thống kê tháng 11/ 2002
Nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu- Trần Văn Chu- Hà Quốc Hội, NXB ĐHQQG Hà Nội
Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu năm 2004- 2007.
Tạp chí thương mại .
Tạp chí ngoại thương.
Thời báo kinh tế Việt Nam các kỳ.
Trang Web của hiệp hội gỗ và lâm sản.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---{---
GIẤY NHẬN XÉT THỰC TẬP
Kính gửi: Khoa Thương Mại - Đại học kinh tế Quốc Dân
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Thắm Ngày sinh: 02/03/1985
Lớp: Thương mại quốc tế Khoá: 46
Thực tập tại: Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu
Từ ngày: 1/1/2008 đến ngày 27/4/2008
Theo sự giới thiệu của Khoa Thương Mại, Đại học Kinh tế Quốc Dân với sinh viên Nguyễn Thị Thắm thực tập tại Công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu, Công ty có nhận xét như sau:
Sinh viên Nguyễn Thị Thắm đã thực hiện tốt mọi nội qui của Công ty.
Tích cực học hỏi, tiếp thu các ý kiến đóng góp của cán bộ tại Công ty.
Cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu về chức năng nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của các phòng chức năng.
Đề tài “Nâng cao hiệu quả xuất khẩu sản phẩm gỗ của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu” là một đề tài mang tính thực tiễn và có tính tham khảo đối với Công ty, giúp Công ty có thêm được những giải pháp hợp lý trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu.
Sinh viên Nguyễn Thị Thắm đã hoàn thành tốt và nghiêm túc trong quá trình thực tập tại Công ty.
......................., ngày ...... tháng ...... năm 200...
Xác nhận của cơ sở thực tập Cán bộ hướng dẫn thực tập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11458.doc