Chuyên đề Các giải pháp chủ yếu tăng lợi nhuận ở công ty giầy Ngọc Hà

q Tham dự các hội chợ, triển lãm trên ở tỉnh lớn (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.) như: triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao, hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ xuân.Đây là con đường ngắn nhất để đưa sản phẩm tiếp cận với khách hàng, và qua đó có thể thu thập các ý kiến, phản ứng của khách hàng về sản phẩm của công ty. Các hoạt động này ngày càng thu hút được sự chú ý không chỉ của các công ty, giới kinh doanh, mà còn thu hút đông đảo khách hàng. Qua những hoạt động này, công ty có thể có được những đơn đặt hàng mới, khách hàng mới, tìm hiểu thị hiếu tiêu dùng mới, đưa thương hiệu sản phẩm gần hơn với người tiêu dùng.Rõ ràng công ty sẽ có được những cái lợi không chỉ đo bằng tiền, mà là hiệu quả lâu dài q Chiến lược tiếp thị, khuyến mại, khuyến mãi đặc biệt đối với khách hàng, các đại lý nhằm thu hút sự quan tâm của họ đối với sản phẩm của công ty, và khuyến khích các đại lý hoạt động hiệu quả hơn. Đây là những hoạt động không thể thiếu trong cơ chế hoạt động mới như hiện nay. Người tiêu dùng đã quen với các chương trình khuyến mại của các công ty dưới rất nhiều hình thức hấp dẫn. Và theo tâm lý chung, họ sẽ lựa chọn sản phẩm nào có các hình thức khuyến mại hấp dẫn.

doc74 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các giải pháp chủ yếu tăng lợi nhuận ở công ty giầy Ngọc Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ty giầy Ngọc Hà với số vốn ban đầu nhận bàn giao từ xí nghiệp giầy da Hà Nội là 1.733.000.000 đồng trong đó: Vốn cố định: 1.072.000.000 đồng Vốn lưu động: 169.000.000 đồng Vốn khác: 492.000.000 đồng Trải qua hơn 10 năm hoạt động sản xuất kinh doanh độc lập, nguồn vốn của công ty đã tăng lên đáng kể. Đặc biệt trong năm 2002, cơ cấu vốn của công ty bao gồm : Vốn cố định: 11.593.586.000 đồng Vốn lưu động: 2.351.485.000 đồng Vốn khác: 1.243.650.000 đồng Trong cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh của công ty, vốn chủ yếu được huy động từ hai nguồn là vốn vay và vốn chủ sở hữu của công ty. Nguồn vốn chủ sở hữu của công ty không ngừng được tăng lên, cũng như cơ cấu vốn của công ty giầy Ngọc Hà. Biểu: Cơ cấu nguồn vốn của Cty Giầy Ngọc Hà Đơn vị tính: 1000 đồng Chỉ tiêu 2001 2002 Chênh lệch(+/-) Tỷ lệ(%) Vốn cố định 4.008.348 11.593.586 1.013.290 9,58 Vốnlưu động 3.241.516 3.741.516 500.000 27,00 Vốn khác 1.126.250 1.243.650 117.400 10,42 Nguồn TL: (Báo cáo tài chính năm 2002) Qua biểu trên cho thấy: - Vốn cố định của công ty năm 2002 tăng so với năm 2001 là 9,58%. - Vốn lưu động của năm 2002 tăng so với năm 2001 là 27%, tương ứng với số tuyệt đối là 500.000.000 đồng. Đây là lần tăng lớn nhất từ khi thành lập công ty giầy Ngọc Hà tới nay. - Vốn khác trong năm 2002 cũng tăng đáng kể so với năm 2001 là 10,42%. Về lao động: Ngày đầu thành lập, công ty giầy Ngọc Hà không ngừng tăng lên về chất lượng cũng như số lượng lao động. Hàng năm, ngoài công tác tuyển dụng thêm lao động công ty còn phát động các phong trào thi đua làm động lực thúc đẩy tinh thần lao động, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ, công nhân viên của công ty. Công ty không ngừng nâng cao được thu nhập cho người lao động. Biểu: Thu nhập của người lao động Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2001 2002 Thu nhập bình quân 1000/lđ/t 450 520 600 Lao động BQ Người 600 729 780 Nguồn TL: Phòng tổ chức hành chính 2.1.3.3 Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất giầy Quy trình sản xuất giầy của công ty giầy Ngọc Hà, cũng như các công ty sản xuất giầy khác, quy trình sản xuất theo các công đoạn nối tiếp và liên tục. Các nguyên liệu khác nhau sẽ được xử lý theo các công nghệ khác nhau, sau đó kết hợp các quy trình để tạo thành sản phẩm hoàn chỉnh. Nguyên liệu dùng vào sản xuất gồm các loại vải phin, da làm mũi giầy, các loại cao su làm đế giầy, các loại hoá chất sử dụng bao gồm: cácbonát, kẽm bột màu, paraphin, các chất xúc tác, chất trộn để làm dẻo cao su, tăng độ bền và chống lão hoá. Các công nghệ chủ yếu là của Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản.. 2.2 Một số kết quả được trong thời gian qua Từ khi thành lập đến nay, Công ty Giầy Ngọc Hà là một doanh nghiệp Nhà nước luôn luôn phấn đấu đi lên không ngừng trong sản xuất kinh doanh. Trong thời kỳ đất nước mở cửa, Công ty luôn tìm tòi hướng đi phù hợp với khả năng, tự khẳng định mình vươn lên tự chủ về sản xuất kinh doanh giúp Công ty tồn tại và phát triển ngày càng vững mạnh thực hiện tốt 3 lợi ích: Nhà nước, doanh nghiệp và Người lao động. Từ chỗ vốn ban đầu khi mới thành lập vào năm 1991 là 1.733.000.000 đồng, tính đến năm 2002 theo báo cáo quyết toán của đơn vị vốn chủ sở hữu là 8.763.154.000 VNĐ. Trong đó : Vốn cố định: 5.021.638.000 Vốn lưu động: 3.741.516.000 Bảng: Một số chỉ tiêu Công ty Giầy Ngọc Hà đạt được Đơn vị: 1000 đồng Chỉ tiêu 2001 2002 -/+ Tỷ lệ(%) 1.Tổngdoanhthu 39.542.000 47.450.000 7.908.000 20,00 2. Lợi nhuận 296.000 363.000 67.000 22,63 3. SốnộpN sách 264.618 299.446 34.828 13,75 4. Thu nhập BQ 520 600 80 15,38 Nguồn TL: Bảng cân đối kế toán năm2002 * Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước Công ty giầy Ngọc Hà là một doanh nghiệp Nhà nước, được Nhà nước cấp vốn lần đầu lên việc thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước thể hiện trên các loại thuế gián thu và trực thu. Thông qua các số liệu báo cáo quyết toán năm 2002, ta khảo sát tình hình thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước của Công ty giầy Ngọc Hà qua biểu sau: Chỉ tiêu Phải nộp đầu năm 2002 Số phải nộp năm nay Số đã nộp năm nay Số còn phải nộp đến 31/12/02 1.Thuế doanh thu -727.680 3.640.790 5.000.000 -631.510 2.Thuế lợi tức 5.834.950 32.382.340 40.000.000 -1.872.700 3.Thuế XNK 7.569.000 7.569.000 4. Thu trên SD vốn 23.611.060 203.507.740 230.000.000 -2.881.190 5. Thuế đất 5.789.450 5.789.450 6.Thuế khác 1.400.000 1.400.000 Cộng 34.507.740 248.499.880 289.758.450 -5.295.400 NGuồn TL: Báo cáo tài chính năm 2002 Công ty giầy Ngọc Hà Từ kết quả trên ta thấy trong năm 2001 Công ty giầy Ngọc Hà đã thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước. Đầu năm 2002, Công ty còn nợ Ngân sách 34.507.781 đồng thuế, nhưng cuối năm 2002 Công ty đã nộp thừa 5.295.414 đồng Điều đó đạt được là nhờ có sự cố gắng của toàn thể nhân viên trong Công ty cùng với sự sáng suốt của đội ngũ lãnh đạo trong công tác chiến lược kinh doanh. Bảng: Đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định Chỉ tiêu 2001 2002 Chênh lệch Tỷ lệ(%) Tổng doanh thu 39.542.000 47.450.000 7.908 20,0 Tổng lợi nhuận 296.000 363.000 67 22,63 Tổng TSCĐ BQ SD 10.580.290 11.593.580 1.013.290 9,58 Năng lực kinh doanh 3,39 3,76 0,37 10,91 Khả năng sinh lời TSCĐ 0,023 0,027 0,004 17,39 Nguồn TL: Báo cáo tài chính của Công ty giầy Ngọc Hà Bảng đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định ta có thể thấy hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty năm 2002 tăng 1.013.290.000 đồng về chênh lệch tuyệt đối và tăng 9,58% về số tương đối. Theo chỉ tiêu năng lực kinh doanh cho biết cứ một đồng tài sản cố định bổ vào chi phí trong quá trình sản xuất sẽ tạo ra được 3,76 đồng doanh thu và 0,027 đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này của năm 2002 tăng tương ứng 0,37 và 0,004 so với năm 2001. Chứng tỏ tình hình sử dụng tài sản cố định của năm 2002 tốt hơn năm 2001, yếu tố đó đóng góp phần nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp lên. Hiệu quả sử dụng tài lưu động Tương tự như việc đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định, ta dùng biểu sau để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của Công ty giầy Ngọc Hà qua các năm 2002 và năm 2001. Bảng: Đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động Chỉ tiêu 2001 2002 Chênh lệch Tỷ lệ(%) 1.Tổng doanh thu 39.542.000.000 42.450.000.000 7.908.000.000 20,0 2. Tổng lợi nhuận 296.000.000 363.000.000 67.000.000 22,63 Tổng TSLĐ trong năm 9.680.038.155 11.602.932.280 1.922.894.125 19,86 Năng lực 3,71 3,76 0,05 1,35 Khả năng sinh lời của TSLĐ 0,025 0,027 0,002 8,00 NGuồn TL: Báo cáo tài chính năm 2002 Cty giầy Ngọc Hà Qua bảng tính toán trên ta thấy rằng cũng như tài sản cố định, năm 2002 tà sản lưu động cũng đã được Công ty giầy Ngọc Hà sử dụng đạt hiệu quả tốt trong kinh doanh hơn so với năm 2001. Cụ thể: trong năm 2002, 1 đồng tài sản lưu động mang lại cho Công ty 3,76 đồng doanh thu và 0,027 đồng lợi nhuận, cao hơn năm 2001 tương ứng là 0,05 đồng lợi nhuận, cao hơn năm 2001 tương ứng là 0,05 và 0,002 đồng. 2.3 Thực trạng lợi nhuận tại Công ty giầy Ngọc Hà Từ các số liệu báo cáo quyết toán ta có biểu đánh giá và so sánh tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty giầy Ngọc Hà 2 năm 2001 và 2002 như sau: Bảng đánh giá thực hiện lợi nhuận Đơn vị tính: 1000 đồng Chỉ tiêu Thực hiện năm 2001 Thực hiện năm 2002 So sánh năm 2002/2001 +/- % 1.Lợi nhuận thuần từ HĐKD 296.000 363.000 67.000 22,63 2. Lợi nhuận bất thường -13.700 -13.700 3. Tổng lợi nhuận 296.000 350.000 54.000 18,24 4. Thuế lợi tức phải nộp 94.720 112.000 18.000 19,14 5. Lợi nhuần ròng 201.280 238.000 36.720 18,24 NguồnTL: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002 Qua bảng chỉ tiêu cho chúng ta thấy được tình hình lợi nhuận của Công ty Giầy Ngọc Hà năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7.908.000.000 đồng về số tuyệt đối và 20,0% về số tương đối. Chứng tỏ Công ty đã thực hiện kinh doanh tốt, đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động sản xuất là nhiệm vụ chủ yếu của Công ty. Tiếp đến tình hình lợi nhuận và hoạt động thực hiện kế hoạch kinh doanh sẽ được biểu hiện rõ hơn qua bảng phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty giầy Ngọc Hà. Bảng Phân tích tình hình Thực hiện KH Lợi nhuận Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2001 2002 Tăng giảm so với năm trước Tỷ lệ so với doanh thu thuần Số tiền % 2001 2002 1. Tổng doanh thu 39542 47450 7908 20,0 100.35 100.33 2. Chiết khấu bán hàng 15 28 13 86.66 0.038 0.059 3. Thuế tiêu thụ 87 132 45 51.72 0.22 0.28 4. Doanh thu thuần 39440 47290 7850 19.90 100 100 5. Giá vốn hàng bán 38120 45020 6900 18.10 96.65 95.2 6. Lợi tức gộp 1320 2270 950 71.96 3.34 4.8 7. Chi phí bán hàng 645 1253 608 94.26 1.63 2.7 8.Chi phí QL DN 379 654 275 72.55 0.96 1.38 9. Lợi nhuận thuần từ hoạt động SXKD 296 363 67 22.63 0.75 0.86 0 0 10.Thu nhập HĐTC 0 0 11. Chi phí HĐTC 0 0 12. Thu nhập bất thường 0 0 0 0 13. Chi phí bất thường 13.7 0 0.029 14. Tổng lợi nhuận trước thuế 296 349.3 53.3 18.06 0.75 0.84 15.Thuế TNDN 94.72 111.776 17.056 18.06 0.24 0.24 16. Lợi nhuận ròng 201.28 237.524 36.244 18.06 0.41 0.51 Qua bảng phân tích tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận năm 2002 ta có thể nhận xét như sau: Dựa trên số liệu tổng doanh thu năm 2002 và năm 2001, cho ta thấy doanh thu năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7.908 triệu đồng, tăng xấp xỉ 20% về số tuyệt đối. So sánh tổng doanh thu so với doanh thu thuần thì năm 2002 cứ trong 1,0033 đồng doanh thu thì sẽ tạo ra 1,00 đồng doanh thu thuần, còn năm 2001 thì tương ứng là 1,0035 đồng tổng doanh thu mới có 1,00 đồng doanh thu thuần. Chính nguyên nhân trên đã làm cho lợi nhuận của năm 2002 tăng lên so với năm 2001. Qua bảng phân tích tình hình lợi nhuận ta thấy doanh thu thuần của năm 2002 tăng lên so với năm 2001 là 7.850 triệu đồng tương ứng với 19,90% về số tương đối. Một điều dễ thấy la lợi tức từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng so với năm 2001 là 67 triệu đồng, hay 22,67% về số tương đối. Đây là tín hiệu đáng mừng, thêm nữa tỷ lệ tăng giá vốn hàng bán là 18,1% là một con số không lớn lắm. Tuy nhiên, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp có xu hướng tăng cao. Đó là do nguyên nhân + Công ty giầy Ngọc hà không ngừng tăng về số lượng công nhân viên, và tăng chi phí đào tạo tay nghề, trình độ chuyên môn, làm cho chi phí quản lý doanh nghiệp năm 2002 tăng lên 275 triệu so với năm 2001 về số tuyệt đối. + Mặt khác, năm vừa qua công ty có đưa ra nhiều mẫu mã mới đối với mặt hàng giầy của công ty làm cho chi phí bán hàng của công ty tăng vọt . Năm 2002 tăng so với năm 2001 là 608 triệu đồng. Tuy nhiên, các khoản chi này cũng nhằm mục đích gia tăng lợi nhuận của công ty thông qua tăng đột biến tổng doanh thu bán hàng. Cùng với các số liệu đã tính toán chúng ta thấy hầu hết các chỉ tiêu so với doanh thu thuần đều tốt. Thí dụ cứ trong 100 đồng doanh thu thì giá vốn năm ngoái chiếm 96,65 đồng còn năm nay thì giá vốn chiếm 95,2 đồng. Hay ở chỉ tiêu lãi gộp cũng vậy, cứ trong 100 đồng doanh thu thuần thì quý trước có3,34 đồng lãi gộp thì năm nay có tới 4,8 đồng lãi gộp. Chỉ có chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp là có xu hướng tăng lên so với trong 100 đồng doanh thu thuần. Nguyên nhân của vấn đề này đã được đề cập ở trên. Ngoài ra, cũng phải thấy ở một góc độ nào đó thì công ty đầu tư cho sản phẩm mới đòi hỏi một lượng chi phí để quảng bá sản phẩm trên thị trường, tăng cường công tác quản lý doanh nghiệp để sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao hơn. Nhưng điều quan trọng hơn cả là lợi nhuần thuần từ hoạt động kinh doanh tiêu thụ sản phẩm đã tăng lên 67 triệu đồng so với năm 2001. Để thấy đượcmức độ ảnh hưởng của các nhân tố như thế nào ta sẽ tinhs toán cụ thể như sau: + Tổng doanh thu bán hàng năm 2002 tăng so với năm 2001 là 7.908 triệu đồng. Do vậy trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi thì doanh thu tăng sẽ làm cho lợi nhuận tăng tức cũng tăng 7.908 triệu đồng tương ứng. + Chiết khấu bán hàng năm 2002 tăng so với năm 2001 là 13 triệu đồng làm cho lợi tức giảm đi 13 triệu đồng. + Thuế tiêu thụ năm 2002 tăng lên 45 triệu đồng so với năm 2001 làm cho lợi nhuận giảm đi 45 triệu đồng trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. + Giá vốn hàng bán năm 2002 tăng so với năm 2001 là 6.900 triệu đồng làm cho lợi nhuận của Công ty giảm đi 6.900 triệu đồng. + Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tăng lần lượt là 608 và 275 triệu đồng làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm tương ứng là 608 và 275 triệu đồng trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Tổng hợp các nhân tố ttác động đến lợi nhuận thuần của hoạt động sản xuất kinh doanh ta có: Lợi tức tăng do doanh thu tăng: 7.908 triệu đồng Lợi tức giảm do các nguyên nhân: 7.841 triệu đồng Trong đó : do chiết khấu bán hàng là 13 triệu đồng Thuế tiêu thụ tăng 45 triệu đồng Giá vốn hàng bán tăng 6,9 tỷ đồng Chi phí bán hàng tăng 608 triệu đồng Chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 275 triệu đồng Vậy lợi tức năm 2002 tăng so với năm 2001 là 67 triệu đồng. Sự tăng trưởng đó còn được thể hiện rất rõ qua các chỉ tiêu đánh giá khả năng Năng lực kinh doanh Doanh thu bán hàng trong kỳ = của vốn KD Tổng vốn kinh doanh bình quân + Năm 2001 39.542000.000 = 6,26 5.735.171.000 + Năm 2002 47450.000.000 = 6,44 6.773.186.000 Khả năng sinh lời Lợi nhuận kinh doanh = của vốn kinh doanh Tổng vốn kinh doanh bình quân + Năm 2001 296.000.000 = 0,051 5.735.171.000 + Năm 2002 363.000.000 = 0,053 6.773.186.345 Qua kết quả tính toán được ta thấy khả năng sinh lời của vốn kinh doanh của Công ty năm 2002 cao hơn năm 2001, năm 2001 cứ một đồng vốn kinh doanh tạo ra 6,26 đồng doanh thu và 0,051 đồng lợi nhuận. Đến năm 2002 thì cứ một đồng vốn kinh doanh đem lại 6,44 đồng doanh thu và 0,053 đồng lợi nhuận. Như vậy, năm 2002 Công ty đã sử dụng vốn có hiệu quả hơn năm 2001 và lợi nhuận đã tăng lên. Lợi nhuận của Công ty tăng lên thông qua hiệu quả sử dụng tài sản cố định Bảng đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định Chỉ tiêu 2001 2002 Chênh lệch Tỷ lệ Tổng doanh thu 39.542.000 47.450.000 7.908.000 20,0 Tổnglợi nhuận 296.000 363.000 67 22,63 Tổng TSCĐ BQ SD 10.580.290 11.593.580 1.013.290 9,58 Năng lực kinh doanh 3,39 3,76 0,37 10,91 Khả năng sinh lời của TSCĐ 0,023 0,027 0,004 17,39 Qua bảng đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định ta có thể thấy hiệu quả sử dụng TSCĐ Công ty đạt được năm 2002 cao hơn năm 2001. Điều này thể hiện ở chỗ chênh lệch so sánh giữa năm 2002 và năm 2001 đều dương đặc biệt là khả năng sinh lời của tài sản cố định năm 2002 vượt so với năm 2001 là 17,39%. Hiệu quả sử dụng tài lưu động Tương tự như việc đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định, ta dùng biểu sau để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của Công ty giầy Ngọc Hà qua các năm 2002 và năm 2001. Bảng: Đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động Chỉ tiêu 2001 2002 Chênh lệch Tỷ lệ(%) Tổng doanh thu 39.542.000 42.450.000 7.908.000 20,0 Tổng lợi nhuận 296.000 363.000 67.000 22,63 Tổng TSLĐ trong năm 9.680.038 11.602.932 1.922.894 19,86 Năng lực 3,71 3,76 0,05 1,35 Khả năng sinh lời của TSLĐ 0,025 0,027 0,002 8,00 NGuồn TL: Báo cáo tài chính Cty giầy Ngọc Hà Qua bảng tính toán trên ta thấy rằng cũng như tài sản cố định, năm 2002 tà sản lưu động cũng đã được Công ty giầy Ngọc Hà sử dụng đạt hiệu quả tốt trong kinh doanh hơn so với năm 2001. Cụ thể: trong năm 2002, 1 đồng tài sản lưu động mang lại cho Công ty 3,76 đồng doanh thu và 0,027 đồng lợi nhuận, cao hơn năm 2001 tương ứng là 0,05 đồng lợi nhuận, cao hơn năm 2001 tương ứng là 0,05 và 0,002 đồng. Phân tích tốc độ luân chuyển của vốn lưu động Để phân tích tốc độ luân chuyển của lưu động tại Công ty giầy Ngọc Hà chúng ta căn cứ vào một số chỉ tiêu sau thông qua số liệu báo cáo năm 2001 và năm 2002. Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 Chênh lệch Tương đối 1. Doanh thu theo giá vốn Triệu. đ 39.542 47.450 7.908 20,00 2. Vốn lưu động BQ Triệu. đ 1.851,485 2.351,485 500 27,00 3. Vòng quay vốn lưu động Vòng 18,29 17,36 -0,93 - 5 4. Số ngày 1 vòng quay Ngày 19,68 20,74 -1,06 -5,3 Nguồn TL: Báo cáo tài chính năm 2002 Cty giầy Ngọc Hà Từ kết quả thu được trong bảng so sánh các chỉ tiêu ta thấy rằng năm 2002 vòng quay vốn lưu động bị giảm so với năm 2001, do tốc độ vốn lưu động bình quân tăng nhanh tốc độ tăng của doanh thu. Trên đây là khái quát tình hình lợi nhuận và hoạt động kinh doanh của Công ty giầy Ngọc Hà, 2.4 Đánh giá về tình hình hoạt động của Công ty Giầy Ngọc Hà trong năm 2001. Như đã trình bày ở trên, trong năm 2001, Công ty Giầy Ngọc Hà đã có những thành tích đáng khích lệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng bên cạnh đó là những khó khăn, thuận lợi và một số vấn đề vẫn còn tồn tại cần tiếp tục giải quyết để đưa công ty hoạt động hiệu quả hơn nữa. 2.4.1 Những thuận lợi a, Về mặt khách quan Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh, nâng cao quyền và khả năng tự chủ trong kinh doanh, tự chủ về tài chính cho các doanh nghiệp nói chung và cho công ty giầy Ngọc Hà nói riêng đã đem lại một luông sinh khí mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Kết quả là năm 2002 công ty giầy Ngọc Hà đã tăng được lợi nhuận là 67.000.000 đồng, tăng 22,6 % so với năm 2001. Đặc biệt, công ty đã tăng được thu nhập cho người lao động từ 520.000 đồng lên 600.000 trong năm 2002. Đạt được những thành công đó là nhờ: Công ty được quyền lựa chọn hợp đồng kinh doanh có hiệu quả cao, được giữ lại toàn bộ quỹ khấu hao để mở rộng sản xuất. Đó chính là những thuận lợi khách quancơ bản của Nhà nước đã giúp cho doanh nghiệp Nhà nước đạt được những thành công cơ bản, trong đó có công ty giầy Ngọc Hà. Cùng với sự khởi sắc kinh tế của nước nhà trong những năm gần đây, với chủ trương hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, ngành giầy da nói chung và công ty giầy Ngọc Hà nói riêng đang được sự quan tâm thích đáng từ phía Nhà nước. Vì đây là một măt hàng có kim ngạch cao, được chọn là một trong các mặt hàng chủ đạo của nền kinh tế. b, Về phía công ty giầy Ngọc Hà Công ty giầy Ngọc Hà có tập thể vững mạnh và gắn bó, đoàn thể công nhân viên chức với truyền thống đoàn kết nhất trí cao, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành kế hoạch và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế xã hội mà công ty đã đề ra. Công ty có đội ngũ cán bộ, công nhân viên có nhiều kinh nghiệm trong quản lý và sản xuất, có thời gian làm việc lâu năm trong ngành, có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao. Quan hệ hợp tác với các đối tác, khách hàng trong và ngoài nước luôn được duy trì và phát triển. Đặc biệt là các khách hàng lâu năm và thường xuyên của công ty như: Nhật Bản, Hàn quốc và Đài loan...và trong thời gian tới là Mỹ. Ngoài ra, Công ty không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn cho cán bộ, công nhân viên của công ty. Từ đó giảm được chi phí trong sản xuất, giảm giá thành và tăng lợi nhuận cho công ty. Bên cạnh những thuận lợi nói trên, Công ty giầy Ngọc Hà cũng gặp không ít khó khăn. 2.4.2 Những khó khăn a, Về mặt khách quan Một trong những hệ quả của chính sách mở cửa nền kinh tế là hàng hoá được tự do lưu thông khiến cho hàng ngoại nhập tràn vào nước ta theo nhiều con đường. Chính yếu tố đó làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường Việt nam. Đây chính là thách thức đối với công ty giầy Ngọc Hà. Trong khi đó, thị phần trong nước của công ty giầy Ngọc Hà là quá nhỏ, doanh thu nội địa của công ty đối với mặt hàng giầy không tới 10%.Hơn nữa, Công ty phải đối mặt với các điều kiện khắt khe trên thị trường xuất khẩu, cũng như về tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn vệ sinh môi trường và sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng. Sản phẩm của công ty chủ yếu xuất khẩu qua các trung gian nên nhiều khi bị ép giá. Thêm nữa, công ty luôn gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các công ty trong cùng ngành như: Công ty Giầy Thượng Đình, Công ty giầy Ngọc Hà, Công ty Giầy Thuỵ Khuê,... B, Về mặt chủ quan của công ty - Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp Nhà nước không là một ngoại lệ đối với công ty giầy Ngọc Hà. Do đó, công ty phải đi huy động vốn từ các ngân hàng để kinh doanh làm chi phí tăng lên. Đây là nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp. Trong công tác chuẩn bị nguyên vật liệu cho sản xuất đã khá hơn so với các năm trước, song đôi khi vẫn không đáp ứng được kịp thời tiến độ sản xuất. Đăc biệt, công ty hay gặp khó khăn trong quý III và quý IV. Chưa có sự đồng đều về nguồn nhân lực trong dây chuyền công nghệ. Do đó không sử dụng được tối đa công suất của dây chuyền sản xuất. Công tác cập nhật, thống kê báo cáo số liệu, chứng từ sổ sách của các phòng ban nghiệp vụ, của các quản động phân xưởng còn chưa được thường xuyên. Vì vậy, việc lãnh đạo chỉ đạo công tác sản xuất, và các hoạt động khác chưa kịp thời, chưa sát với thực tế. 2.4.3 Những tồn tại cơ bản là: Công ty chưa chú trọng khai thác thị trường nội địa. Trong năm qua, tuy sản lượng và doanh số bán đã có những tín hiệu khả quan, nhưng những gì đạt được vẫn còn ở mức khá khiêm tốn so với năng lực và tiềm năng của công ty. Đặc biệt khi hiện nay, sản phẩm của công ty liên tục đạt danh hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng cao”, sản phẩm được người tiêu dùng yêu thích, nhưng thị phần trong nước lại quá thấp, điều này đã để sản phẩm của các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái lan... tràn ngập thị trường. Nếu so sánh về chất lượng thì sản phẩm của Công ty không kém, thậm chí về giá lại rẻ hơn rất nhiều, nhưng sản phẩm vẫn chưa có chỗ đứng xứng đáng trên thị trường nội địa. Một lý do nữa là do kiểu dáng và mẫu mã sản phẩm chưa thực sự phù hợp với thị hiếu khách hàng, đặc biệt đối với sản phẩm giầy da cao cấp. Trong những năm tới đây, khi gia nhập AFTA, việc chiếm thị phần trong nước lại càng trở nên khó khăn hơn. Do đó, công ty cần có kế hoạch phù hợp và kịp thời để chiếm giữ khách hàng nội địa, không để thua trên “sân nhà”. Chưa có sự chuyển biến mạnh trong việc chuyển đổi phương thức gia công sang phương thức mua bán trực tiếp. Đây không chỉ là chiến lược của riêng công ty mà là chiến lược chung của toàn ngành giầy da, tuy nhiên, cho đến nay, nó vẫn chưa có hiệu quả nhiều. Song song với việc gia công, sản phẩm của công ty luôn bị ép giá, hơn nữa có nhiều hợp đồng lại xuất khẩu thông qua nước thứ ba, điều này làm giảm hiệu quả xuất khẩu rất nhiều. Việc chuyển sang phương thức mua bán trực tiếp mới chỉ ở những bước đi ban đầu, do đó đòi hỏi công ty phải xây dựng một chiến lược phù hợp cho “bước nhảy” quan trọng này. Trên đây là một số vấn đề tồn tại cơ bản đang đặt ra cho công ty hướng giải quyết, đồng thời đó cũng là cơ sở cho việc đề ra các giải pháp đểtăng lợi nhuận của Công ty ở chương III. Chương III các giải pháp nhằm tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy ngọc hà. 3.1 Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. Đối với ngành giầy da nói chung, và Công ty Giầy Ngọc Hà nói riêng, thách thức không còn xa nữa trong tiến trình hội nhập AFTA từ nay đến 2006, sản phẩm giày da sẽ đưa vào danh mục giảm thuế, hơn nữa, việc xuất khẩu sẽ đối mặt với nhiều khó khăn về tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn môi trường và thay đổi thị hiếu. Không chỉ vậy, việc Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết đem lại không chỉ riêng công ty những cơ hội và thách thức mới trong việc thâm nhập vào thị trường “khó tính” này. Với kinh nghiệm bề dày nhiều năm hoạt động, cộng thêm sự quyết tâm của Ban lãnh đạo công ty, đoàn thể công nhân viên, Công ty Giầy Ngọc Hà đặt quyết tâm vượt qua mọi thách thức để đưa công ty làm ăn có hiệu quả và ngày càng phát triển. Cụ thể trong thời gian tới, công ty sẽ thực hiện đẩy mạnh công tác khoa học kỹ thuật, không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm để mở rộng thị phần trong nước và nước ngoài. Trong năm tới, phòng kỹ thuật, phòng kế hoạch – xuất nhập khẩu, phòng kinh doanh cần phối hợp chặt chẽ với 2 xí nghiệp gia công để nắm bắt quy trình công nghệ sản xuất các loại giày dép của nước bạn, từ đó, bộ phận tạo mẫu của công ty sẽ tiến hành sản xuất thử nghiệm, tiến tới sản xuất đại trà khi sản phẩm đã được khách hàng chấp nhận. Thực hiện chuyển mạnh phương thức sản xuất gia công sang phương thức mua bán trực tiếp. Đảm bảo tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm và mức tăng trưởng là 15% trở nên. Để có thể thực hiện được những kế hoạch nêu trên, công ty cần phải xây dựng các chiến lược kinh doanh, đề ra các biện pháp cụ thể và thực thi một cách hiệu quả. 3.2 các giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy ngọc hà. Trên con đường phát triển kinh doanh, Công ty cần nắm bắt xu thế thời đại, và nhanh chóng chuyển đổi phương thức sản xuất. Qua thời gian tìm hiểu thực tế và phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty, em xin mạnh dạn đề ra một số phương hướng và biện pháp nhằm phấn đấu tăng lợi nhuận ở công ty trong phần dưới đây. 3.2.1/Biện pháp thứ nhất: Tăng cường đầu tư, đổi mới kết hợp sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất cũng như năng suất lao động của công ty. Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra trên thế giới đã và đang tác động sâu sắc đến cuộc sống con người, và các doanh nghiệp là những nơi được tiếp xúc với nhiều nhất với các tiến bộ khoa học công nghệ. Do vậy, nếu ứng dụng được các công nghệ mới vào sản xuất sẽ giảm được các khoản chi phí liên quan đến quá trình sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đầu tư, đổi mới tài sản cố định, máy móc thiết bị đã lạc hậu, cũng như nâng cấp sửa chữa các máy móc hiện có vì thế đã trở thành một nhiệm vụ thường xuyên của doanh nghiệp. Đối với việc đầu tư đổi mới tài sản cố định, công ty có thể đi theo hai hướng: mua mới hoặc thuê tài chính. Trong trường hợp mua mới, công ty có thể huy động vốn từ lợi nhuận để lại, vay ngân hàng...Việc huy động vốn từ nguồn nào cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng nhiều yếu tố: chi phí sử dụng vốn, tình hình tài chính, độ an toàn của dự án, và lợi ích thu được. Bên cạnh đó, công ty cần thận trọng trong việc tìm kiếm các đối tác có đủ năng lực, uy tín trong việc cung cấp các thiết bị có chất lượng cao, cần cử cán bộ kỹ thuật có chuyên môn, có trách nhiệm trong việc chọn mua máy móc thiết bị. Ngoài ra công ty có thể thực hiện đổi mới máy móc thiết bị theo hình thức thuê tài chính. Đây là một hình thức còn khá mới mẻ ở Việt Nam, song nó đã cho thấy ưu thế riêng có. Thuê tài chính giúp cho công ty không phải huy động vốn tập trung tức thời nguồn vốn lớn, do vậy, với một số vốn nhỏ, công ty vẫn có được các thiết bị tiên tiến, hiện đại để mở rộng sản xuất kinh doanh. Như thế, công ty mới có thể chớp được các cơ hội kinh doanh mà không phải chờ đợi đến khi đủ vốn, hoặc thế chấp như đối với tín dụng ngân hàng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà công ty có thể lựa chọn một trong hai hình thức thuê tài chính là “thuê ba bên” hay ‘bán và tái thuê”. Một vấn đề quan trọng khác là làm sao công ty có thể vừa chọn được công nghệ vừa hiện đại, vừa phù hợp với khả năng tài chính, cũng như các điều kiện cụ thể khác của công ty. Tình trạng nhập khẩu những máy móc thiết bị đã lạc hậu do thải loại từ các nước phát triển hơn đã gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất. Để tránh tình trạng này, công ty nên thận trọng trong công tác giao dịch, kiểm tra chất lượng máy móc thiết bị, chế độ bảo dưỡng, bảo hành và các dịch vụ khác sau bán hàng, thậm chí cần đến sự giúp đỡ, tư vấn của các công ty tư vấn và chuyển giao công nghệ trong những trường hợp cần thiết. Đối với các tài sản hiện có, việc bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên, định kỳ là rất cần thiết. Điều này đòi hỏi công ty phải bố trí đội ngũ công nhân sửa chữa tay nghề cao, tích cực và có trách nhiệm. Về mặt tài chính cần tính toán, dự trữ đủ vốn, quan trọng hơn phải xác định được hiệu quả của việc sửa chữa đó. Nếu chi phí sửa chữa bỏ ra mà lớn hơn giá trị còn lại của thiết bị thì việc sửa chữa là không hiệu quả, và công ty tốt hơn là nên thanh lý mua mới tài sản khác. Song song với công tác sửa chữa, bảo dưỡng, việc nâng cao tay nghề, trình độ và trách nhiệm của công nhân lao động cũng rất quan trọng. Việc đầu tư mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, tổ chức các cuộc họp báo cáo kinh nghiệm, huấn luyện kỹ thuật trên máy móc trực tiếp, hay tổ chức các cuộc thi tay nghề trong phạm vi phân xưởng, xí nghiệp, kết hợp với các hình thức khen thưởng, biểu dương xứng đáng các cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong sản xuất là diều cần thiết nên làm, đồng thời có các biện pháp khuyến khích công nhân phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. 3.2.2/Biện pháp thứ hai: Nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định. Sử dụng vốn có hiệu quả có nghĩa là làm cho lợi nhuận thu được trên một đồng vốn bỏ ra ngày càng nhiều hơn. Qua sự phận tích ở chương II, ta thấy, hiệu quả sử dụng vốn của công ty có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nó vẫn còn ở mức thấp. Yêu cầu đặt ra đối với công ty là cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng các loại vốn. Vốn kinh doanh bao gồm 2 loại: vốn lưu động và vốn cố định. Đối với mỗi loại vốn này cần có các biện pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả sử dụng. Trước hết, đối với vốn lưu động. Vòng quay vốn lưu động năm 2001 tăng so với năm trước. Nhưng nhìn chung là chưa đáng kể. Ta đã biết vòng quay vốn phụ thuộc vào hai yếu tố: Doanh thu thuần và vốn lưu động tham gia vào sản xuất kinh doanh. Như vậy, để tăng vòng quay vốn thu cần phải tăng doanh thu thuần. Làm được điều này, công ty cần tăng nhanh doanh thu tiêu thụ, giảm tối thiểu các khoản giảm trừ doanh thu như: giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại. Để tăng doanh thu tiêu thụ, công ty cần làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm; duy trì quan hệ với các bạn hàng truyền thống, đẩy mạnh tìm kiếm khách hàng mới, mở rộng thị phần...Để thực hiện được điều này, công ty cần làm tốt những công tác sau: Một là: Huy động tối đa tài sản cố định tham gia vào sản xuất, khai thác tối đa công suất thiết kế của máy móc thiết bị. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng nhượng bán, thanh lý các tài sản cố định không cần dùng cũng như đã lạc hậu. Làm như vậy, hiệu quả sử dụng tài sản cố định, vốn cố định cũng như doanh lợi vốn cố định chắc chắn được nâng cao. Hai là: Cần có kế hoạch cụ thể đối với việc dự trữ hàng tồn kho, cần tính toán sao cho hàng tồn kho không quá nhiều: nguyên vật liệu, chi phí sản xuất dở dang, thành phẩm..., nhưng luôn phải đảm bảo tiến độ sản xuất cũng như cung ứng hàng hoá theo đơn đặt hàng. Tình hình thị trường luôn có sự biến động không ngừng, do vậy, để hướng tới phương pháp quản trị hàng tồn kho bằng không là điều không thể thực hiện. Vì thế, việc hợp đồng chặt chẽ với các đơn vị cung cấp nguyên vật liệu kịp thời sẽ giúp công ty có được một khoản vốn để sử dụng vào việc khác cũng như giảm được chi phí lưu kho và chi phí thực hiện hợp đồng. Ba là: Quản lý tốt công tác thu hồi nợ. Dù trong điều kiện kinh doanh hiện nay, việc công ty cấp tín dụng cho các đối tác là điều cần thiết, nhưng đối với Công ty Giầy Ngọc Hà, các khách hàng là các đối tác liên kết, công ty chỉ thực hiện gia công và nhận công, thì việc gia hạn và cung cấp tín dụng là rất hạn chế, công ty cần có biện pháp tốt hơn nữa trong việc thu hồi nợ. Để thực hiện điều này, công ty cần: Thực hiện chế độ khuyến khích đối với những khách hàng trả tiền đúng hạn và trước hạn như chiết khấu, tặng quà hay các hình thức đãi ngộ thoả đáng khác. Có sự phân loại, theo dõi sát xao các loại nợ cần thu hồi như nợ chưa đến hạn, nợ đến hạn, nợ quá hạn, nợ không có khả năng thu hồi để có các biện pháp thu hồi phù hợp. Chủ động các biện pháp thu hồi nợ: Chuẩn bị các chứng từ thích hợp, cần thiết đối với các khoản nợ sắp đến hạn, đối với các khoản nợ quá hạn, cần linh hoạt các biện pháp: gia hạn thêm thời gian trả nợ, thu trước một phần nợ... Phạt vi phạm hợp đồng trong những trường hợp cần thiết. Có các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh toán: yêu cầu đặt cọc, tạm ứng trước một phần giá trị hợp đồng... Khi ký hợp đồng cần có sự ràng buộc chặt chẽ về quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên để tránh những rủi ro không đáng có. 3.2.3/Biện pháp thứ ba: Nâng cao và giữ vững thị trường tiêu thụ nội địa, bên cạnh việc duy trì thị trường nước ngoài. Chúng ta đều biết, đối với mỗi doanh nghiệp, việc mở rộng thị phần tiêu thụ luôn là vấn đề quan trọng, đặc biệt trong tình hình kinh doanh hiện nay, các công ty luôn có sự cạnh tranh gay gắt về chất lượng, giá cả, phương thức kinh doanh...Việc duy trì và tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới đang đặt ra cho công ty nhiều vấn đề cần giải quyết, nó không thể chỉ thựchiện trong một thời gian ngắn đã đạt ngay kết quả như mong muốn, cần phải có kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Để có thể làm được điều này, công ty cần thực hiện một số biện pháp sau: Một là: Nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, chinh phục khách hàng bằng sản phẩm chất lượng và giá thành thấp. Cơ chế thị trường đã tạo ra một luồng sinh khí mới cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ lựa chọn các dự án đầu tư có lợi nhất, lựa chọn các sản phẩm đem lại lợi ích kinh tế cao nhất. ở tất cả các lĩnh vực, không riêng ngành giầy da, đều có sự cạnh tranh gay gắt. Cũng như các công ty khác, Công ty Giầy Ngọc Hà không phải là không có đối thủ cạnh tranh. Người tiêu dùng lâu nay không chỉ biết đến Giầy Ngọc Hà, bên cạnh đó, còn có giầy Thuỵ khuê, giầy Thượng Đình...Để tạo cho mình chỗ đứng trong thị trường nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu, không còn cách nào khác là phải nâng cao chất lượng sản phẩm, song song với nó là việc nâng cao uy tín doanh nghiệp, uy tín cho sản phẩm. Hai là: Tạo sự đột phá trong thiết kế mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm. Ngày nay, cuộc sống người dân Việt Nam đã được cải hiện hơn rất nhiều. Thay vào nhu cầu được “ăn no mặc ấm” là nhu cầu “ăn ngon mặc đẹp”, đặc biệt đối với người phụ nữ nói chung, nhu cầu làm đẹp đã trở nên không thể thiếu. Do đó, song song với việc cung cấp sản phẩm có chất lượng thì một điều quan trọng nữa là phải có kiểu dáng đẹp, tính thẩm mỹ cao. Hiện nay, các sản phẩm của công ty tuy đã có những cách điệu mới nhưng vẫn chưa đủ để gây sự chú ý. Trong thời gian tới, để có thể tạo ra những đột phá mới trong cải tiến mẫu mã, công ty cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: Quan tâm, đúng mức, hợp lý đến việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, tiến hành sản xuất thử, đưa sản phẩm mới ra thị trường, đồng thời theo dõi phản ứng của khách hàng. Sau khi sản xuất thử đạt kết quả khả quan mới đem sản xuất đại trà, vẫn tiếp tục theo dõi nhu cầu thị trường để có những cải tiến, thích ứng hơn cho các sản phẩm tiếp theo. Đây là một công tác rất quan trọng, nếu làm tốt, công ty có thể thu hẹp được khoảng cách đối với người tiêu dùng, và dễ dàng chinh phục khách hàng. Tổ chức các cuộc thi thiết kế mẫu, tìm tòi phát hiện các ý tưởng sáng tạo mới trong nội bộ công ty: bộ phận thiết kế mẫu, công nhân sản xuất...khi khả năng tài chính của công ty còn hạn chế. Bộ phận thiết kế cần năng động, sáng tạo, nắm bắt xu hướng tiêu dùng mới, trên cơ sở đó biến những ý tưởng sáng tạo thành hiện thực. Đồng thời có sự kết hợp với công nhân sản xuất.Bởi một lý do hết sưc đơn giản, công nhân sản xuất là những người trực tiếp làm ra sản phẩm, do đó họ hiểu hơn ai hết những ưu điểm cũng như sự bất tiện hoặc chưa hợp lý khi sử dụng sản phẩm. Bất cứ một ý tưởng nào cũng có thể trở thành sáng kiến có tính khả thi cao. Nếu tận dụng được điều này không chỉ giúp cho công ty tiết kiệm một khoản chi phí lớn mà còn tận dụng triệt để hiệu quả nguồn nhân lực tiềm năng chưa được khai thác...Về lâu dài, khi tình hình tài chính cho phép có thể mở rộng quy mô các hoạt động trên, bởi trong kinh tế thị trường, sản phẩm luôn phải thay đổi, luôn phải được cải tiến. Người tiêu dùng sẽ để ý đến công ty nhiều hơn khi sản phẩm của công ty luôn có những cải tiến bất ngờ và hiệu quả. Xây dựng uy tín về nhãn hiệu sản phẩm trong lòng người tiêu dùng, khi đã biết đến chất lượng và uy tín của doanh nghiệp, khách hàng sẽ tự tìm đến với công ty. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, thương hiệu sản phẩm đã trở nên ngày càng quan trọng hơn, nó khẳng định vị thế của công ty trên thương trường và là ranh giới thị phần với các sản phẩm khác. Người tiêu dùng đã biết đến cái tên Giầy Ngọc Hà, nhưng mới chỉ dừng lại ở những sản phẩm giầy vải xuất khẩu, giầy bảo hộ lao động...Do vậy, cần phải thay đổi cái nhìn và nhận thức của khách hàng về sản phẩm của công ty. Nhưng để có được điều này, công ty cần xây dựng một chiến lược phát triển ngay từ bây giờ. Thứ ba: Xây dựng chiến lược Marketing đồng bộ, hiệu quả trong việc thâm nhập, mở rộng thị phần tiêu thụ. Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai trò của Marketing trong việc mở rộng thị phần tiêu thụ, nó ngày càng trở nên quan trọng, thậm chí giữ vai trò then chốt. Dù sản phẩm của công ty có tốt đến đâu, có đẹp đến đâu mà người tiêu dùng không biết đến thị cũng không thể tiêu thụ mạnh được, trong khi các đối thủ luôn dẫn đầu trong việc đưa sản phẩm phổ biến ra công chúng. Do vậy, công ty cần chú ý hơn đến vấn đề này. Trong hệ thống chiến lược chung của doanh nghiệp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau như chiến lược tổ chức sản xuất, chiến lược tổ chức con người, chiến lược tài chính và chiến lược marketing chiếm một vị trí then chốt. Chiến lược marketing xác định vấn đề sản phẩm - thị trường, tác động đến các chiến lược khác. Nó liên kết giữa các yếu tố bên trong với các điều kiện bên ngoài thị trường của doanh nghiệp, và hướng đến các mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp, mà một trong những mục tiêu quan trọng không thể thiếu là nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chiến lược chung marketing bao gồm hệ thống các chiến lược bộ phận: Chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến yểm trợ. Làm tốt các chiến lược trên sẽ giúp cho doanh nghiệp có một vị thế vững chắc và an toàn trong kinh doanh, đồng thời thu được lợi nhuận cao. Đối với chiến lược sản phẩm, công ty cần xác định rõ sản phẩm nào sẽ cung ứng ra thị trường nội địa, thị trường xuất khẩu...sản phẩm cần thiết phải cải tiến các chi tiết gì, cơ cấu chủng loại sản phẩm như thế nào... Đối với chiến lược giá cả: Công ty cần xác định đường lối chính sách định giá. Trên cơ sở tình hình chi phí và thị trường cụ thể, xác định nên các chiến lược định giá hoà vốn, chiến lược sử dụng giá để cạnh tranh... Đối với chiến lược phân phối: Công ty cần tổ chức hệ thống phân phối sao cho đạt hiệu quả cao nhất, trong đó xác định các kênh phân phối, người trung gian, các hệ thống cơ sở vật chất để thực hiện chức năng phân phối hàng hoá trên thị trường. Đối với chiến lược xúc tiển yểm trợ: Công ty cần tiến hành các hoạt động xúc tiến bán hàng, thông tin quảng cáo, thiết lập khách hàng... Cụ thể hơn cần phải thực hiện: Mở rộng các đại lý bán hàng, hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm trên khắp đất nước, đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh...Điều này không chỉ đem sản phẩm đến tay người tiêu dùng ở khắp nơi trong nước, mà còn cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của công ty trong việc phổ biến sản phẩm ra công chúng. Một điều nữa, tuy nhỏ nhưng không phải là không có tác dụng: ngày nay, hoạt động du lịch đang rất phát triển, khách nước ngoài biết đến Việt Nam nhiều hơn. Họ đến Việt Nam để tham quan, và còn để giao lưu văn hoá. Một du khách người Nhật đã nói rằng: đến Việt Nam không thể không may một chiếc áo dài, hay mua một vài đôi dép san-dan, vì nó rất rẻ. Như vậy rõ ràng là tuy chưa phải độc đáo, nhưng giầy dép Việt Nam vẫn mang đến cho khách hàng một sự lựa chọn. Vậy tại sao chúng ta lại không lưu tâm đến điều này? Tham dự các hội chợ, triển lãm trên ở tỉnh lớn (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh...) như: triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao, hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ xuân...Đây là con đường ngắn nhất để đưa sản phẩm tiếp cận với khách hàng, và qua đó có thể thu thập các ý kiến, phản ứng của khách hàng về sản phẩm của công ty. Các hoạt động này ngày càng thu hút được sự chú ý không chỉ của các công ty, giới kinh doanh, mà còn thu hút đông đảo khách hàng. Qua những hoạt động này, công ty có thể có được những đơn đặt hàng mới, khách hàng mới, tìm hiểu thị hiếu tiêu dùng mới, đưa thương hiệu sản phẩm gần hơn với người tiêu dùng...Rõ ràng công ty sẽ có được những cái lợi không chỉ đo bằng tiền, mà là hiệu quả lâu dài Chiến lược tiếp thị, khuyến mại, khuyến mãi đặc biệt đối với khách hàng, các đại lý nhằm thu hút sự quan tâm của họ đối với sản phẩm của công ty, và khuyến khích các đại lý hoạt động hiệu quả hơn. Đây là những hoạt động không thể thiếu trong cơ chế hoạt động mới như hiện nay. Người tiêu dùng đã quen với các chương trình khuyến mại của các công ty dưới rất nhiều hình thức hấp dẫn. Và theo tâm lý chung, họ sẽ lựa chọn sản phẩm nào có các hình thức khuyến mại hấp dẫn. Đẩy mạnh công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài, báo chí, pa-nô, áp phích, các băng rôn, khẩu hiệu..., trong tình hình nay, khi tài chính chưa cho phép công ty tiến hành quảng cáo trên truyền hình thì vẫn có các phương tiện quảng cáo khác rẻ mà lại hiệu quả để công ty lựa chọn. Thực hiện biện pháp này không chỉ một sớm chiều có thể làm được và phát huy ngay tác dụng, do đó, công ty cần xây dựng chiến lược lâu dài, phù hợp với tình hình cụ thể của công ty trong từng giai đoạn. Một điều quan trọng nữa là việc thực hiện nó đòi hỏi một khoản chi phí rất lớn, hơn nữa, điều này có thể làm giá thành sản phẩm tăng lên, công ty cần có kế hoạch xây dựng ngân sách ngay từ bây giờ. 3.2.4/Biện pháp thứ tư: Đẩy mạnh chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang phương thức mua bán trực tiếp. Đây không chỉ là cách thức làm ăn phù hợp với đường lối phát triển chung của ngành giầy da, mà còn đảm bảo cho công ty có thể phát triển và bền vững trong tiến trình hội nhập. Từ trước đến nay, công ty chỉ chủ yếu thực hiện gia công cho phía nước ngoài, thực hiện xuất khẩu qua trung gian. Đều này đã khiến công ty gặp không ít khó khăn ví như tình trạng ép giá, không chủ động đàm phán trong việc xây dựng chính sách giá...Vì thế, để có thể tiếp tục phát triển cao hơn, công ty không thể không thực hiện chuyển đổi phương thức làm ăn, và các giải pháp cụ thể cho vấn đề này là: Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển thị trường. Tuy rằng công ty thực hiện gia công xuất khẩu là chủ yếu, song khi thực hiện mua bán trực tiếp, mọi việc vẫn còn là thách thức, khó khăn không dễ vượt qua. Thị trường quốc tế ngày càng đòi hỏi gay gắt hơn các vấn đề về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn an toàn môi trường, và thị hiếu luôn thay đổi. Vì vậy, công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài vẫn là một điều không thể thiếu. Tuy nhiên, công ty có một lợi thế là uy tín và chất lượng sản phẩm, hơn nữa còn được cấp chứng chỉ ISO 9001 phiên bản 2000 nên sẽ là một bước thuận lợi trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài. Làm tốt công tác này sẽ giúp công ty dễ dàng tiếp mở rộng trường nước ngoài và đưa sản phẩm tiêu thụ rộng rãi hơn Thứ hai: Thực hiện tìm kiếm khách hàng mới bên cạnh việc duy trì quan hệ với các bạn hàng truyền thống. Khách hàng luôn là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp, có được nhiều khách hàng mới, các doanh nghiệp mới có thể tiêu thụ nhiều hơn khối lượng sản phẩm. Có thể nói “khách hàng là thượng đế”, “khách hàng là ân nhân”, do vậy, việc tìm kiếm khách hàng là rất quan trọng, doanh nghiệp không thể chờ đợi khách hàng tìm kiếm sản phẩm của mình, mà ngược lại, họ phải đưa sản phẩm của mình đến với khách hàng, cả khách hàng hiện thực và khách hàng tiềm năng (những người sẽ sử dụng sản phẩm của công ty trong tương lai). Để có được điều này, công ty cần thực hiện tốt các giải pháp sau: Mở các chi nhánh giao dịch, của hàng giới thiệu sản phẩm tại những nước công ty đang hoạt động và đạt sản lượng, doanh số bán cao, đồng thời tại các thị trường mà công ty đang hướng tới, ví dụ như Anh, Pháp, Nhật Bản, Đài Loan, và thị trường tiềm năng và mới mẻ: Mỹ. Cử các chuyên gia, thợ lành nghề sang học hỏi kinh nghiệm, cách thức vận hành, sản xuất các sản phẩm tiên tiến của nước bạn. Nâng cao trình độ quản lý cho các cán bộ chủ chốt của công ty để học hỏi cách thức hoạt động, điều hành công ty cho phù hợp với xu thế làm ăn mới. Tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế, từ đó đưa sản phẩm dần thâm nhập vào thị trường nước ngoài, để họ biết đến sản phẩm của công ty. Quảng cáo về sản phẩm trên các phương tiện truyền thông sao cho chi phí hợp lý mà hiệu quả cao. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, internet đã trở nên phổ biến thì việc biến nó thành một công cụ quảng bá sản phẩm sẽ rất hữu hiệu, hơn nữa, chi phí lại rẻ. Để có thể thực hiên được giải pháp này, công ty cần có kế hoạch lâu dài. Trước mắt, công ty cần giữ vững nhịp độ sản xuất - tiêu thụ như hiện nay, đồng thời cần chú trọng lựa chọn các mặt hàng chiến lược, tạo uy tín trong ngoài nước, tập trung thiết kế, chế thử mẫu mã để có thể chủ động chào hàng và tự tổ chức sản xuất, tiêu thụ mà không phụ thuộc vào phía nước ngoài. Có thể nói, việc chuyển đổi phương thức hoạt động mới đòi hỏi sự nỗ lực và đoàn kết của toàn bộ công ty, đặc biệt là ban lãnh đạo công ty. Không chỉ vậy, còn cần đến sự quan tâm, hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua các chính sách, cơ chế điều hành...nhưng trước hết vẫn là chủ quan từ phía công ty. Do vậy, không còn cách nào khác, công ty phải xây dựng một chiến lược hoàn chỉnh, đồng bộ ngay từ bây giờ. Làm được điều này sẽ giúp cho công ty có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và nước ngoài, đồng thời phát triển bền vững, lâu dài. 3.2.5/Biện pháp thứ năm: Tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận theo hướng chuyển đổi loại hình doanh nghiệp. Với chủ chương của Đảng và Nhà nước sẽ tiến hành cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá thường có hướng làm ăn hiệu quả hơn, vì lúc đó quyền lợi trở nên “sát sườn” đối với người lao động – những người chủ của công ty. Do vậy, họ toàn tâm toàn ý cống hiến hết mình vì công ty và cũng chính là vì bản thân họ. Như vậy, trong thời gian tới, công ty nên có kế hoạch cổ phần hoá công ty. Điều này là phù hợp với thời cuộc mới của xã hội. Trên đây là một số ý kiến đề xuất của cá nhân tác giả về một số phương hướng và biện pháp gia tăng lợi nhuận để công ty tham khảo nhằm nâng cao lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động trong những năm tới. Do năng lực còn hạn chế nên rất mong nhận được sự phê bình, góp ý của các cô chú, các anh chị trong công ty. Kết luận Trong thời gian thực tập tại Công ty Giầy Ngọc Hà, được tiếp xúc với thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, qua tìm hiểu nghiên cứu về tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty trong năm qua, nhận thấy tình hình hoạt động kinh doanh của công ty là ổn định và khá tốt, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần nhanh chóng tháo gỡ để đưa công ty hoạt động tốt hơn, qua đó, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp chủ yếu với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận của công ty trong thời gian tới. Do trình độ và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các Thầy, Cô giáo trong bộ môn cùng các cô chú trong công ty. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn Cô giáo Tiến Sĩ Lưu Thị Hương, cùng các Thầy cô giáo trong bộ môn Tài chính doanh nghiệp, cảm ơn Ban lãnh đạo công ty cũng như các cô chú trong, anh chị trong phòng Tài chính – kế toán ...đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo Cẩm nang Quản trị tài chính doanh nghiệp- Arthur Young- Nhà xuất bản tổng hợp An Giang-1989 2.Luật doanh nghiệp-Nhà xuất bản chính trị quốc gia-1999 3.Phân tích hoạt động kinh tế– Trường Đại học tài chính kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản tài chính-1997 4.Quản trị Tài chính doanh nghiệp- Trường Đại học Tài chính- Kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản tài chính-2000 5. Giáo trình Kế toán tài chính- Trường Đại học Tài chính- Kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản Tài chính- 1999 6.Giáo trình Marketing- Trường Đại học Tài chính- Kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản Tài chính- 1996 7.Các tạp chí tài chính- Nhà xuất bản tài chính 8. Luận văn tốt nghiệp các khoá trước. Mục lục Chương I : Những lí luận chung về Lợi nhuận của doanh nghiệp 2 1.1 Vai trò lợi nhuận đối với doanh nghiệp 2 1.1.1 Hoạt động cơ bản của Doanh ngghiệp 2 1.1.2 VàI trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp 6 1.2 Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp 10 1.2.1 Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh 10 1.2.2 Lợi nhuận từ hoạt động tàichính 11 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận 12 1.3.1 Nhân tố khối lượng sản phẩm tiêu thụ 13 1.3.2 Nhân tố giá cả 15 1.3.3 Nhân tố giá thành 16 1.3.4 Chi phí ngoàI sản xuất 17 1.3.5 Nhân tố thuế 17 1.4 Các giải pháp chủ yếu tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay 18 1.4.1 Tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm 19 1.4.2 Hạ giá thành sản phẩm 23 1.4.3 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 26 Chương II : Thực trạng lợi nhuận của công ty Giầy Ngọc Hà 28 2.1 KháI quát tình hình hoạt động của công ty 28 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty 28 2.1.2 Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban 30 2.1.3 Đặc đIểm và hoạt động kinh doanh của Công ty 34 2.2 Một số kết quả đạt được trong thời gian qua 38 2.3 Thực trạng lợi nhuận tạI Công ty Giầy Ngọc Hà 42 2.4 Đánh giá về tình hình hoạt động của công ty 50 Chương III : Các giảI pháp nhằm tăng lợi nhuận ở công ty giầy ngọc hà 55 3.1 Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới 55 3.2 Các giải pháp tăng lợi nhuận của công ty giầy ngọc hà 56 3.2.1 Tăng cường đầu tư đổi mới kết hợp sửa chữa máy móc thiết bị 56 3.2.2 Nângcao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 58 3.2.3 Nângcao và giữ vững thị trường tiêu thụ nội địa, bên cạnh việc duy trì thị trường nước ngoài. 60 3.2.4 Đẩy mạnh chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang phương thức mua bán trực tiếp. 66 3.2.5 Tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận theo hướng chuyển đổiloạI hình doanh nghiệp 68

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28630.doc
Tài liệu liên quan