Quảng cáo ngoài trời đã phát triển khá sớm tại thị Việt Nam nhưng cho đến những năm gần đây nó mới thực sự “nở rộ” và đang trở thành một công cụ quảng cáo đắc lực cho các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay go như hiện nay. Do vậy nó càng ngày càng được trọng dụng trong chiến lược quảng cáo của các doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp nhỏ. Điều này lại tác động ngược lại vào thị trường quảng cáo ngoài trời, làm cho thị trường này thêm sôi động và từ đó có động lực phát triển hơn nữa và đem lại nhiều hứa hẹn về những khoản lời lớn đối với các doanh nghiệp quảng cáo ngoài trời. Tuy nhiên, để loại hình quảng cáo này có cơ hội phát triển lành mạnh và cái nhìn thiện cảm từ công chúng thì Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ và các doanh nghiệp quảng cáo thì phải thực hiện đúng những qui định do Nhà nước đưa ra.
74 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1773 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các giải pháp Marketing trong hoạt động kinh doanh dịch vụ Quảng cáo ngoài trời tại công ty Thương mại và Mỹ thuật Hà Thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong nước nắm giữ, chẳng hạn như Công ty Goldsun, Công ty quảng cáo và hội chợ thương mại Vinaxad, Công ty quảng cáo trẻ, Công ty quảng cáo Bình Minh, Công ty quảng cáo Thái Dương, Công ty quảng cáo AE, Công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái… Mỗi công ty đều có những mặt mạnh riêng và chiếm một vị thế nhất định trên thị trường quảng cáo. Như Công ty quảng cáo và hội chợ thương mại Vinaxad chiếm phần lớn thị phần về tổ chức hội trợ triển lãm, còn Công ty quảng cáo AE được coi là một trong những nhà quảng cáo ngoài trời chuyên nghiệp lớn nhất ở Việt Nam. Nhưng nhìn chung ở Việt Nam, thị trường quảng cáo ngoài trời không hoàn toàn nằm trong tay một nhà quảng cáo nào mà trải đều cho các công ty và mỗi một công ty lại chiếm một góc thị trường nhất định, chẳng hạn như Goldsun mạnh về quảng cáo tấm lớn tại các tuyến đường cao tốc, trong khi đó Golden Eye lại nắm hầu như hoàn toàn các biển tấm lớn trong các sân bay, Hà Thái và Bình Minh chia nhau các biển quảng cáo nằm trong khu vực nội thành.
Mặc dù không thể có thể đánh giá một cách chính xác và cụ thể vị trí của Hà Thái so với các công ty khác trên thị trường quảng cáo ngoài trời, nhưng bảng đáng giá năng lực cạnh tranh sau đây là đánh giá chung về 3 đối thủ mà Hà Thái cho là đối thủ cạnh tranh chính, sử dụng thang điểm từ 1-5 với 1 là thấp nhất và 5 là cao nhất:
Bảng 16: Đánh giá năng lực cạnh tranh của Hà Thái
Các doanh nghiệp
Năng lực công nghệ sản xuất
Năng lực phát triển các mối quan hệ
Vốn
Kinh nghiệm kinh doanh trong ngành
Vinaxad
3
5
4
5
Goldsun
2
4
4
4
Thiện Mỹ
5
3
3
3
Hà Thái
2
4
4
4
(Nguồn: Phó Giám đốc Phạm Văn Anh)
Qua bảng đánh giá trên khi so sánh với 3 đối thủ là Vinaxad, Goldsun và Thiện Mỹ thì có thể thấy rằng Hà Thái ở một vị thế có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Hà Thái khi so sánh với 3 công ty ở trên thì về năng lực công nghệ sản xuất thì Hà Thái là yếu kém nhất. Nhận định được điều này nên năm 2002 Hà Thái đã bán xưởng và trở thành một công ty mang đậm tính trung gian thương mại, tức là chỉ tìm kiếm khách hàng, thiết kế theo yêu cầu của họ, nhưng sau đó thì Hà Thái lại đi thuê một công ty khác để sản xuất biển bảng theo thiết kế và Hà Thái làm tiếp khâu cuối cùng là chuyển giao lại “sản phẩm” hoàn chỉnh cho khách hàng. Do vậy, sự yếu kém này của Hà Thái đã được khắc phục.
Khi so sánh tới năng lực phát triển các mối quan hệ và kinh nghiệm kinh doanh trong ngành quảng cáo ngoài trời thì ta thấy rằng Hà Thái không hề thua kém với các đối thủ cạnh tranh trong ngành, đặc biệt là ba công ty kể trên. Do công ty có đội ngũ nhân viên kinh doanh năng động và năng lực làm việc tốt nên số khách hàng cũng như sự phát triển mối quan hệ của Hà Thái ngày càng tăng. Ngoài ra, sự thành công của Hà Thái trên những hợp đồng với các khách hàng là những công ty lớn phần nào cũng tạo cho Hà Thái có những uy tín nhất định trên thị trường quảng cáo và do đó lại giúp việc tạo dựng những mối quan hệ kinh doanh của Hà Thái dễ dàng hơn.
III. Thực trạng hoạt động Marketing của công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái
1. Thực trạng về lựa chọn thị trường mục tiêu của Công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái.
Để phân đoạn thị trường quảng cáo thì dựa trên các tiêu thức phân đoạn là: Tính chất sản xuất hay thương mại của doanh nghiệp khách hàng, tính chất của sản phẩm do doanh nghiệp khách hàng sản xuất (tính chất sản phẩm ảnh hưởng đến những yếu tố về địa điểm đặt biển, thông điệp quảng cáo…) ra và qui mô kinh doanh của doanh nghiệp khách hàng (qui mô của khách hàng phần nào cho biết ngân sách của khách hàng đó dành cho quảng cáo là bao nhiêu, trong đó quảng cáo cho phương tiện ngoài trời là bao nhiêu…). Các tiêu thức đó chia thị trường quảng cáo ngoài trời thành những nhóm khách hàng có qui mô, tính chất sản phẩm hay tính chất kinh doanh khác nhau. Và từ đó các doanh nghiệp dựa trên khả năng và nguồn lực cho phép để chọn ra đoạn thị trường mục tiêu cho mình. Hà Thái cũng vậy, Hà Thái cũng tự chọn một nhóm khách hàng làm cái đích tiếp cận cho mình, đó là những doanh nghiệp có qui mô lớn và ngân sách dành cho quảng cáo lớn. Bởi Hà Thái tự nhận thấy khả năng thiết kế và triển khai cũng là một thế mạnh của Hà Thái, cho phép Hà Thái đáp ứng được những yêu cầu của những khách hàng lớn và khó tính.
Tuy nhiên, đó là sự lựa chọn trên lý thuyết còn trên thực tế thì khách hàng mục tiêu của Hà Thái là bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào có nhu cầu về biển bảng tấm lớn, nhỏ, biển hiệu…miễn là họ có thể đem lại lợi nhuận cho công ty. Đây là một điều khá hiển nhiên, bởi mọi doanh nghiệp đều mong muốn thu được lợi nhuận cao nhất.
2.Thực trạng về xây dựng chiến lược Marketing, kế hoạch Marketing của công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái.
Công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái là một công ty có qui mô nhỏ và số nhân viên không nhiều, nên có lẽ vì thế mà Hà Thái không xây dựng những chiến lược hay kế hoạch Marketing cho mình một cách rõ ràng và cụ thể , điều này khiến Hà Thái khó có thể trở thành một công ty chuyên nghiệp được. Bởi những hoạt động của Hà Thái đều được thực hiện một cách “ngẫu hứng”, thiếu định hướng và kế hoạch, do vậy đôi khi không đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện. Hơn nữa, thiếu kế hoạch và chiến lược khiến cho Hà Thái dễ bị rối loạn trong hoạt động, khó quản lý và khó đánh giá được tình hình công ty.
3.Thực trạng về xây dựng hệ thống Markeing mix của công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái.
Hệ thống Marketing mix chủ yếu quan tâm đến 4 yếu tố, đó là sản phẩm – giá – phân phối và xúc tiến hỗn hợp. Như nói ở phần trên thì công ty Hà Thái không có những chiến lược và kế hoạch Marketing một cách cụ thể và rõ rang. Cũng như vậy, hệ thống Marketing của Hà Thái cũng đơn thuần là các hoạt động thuần túy, phản ứng lại với thị trường chứ không hề có kế hoạch và thiết kế một cách cẩn thận trước đó.
Trước tiên, xét về sản phẩm. Hà Thái là một công ty mang tính chất thương mại và ít tính chất sản xuất. Hoạt động sản xuất của Hà Thái là hoạt động đi thuê một công ty, hay tổ chức khác thực hiện. Hà Thái chỉ tham gia thiết kế Maket đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Ở đây có thể xét sản phẩm của Hà Thái dưới góc độ này. Đối với bất kỳ một công ty dịch vụ, đặc biệt là về dịch vụ quảng cáo ngoài trời thì đây là một yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống Marketing của công ty, đồng thời quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Bởi vì đối với dịch vụ quảng cáo thì yếu tố sản phẩm mang đậm tính nghệ thuật, mỗi một sản phẩm cũng giống như một tác phẩm nghệ thuật. Lại lần nữa lấy ví dụ về việc các công ty nước ngoài sẵn sàng chi 3000-5000 USD để có được một tấm hình vừa ý do các chuyên gia thiết kế và dàn dựng. Hơn nữa, yêu cầu quan trọng mà một biển quảng cáo tấm lớn phải có đó là phải gây được ấn tượng và sự yêu thích của công chúng. Do vậy một tấm biển đẹp có nghệ thuật và ấn tượng thì khách hàng sẵn sang chi tiền và không ngại ngần về giá cả. Đồng thời những biển quảng cáo đẹp đó còn mang lại danh tiếng và sự yêu thích, tin cậy của những doanh nghiệp thuê quảng cáo khác, mặc dù họ không là khách hàng của công ty, nhưng lại có thể là những khách hàng tiềm năng của công ty. Tuy nhiên, Hà Thái hiện tại mới chỉ hoạt động mạnh ở mặt hàng là biển hiệu tại các cửa hàng, còn biển tấm lớn bên đường thì chưa nhiều nên sản phẩm của Hà Thái không yêu cầu tính sang tạo nhiều. Thay vào đó, sản phẩm của Hà Thái đặc biệt coi trọng đến sự thoả mãn yêu cầu của khách hàng và những qui chuẩn về những thông tin trên biển bảng như logo công ty phải chuẩn xác theo những tỉ lệ nhất định, màu sắc logo không sai đến một gam màu…Tóm lại, đây là công cụ quan trọng nhất trong hệ thống Marketing mix của Hà Thái, nhưng sản phẩm của Hà Thái mới chỉ dừng đến sự đảm bảo những yêu cầu của khách hàng về mặt kỹ thuật, hình thể chứ chưa có nhiều yếu tố sáng tạo nghệ thuật.
Thứ hai là về giá cả. Giá cả là một yếu tố có thể giúp doanh nghiệp cạnh tranh trong những ngành sản xuất hàng tiêu dùng, đặc biệt là những sản phẩm tiêu dùng cấp thấp hay các dịch vụ khác nhưng nó lại không phải là một yếu tố hữu dụng đối với dịch vụ quảng cáo ngoài trời. Trong phần phân tích về sản phẩm ở trên thì sản phẩm của ngành dịch vụ này là một tác phẩm nghệ thuật. Mà một tác phẩm nghệ thuật thì vô giá và không thể so sánh giữa giá trị thực và giá trị mà nó mang lại. Do vậy yếu tố giá là một yếu tố mà khách hàng ít quan tâm nhất khi xem xét lựa chọn một công ty quảng cáo, nên đây không phải là một công cụ cạnh tranh và các doanh nghiệp quảng cáo ngoài trời cũng không lựa chọn giá làm công cụ để tạo vị thế cạnh tranh cho mình. Hà Thái cũng vậy. Nhận thức được vấn đề trên nên Hà Thái cũng không quá chú trọng về giá hay đặt một mức giá thấp khi đề cập với khách hàng để giành hợp đồng quảng cáo. Giá của sản phẩm mà Hà Thái đưa ra được dựa trên yêu cầu về thiết kế và diện tích biển bảng. Tuy nhiên, đối với những sản phẩm là biển, bảng đặt ở cửa hàng thì tính sáng tạo của nó không nhiều, do vậy giá cả được tính trên đơn vị cm2 và đôi khi trong trường hợp khách hàng là những doanh nghiệp nhỏ hoặc quá quan tâm về giá thì Hà Thái cũng có thể chọn giá cả làm yếu tố để tạo lợi thế cạnh tranh cho mình.
Thứ ba, về vấn đề phân phối. Sản phẩm của lĩnh vực quảng cáo ngoài trời đều là những sản phẩm được làm theo đơn đặt hàng, sản phẩm đơn chiếc, tức là mỗi sản phẩm có những đặc điểm khác nhau và mỗi một khách hàng lại có những yêu cầu về sản phẩm khác nhau, vì thế, không thể sản xuất sản phẩm trước rồi lưu kho hay giao cho các đại lý hay các nhà trung gian để họ phân phối sản phẩm. Hơn nữa, đây còn là một ngành dịch vụ nên các sản phẩm cũng không thể sử dụng những kênh phân phối có các cấp trung gian để đưa sản phẩm tới khách hàng cuối cùng, đặc biệt là ngành quảng cáo. Chính vì vậy, hình thức phân phối trực tiếp là hình thức mà mọi công ty quảng cáo áp dụng. Và Hà Thái cũng không phải là một ngoại lệ. Hình thức phân phối trực tiếp là hình thức đơn giản và là con đường ngắn nhất từ công ty đến khách hàng. Có thể thấy qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 17 – Hình thức phân phối trực tiếp trong quảng cáo ngoài trời:
Công ty quảng cáo Hà Thái (nhân viên kinh doanh)
Khách hàng (Công ty thuê quảng cáo)
Trong sơ đồ trên thì ngầm hiểu rằng người thực hiện việc phân phối ở đây là các nhân viên kinh doanh. Ở công ty Hà Thái, mỗi nhân viên kinh doanh phụ trách một nhóm khách hàng riêng của họ. Và họ phải chịu trách nhiệm chăm sóc khách hàng trong suốt quá trình làm việc với khách hàng cho đến khi hoàn tất hợp đồng. Và đây cũng chính là hình thức phân phối của mọi công ty quảng cáo. Để đánh giá hiệu quả của hoạt động này chỉ có thể đánh giá qua hiệu quả làm việc của các nhân viên kinh doanh, việc hoàn tất và chuyển giao “sản phẩm” theo đúng ngày giờ giao hẹn. Nếu xét trên những chỉ tiêu trên thì có thể đánh giá hệ thống phân phối của Hà Thái là khá tốt, bởi việc chuyển giao biển, bảng cho khách hàng luôn được đảm bảo đúng thời hạn. Việc lắp đặt biển bảng cũng được thực hiện một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng để bảo đảm mức độ an toàn cho khách hàng.
Cuối cùng, xét về các hoạt động xúc tiến hỗn hợp mà Hà Thái thực hiện để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, bao gồm Marketing trực tiếp và tham gia các triển lãm thương mại và hội thảo. Biển, bảng quảng cáo là một loại sản phẩm đặc thù, nó không giống như những sản phẩm và dịch vụ khác, do vậy những hoạt động xúc tiễn hỗn hợp của nó không thể tổ chức như mua 2 tặng 1, gửi hàng mẫu… vì vậy sự lựa chọn hai công cụ như trên là hoàn toàn hợp lý. Công cụ Marketing trực tiếp mà Hà Thái sử dụng đó là là Marketing trực tiếp bằng catalog. Catalog này cũng tương tự như những profile, đó là những thông tin khái quát nhất về Hà Thái, nó bao gồm ngành, lĩnh vực kinh doanh của Hà Thái, lịch sử thành lập, những khách hàng chính hiện tại của doanh nghiệp và những hình ảnh của những biển, bảng mà Hà Thái đã thực hiện… Các profile này được Hà Thái gửi các khách hàng tiềm năng và trước khi những nhân viên kinh doanh của Hà Thái tiếp xúc với họ. Bên cạnh đó, Hà Thái cũng thường xuyên tham gia những hội chợ, hội thảo hay triển lãm thương mại để tạo sự biết đến với các doanh nghiệp khác. Đó cũng là một hình thức hữu ích giúp khách hàng và Hà Thái có thể tìm đến với nhau. Tuy nhiên, các hoạt động xúc tiến khác như quảng cáo thì Hà Thái lại ít quan tâm đến, đây chính là một thiếu xót và nhược điểm mà Hà Thái gặp phải.
Nhìn chung hoạt động Marketing của công ty Hà Thái còn chưa được coi trọng đúng mực, còn rất nhiều nhược điểm cần phải khắc phục thì mới có thể đạt hiệu quả cao hơn như việc lựa chọn thị trường mục tiêu chưa rõ ràng, các chiến Marketing, kế hoạch Marketing chưa được xây dựng và vạch ra đứng đắn và thực sự, hệ thống Marketing mix cũng còn nhiều thiếu xót. Mặt khác thì Hà Thái cũng có những ưu điểm mà cần phải phát huy, đó là sản phẩm bảo đảm đáp ứng yêu cầu của khách hàng, việc phân phối được thực hiện theo đúng tiến độ và các hoạt động xúc tiến như Marketing trực tiếp và việc tham gia các triển lãm thương mại cũng được Hà Thái sử dụng hiệu quả.
Chương III
Hoàn thiện những giải pháp Marketing của
Công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái
Hoàn thiện quá trình nghiên cứu thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu; xây dựng chiến lược Marketing
Hoàn thiện quá trình nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu:
a, Hoàn thiện và thực hiện quá trình nghiên cứu thị trường:
Muốn quảng cáo hiệu quả thì phải nghiên cứu thị trường, song việc nghiên cứu thị trường của các công ty quảng cáo khác với sự nghiên cứu của các công ty thuê quảng cáo, nó cần thực hiện 3 nhiệm vụ sau:
Nắm được tình hình các đối thủ cạnh tranh xem họ thực hiện chiến lược Marketing như thế nào, đặc điểm khách hàng của họ, sản phẩm của họ… để từ đó công ty có thể điều chỉnh chiến lược cạnh tranh với họ.
Nắm được những thông tin về đối tượng nhận tin của những khách hàng hiện có và những khách hàng tiềm năng để có thể đề ra những phương án khả thi và thuyết phục được khách hàng. Ví dụ như khách hàng mà công ty hướng tới là những sản phẩm tiêu dung cho trẻ em, dựa trên đặc điểm đó công ty có thể có những nghiên cứu về những địa điểm nào có thể gây chú ý của những khách hàng nhỏ này, như các địa điểm gần trường học chẳng hạn, ngoài ra còn cần nghiên cứu những yếu tố gây chú ý với trẻ em là những yếu tố nào (như màu sắc, hình ảnh vui nhộn…)…
Nắm rõ được thị trường nhân viên của công ty mình, bao gồm những vấn đề về khả năng, sự yêu thích công việc và sự thỏa mãn của họ về những chính sách, chế độ tiền lương của công ty đối với họ. Biết được những mặt mạnh và mặt yếu để có thể phát huy hay khắc phục và lựa chọn những nhóm khách hàng phù hợp.
Sau khi nghiên cứu thị trường thì công ty mới đủ thông tin để có thể lựa chọn thị trường mục tiêu và chiến lược phát triển cho mình. Nhưng công việc này đòi hỏi một nguồn chi phí lớn, do vậy với những công ty nhỏ như Hà Thái thì việc nghiên cứu này khó có thể thực hiện được. Tuy vậy, Hà Thái có thể nghiên cứu dựa trên nhứng thông tin thứ cấp hay tiến hành với qui mô nhỏ.
b, Lựa chọn thị trường mục tiêu:
Có bốn tiêu thức chính giúp các doanh nghiệp quảng cáo phân đoạn thị trường của mình, đó là tính chất sản xuất hay thương mại của khách hàng; tính chất là tư liệu sản xuất hay tiêu dung của sản phẩm mà khách hàng bán ra thị trường; qui mô kinh doanh của doanh nghiệp và khu vực địa lý. Dựa theo những tiêu thức đó mà thị trường quảng cáo ngoài trời được phân đoạn thành những đoạn khác nhau như sau:
- Với tiêu thức là tính chất sản xuất hay thương mại của khách hàng. Đây là một tiêu thức rất cần thiết để phân đoạn thị trường quảng cáo ngoài trời tính chất này ảnh hưởng đến nhu cầu quảng cáo của khách hàng. Khách hàng mang tính chất thương mại có nhu cầu về quảng cáo nhiều hơn so với các doanh nghiệp có tính chất sản xuất. Đó là bởi vì những doanh nghiệp có tính chất thương mại, do nghiệp vụ của họ là buôn và bán với đối tượng khách hàng mục tiêu là người tiêu dùng do vậy mọi hoạt động xúc tiến của các công ty này chủ yếu là nhằm gây sự chú ý, biết đến và yêu thích thương hiệu… và quảng cáo, đặc biệt là quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng hay nơi công cộng luôn là một công cụ hiệu quả và quan trọng trong hoạt động Marketing của doanh nghiệp thương mại. Chính vì thế nhu cầu về quảng cáo ngoài trời của các doanh nghiệp thương mại luôn luôn lớn. Điều đó lại đối lập với doanh nghiệp sản xuất. Doanh nghiệp có tính chất sản xuất thì hoạt động của họ lại là sản xuất và khách hàng hướng tới của họ lại là những tổ chức như các nhà trung gian, đại lý, các doanh nghiệp thương mại… Do đó, hoạt động quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng lại không phải là lựa chọn của các nhà sản xuất này vị hiệu quả quảng cáo của nó không cao. Vì vậy nhu cầu quảng cáo ngoài trời trong loại hình doanh nghiệp này thường rất ít. Sự khác nhau về qui mô nhu cầu của các doanh nghiệp có tính chất thương mại và sản xuất đã phân chia thị trường thành hai phân đoạn thị trường chính đó là nhóm những doanh nghiệp có tính chất thương mại (có nhu cầu lớn về quảng cáo ngoài trời) và nhóm những doanh nghiệp có tính chất sản xuất (có nhu cầu ít).
- Tiêu thức tính chất tư liệu sản xuất hay tiêu dùng của sản phẩm mà khách hàng bán ra trên thị trường. Đây cũng là một tiêu thức quan trọng giúp các doanh nghiệp phân đoạn hợp lý và lựa chọn đoạn thị trường phù hợp. Tính chất này được chọn làm tiêu thức phân đoạn vì nó cũng dẫn tới sự khác nhau về khách hàng mục tiêu của các doanh nghiệp khách hàng. Khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp sản xuất/bán sản phẩm có tính chất tiêu dùng chủ yếu là công chúng, là người tiêu dùng cuối cùng nên quảng cáo ngoài trời được đẩy mạnh với các địa điểm công cộng, nơi tập trung nhiều dân cư và đông người qua lại như các nút giao thông quan trọng trong trung tâm thành phố… Trong khi đó, các doanh nghiệp có sản phẩm bán ra thị trường là các tư liệu sản xuất thì khách hàng của họ là những tổ chức, những doanh nghiệp sản xuất khác, do vậy hoạt động quảng cáo ngoài trời của họ lại quan tâm tới các vị trí gần các điểm, khu sản xuất, xí nghiệp… như các đường cao tốc, các khu ngoại thành… Vị trí đặt biển khác nhau mà các doanh nghiệp này quan tâm tới là hướng phân đoạn thị trường của các công ty quảng cáo dựa trên tiêu thức này. Như vậy, thị trường sẽ được chia thành hai đoạn thị trường bao gồm đoạn thị trường những doanh nghiệp cung ứng tư liệu sản xuất và đoạn thị trường những doanh nghiệp cung ứng tư liệu tiêu dùng.
- Tiêu thức qui mô kinh doanh của doanh nghiệp. Qui mô kinh doanh của doanh nghiệp khách hàng sẽ ảnh hưởng và quyết định đến ngân sách dành cho quảng cáo của mỗi doanh nghiệp. Nó cũng ảnh hưởng đến những yêu cầu về mỹ thuật của biển bảng. Đây là một tiêu thức phân đoạn thị trường rõ rệt nhất, nó phân chia thị trường quảng cáo thành hai đoạn rõ nét, đó là đoạn thị trường những doanh nghiệp có qui mô kinh doanh nhỏ và đoạn thị trường những doanh nghiệp có qui mô kinh doanh lớn và vừa. Doanh nghiệp có qui mô kinh doanh nhỏ, chủ yếu là những cửa hàng tư nhân thường có nhu cầu với những sản phẩm biển bảng các loại đặt ở cửa hàng. Đoạn thị trường này khá rộng nhưng đem lại doanh thu không lớn và sản phẩm cho đoạn thị trường này rất đơn giản. Còn đoạn thị trường thứ hai thì về qui mô lại không lớn lắm nhưng doanh thu từ đoạn thị trường này lại rất lớn và sản phẩm thì lại rất phong phú, đa dạng và sự sáng tạo thì không ngừng bao gồm những biển tấm lớn đủ loại chất liệu được đặt ở những vị trí “đẹp” ở những nơi công cộng.
- Tiêu thức: khu vực địa lý. Địa lý là một tiêu thức hầu như được lựa chọn để phân đoạn thị trường cho bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh nào của các doanh nghiệp. Bởi mỗi một khu vực địa lý sẽ có những nét văn hóa, những tập quán, qui định riêng, đồng thời, doanh nghiệp cũng có những thế mạnh và mặt hạn chế nhất định khi thâm nhập tới các khu vực địa lý khác nhau đó. Trong thị trường quảng cáo ngoài trời thì khu vực địa lý không chỉ ảnh hưởng đến sự thay đổi của những thông điệp quảng cáo trên các biển quảng cáo cho phù hợp với phong tục, tập quán và qui định của địa phương đó mà nó còn ảnh hưởng đến qui mô và nhu cầu quảng cáo. Đối với những địa phương ngoài các thành phố thì nhu cầu quảng cáo ở đây là rất thấp, các doanh nghiệp địa phương có qui mô nhỏ lẻ thường ít quan tâm đến quảng cáo và không hiểu hết vai trò của quảng cáo trong hoạt động kinh doanh của mình, do vậy nhu cầu quảng cáo ở đây chủ yếu xuất phát từ các doanh nghiệp lớn, có phạm vi hoạt động trên toàn quốc mà thôi. Với tiêu thức này, thị trường quảng cáo ngoài trời được chia thành ba đoạn thị trường là đoạn thị trường các thành phố lớn với thị trường quảng cáo ngoài trời nhộn nhịp như chính bản thân nó và đoạn thị trường những thành phố nhỏ, thị xã, thị trấn, cuối cùng là đoạn thị trường của những vùng sâu, vùng xa, miền núi…(thị trường này hầu như không có nhu cầu quảng cáo ngoài trời nên không một doanh nghiệp nào quan tâm đến đoạn thị trường này).
Từ những tiêu thức phân đoạn như trên thì thị trường quảng cáo ngoài trời có thể được phân đoạn thành những đoạn thị trường nhỏ với những đặc điểm và tiềm năng phát triển khác nhau. Để phù hợp với khả năng và hướng phát triển của Hà Thái trong thời gian tới thi Hà Thái nên lựa chọn những đoạn thị trường như sau:
- Dựa vào tính chất sản xuất hay thương mại thì thì Hà Thái nên chọn cả hai đoạn thị trường là những doanh nghiệp sản xuất và những doanh nghiệp thương mại, nhưng với khả năng và qui mô nhỏ của mình thì Hà Thái chỉ nên nhắm tới những doanh nghiệp sản xuất và thương mại loại nhỏ và vừa với dịch vụ cung ứng là các biển quảng cáo loại vừa và nhỏ đặt cố định trong nội thị.
- Kết hợp với khả năng và nguồn vốn hiện có là những địa điểm “đẹp” để đặt biển trên cầu Chương Dương thì đoạn thị trường thứ hai là các đoạn thị trường bao gồm các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng tư liệu sản xuất, các tập đoàn sản xuất, cung ứng hàng tiêu dùng cỡ lớn như Thép, Xi măng, LG và nước ngọt COCACOLA … Sản phẩm mà Hà Thái cung ứng cho đoạn thị trường này là biển quảng cáo tấm lớn ngoài trời đặt ở các vị trí nhất định (như khu vực nội thị và dọc trục giao thông).
- Đoạn thị trường gồm các cửa hàng cửa hiệu tư nhân tuy doanh thu thu được từ đoạn thị trường này không cao nhưng nó lại có qui mô nhỏ và hiện tại thì dường như không có những doanh nghiệp chuyên môn như Hà Thái chiếm giữ, hơn nữa, dù doanh thu từ đoạn thị trường này không cao nhưng với Hà Thái cũng có thể coi là một khoản doanh thu lớn, đồng thời vốn cho các sản phẩm này không đòi hỏi lớn, do vậy rất phù hợp với qui mô hiên tại của Hà Thái. Từ những lý do như vậy thì đây là đoạn thị trường mà Hà Thái nên cố gắng tấn công để chiếm lĩnh trong thời gian trước mắt bằng các sản phẩm chủ đạo là biển quảng cáo đặt tại cửa hàng, nhưng đoạn thị trường những doanh nghiệp có qui mô lớn thì Hà Thái cũng không nên bỏ qua mà nên học hỏi thêm kinh nghiệm cũng như kỹ thuật, công nghệ hiện đại về hệ thống biển bảng tấm lớn để chuẩn bị xâm chiếm đoạn thị trường này về lâu dài.
- Về mặt địa lý thì hiện tại Hà Thái được coi là doanh nghiệp có thế mạnh trong nội thành Hà Nội, trong khi đó những khu vực khác như sân bay, đường cao tốc hầu như đa bị các đôi thủ chiếm giữ nên Hà Thái vẫn tiếp tục mở rộng thị phần của mình trong đoạn thị trường này. Bên cạnh đó, để tiến tới mở rộng thị trường trong dài hạn thì Hà Thái nên chú ý và lựa chọn đoạn thị trường các thành phố nhỏ, các thị xã, thị trấn. Hiện tại thì nhu cầu của đoạn thị trường này không cao, nhưng trong tương lai, nền kinh tế của đoạn thị trường này sẽ phát triển và dẫn tới nhu cầu về quảng cáo ngoài trời cũng tăng. Đây chính là đoạn thị trường mầu mỡ trong tương lai mà Hà Thái nên thâm nhập và tạo dựng mối quan hệ ngay từ bây giờ.
Xây dựng chiến lược Marketing, kế hoạch Marketing:
Như dự báo của các chuyên gia thì doanh thu của ngành quảng cáo năm 2020 có thể đạt con số 24.000 tỷ đồng thì có thể thấy tương lai sang lạn của ngành quảng cáo nói chung và là một tín hiệu mừng cho tất cả các công ty quảng cáo ngoài trời nói riêng, nhưng điều đó lại càng làm cho thị trường quảng cáo ngoài trời thêm cạnh tranh khốc liệt. Ngoài ra, sự phát triển của công nghệ làm cho khoảng cách về trình độ, kinh nghiệm của các công ty quảng cáo ngoài trời bị thu hẹt lại. Do vậy, để có thể phát triển và tồn tại hơn nữa trong tương lai thì Hà Thái phải có những kế hoạch và chiến lược cụ thể. Hiện nay, Hà Thái mới chỉ là một công ty nhỏ trên thị trường quảng cáo ngoài trời, thị phần còn ít, mới chỉ chiếm khoảng 3%, vì thế, theo tôi Hà Thái nên xây dựng một kế hoạch và chiến lược Marketing nhằm tăng uy tín và mở rộng thị trường để có thể đạt được một vị thế cao hơn trên thị trường và dần tiến vào tốp những công ty dẫn đầu trong ngành quảng cáo ngoài trời.
Xét trên thị trường này thì Hà Thái mới chỉ là công ty bám sau. Các công ty bám sau có hai hướng chiến lược, đó là: 1, tấn công người dẫn đầu thị trường và các đối thủ cạnh tranh khác trong cuộc chiến giành giật thị phần (những người thách thức thị trường); 2, hợp tác và không “khuấy đảo” (những người theo sau thị trường). Nhưng với mục đích của mình là mở rộng thị trường thì hướng đầu tiên là hướng mà công ty nên lựa chọn.
Về cơ bản thì một người thách thức thị trường thì có thể chọn cách tấn công theo ba loại sau, đó là:
Tấn công người dẫn đầu thị trường, mà ở đây có thể lấy ví dụ là công ty Đất Việt.
Tấn công những công ty cùng tầm cỡ với mình, không hoàn thành phận sự và thiếu vốn.
Tấn công nhữn công ty địa phương hay khu vực nhỏ, không hoàn thành phận sự và thiếu vốn.
Do hạn chế về vốn và nguồn nhân lực do vậy trong thời gian trước mắt thì Hà Thái không thể lựa chọn cách tấn công thứ nhất. Cách tấn công phù hợp với qui mô và nguồn lực của Hà Thái hiện tại là cách thứ ba, và trong dài hạn sẽ là cách tấn công thứ hai, khi mà Hà Thái đã có một vị trí nào đó trong thị trường quảng cáo ngoài trời.
Vậy Hà Thái sẽ tấn công như thế nào? Ngành sản phẩm chủ yếu và có thế mạnh của Hà Thái hiện tại là biển, bảng hiệu cửa hàng và sau đó là biển quảng cáo tấm lớn bên đường. Đây cũng là mặt hàng chủ yếu của những công ty địa phương hay những công ty có khu vực nhỏ hơn và họ thường đưa ra những mức giá thấp hơn so với các công ty khác để có thể thu hút những khách hàng có qui mô nhỏ. Mặc dù đây là một thị trường có lợi nhuận không cao nhưng nó chiếm một số đông, và trong tương lai nhóm khách hàng này còn phát triển mạnh. Do vậy, đây cũng là nhóm khách hàng mục tiêu, bên cạnh nhóm khách hàng là những công ty liên doanh với ngân sách dành cho quảng cáo lớn và nhu cầu lớn. Và để có thể tấn công những công ty này, Hà Thái cũng sử dụng chiêu thức là dung giá ngang bằng hoặc cao hơn một chút so với giá của các công ty đó nhưng sản phẩm có phần chuyên nghiệp và tốt hơn.
Bên cạnh việc giành thị phần của những công ty nhỏ hơn trong lĩnh vực biển hiệu thi Hà Thái cũng có chiến lược phát triển thị phần đối với sản phẩm là biển tấm lớn bên đường, bởi đây là lĩnh vực có doanh thu và lợi nhuận cao. Tuy nhiên, để có thể tham gia cạnh tranh trong lĩnh vực này thì Hà Thái cần phải quan tâm và phát triển hơn nữa bộ phận thiết kế của mình vì yếu tố giúp cạnh tranh ở đây chính là sự ấn tượng, nghệ thuật, còn giá cả không phải là một công cụ có tác dụng ở đây.
Hoàn thiện các biến số của hệ thống Marketing mix
Về sản phẩm:
a, Về chất lượng sản phẩm:
Qua phân tích ở các phân trên, ta thấy sản phẩm là một yếu tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển và khả năng cạnh tranh của bất kỳ một công ty quảng cáo ngoài trời nào, thậm chí là bất kỳ một công ty quảng cáo nào. Vì thế, nếu muốn phát triển hơn nữa thì Hà Thái phải đặc biệt quan tâm đến sản phẩm của mình, luôn phải đảm bảo sản phẩm đáp ứng đúng mọi yêu cầu của khách hàng đưa ra, đồng thời tiếp tục duy trì những tiêu chí về chất lượng sản phẩm đã đặt ra.
Bên cạnh đó, công ty cũng nên cập nhập những thông tin mới về công nghệ và sản phẩm, không những của thị trường trong nước mà còn ở trên thế giới để có thể đảm bảo cho sản phẩm của mình luôn bắt kịp thời đại và thu hút khách hàng hơn nữa. Như công ty có thể làm mới sản phẩm của mình bằng việc lắp đèn ở trong, hay ở trên, hoặc cũng có thể ở dưới, ánh đèn hắt lên sẽ tạo nên nét độc đáo và thu hút chú ý của khách hàng.
b, Về danh mục sản phẩm:
Sản phẩm chủ yếu của Hà Thái là các biển, bảng tấm lớn, tấm nhỏ đủ loại, ngoài ra có thêm một số dịch vụ như: thiết kế, dàn dựng showroom, thiết bị nội ngoại thất; sản xuất, thiết kế vật phẩm quảng cáo; in ấn ấn phẩm quảng cáo; tổ chức hội chợ, hội thảo, hội nghị chuyên đề… nhưng những lĩnh vực này thì chưa thực sự là những lĩnh vực đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đơn đặt hàng không lớn. Đó là nguyên nhân Hà Thái chưa thực sự quan tâm và phát huy. Những ngành nay hiện nay còn là những ngành còn mới mẻ, nhưng có khả năng phát triển và mở rộng trong tương lai. Vì vậy, Hà Thái nên nắm bắt và phát triển những lĩnh vực trên hơn nữa.
c, Phát triển những sản phẩm mới:
Lĩnh vực quảng cáo ngoài trời ngoài biển quảng cáo tấm lớn ra thì còn có lĩnh vực quảng cáo trên các phương tiện giao thông. Đây cũng là một hình thức mới và có triển vọng phát triển, do hệ thống giao thông của nước ta đang ngày càng phát triển, các phương tiện giao thông công cộng như xe bus, xe taxi hay những điểm chờ xe bus là những địa điểm cũng khá gây được nhiều sự chú ý. Hà Thái nên phát triển mối quan hệ với chủ các phương tiện và cơ quan chủ quản các hệ thống trên để có thể mời họ làm đối tác.
Một hình thức quảng cáo ngòai trời khác mà ở nước ngoài đã thực hiện nhưng ở nước ta chưa được áp dụng. Đó là quảng cáo nhắm tới những khách hàng đi trên các phương tiện trên không như máy bay chẳng hạn. Đó là các biển quảng cáo được làm một cách đặc biệt với vật liệu là thiên nhiên, cây cỏ được cắt tỉa theo một hình dạng nào đó và mang thông điệp quảng cáo. Tuy nhiên, hình thức quảng cáo này chủ yếu là nhằm mục đích quảng cáo về thương hiệu của các công ty và quảng cáo về đất nước. Tuy nhiên, hình thức quảng cáo này khó thực hiện vì nó nằm trên một diện rộng nên chi phí thuê địa điểm đắt và để có giấy phép quảng cáo thì rất khó khăn.
Về giá cả:
Hệ thống giá của Công ty Hà Thái rất đơn giản đều chủ yếu dựa trên đơn vị là cm2 và đối với vật liệu khác nhau thì giá cả khác nhau. Hình thức tính giá này có thể chấp nhận được và có phần hợp lý vì mỗi biển bảng đều có một diện tích nhất định, nhưng cách tính giá này cũng có phần cứng nhắc và còn có những điểm còn hạn chế. Vì đối với mỗi biển, bảng quảng cáo thì chúng đều có những sự sáng tạo và nghệ thuật riêng được thể hiện qua thông điệp quảng cáo. Sự sáng tạo là khác nhau và có giá trị khác nhau, do vậy không thể qui nó theo kiểu tính diện tích và tính tiền được. Do vậy, trong chuyên đề tốt nghiệp này, một đề xuất về cách tính giá khác được đưa ra. Theo cách tính giá này thì có thể chia giá thành của một tấm biển quảng cáo ngoài trời thành hai phần. Phần thứ nhất có thể coi là phần tính giá cố định theo diện tích và vật liệu (như cách tính giá hiện thời của Hà Thái), có thể tạm gọi nó là phần thô. Và phần kia chính là phần tính giá cho giá trị nghệ thuật của tấm biển bảng, ở đây xin gọi nó là phần biến động. Phần biến động này sẽ không theo một qui tắc tính giá cố định nào cả, mà nó phụ thuộc vào tính chất nghệ thuật của thông điệp quảng cáo thông qua sự sáng tạo, ấn tượng, độc đáo và “đẹp”. Phần biến động này cũng còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của hai bên: doanh nghiệp và khách hàng. Vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố và biến đổi không theo một qui chuẩn nào nên có rất nhiều tính ngẫu hứng, và do đó, giá cả một biển quảng cáo sẽ rất phong phú và linh hoạt.
Tuy nhiên, đối với những sản phẩm là biển bảng đơn giản, hầu như không cần sự sang tạo thì Hà Thái cũng có thể áp dụng mức giá linh hoạt hơn với những khách hàng khác nhau. Chẳng hạn, đối với những khách hàng có khả năng hợp tác lâu dài thì Hà Thái có thể tính mức giá vừa phải, còn đối với những khách hàng chỉ sử dụng dịch vụ một lần thì có thể tính giá hớt váng. Và với nhóm khách hàng là những doanh nghiệp nhỏ, cửa hàng cửa hiệu tư nhân mà sản phẩm cung ứng của Hà Thái là các biển quảng cáo đặt tại cửa hàng thì có thể tính giá thấp hơn 1 chút để có thể chiếm được thị trường nhỏ này.
Về phân phối:
Hình thức phân phối trực tiếp mà Hà Thái đang làm là một hình thức tốt và hiệu quả nhất trong các hình thức phân phối đối với lĩnh vực quảng cáo ngoài trời này. Nhưng với mục đích mở rộng thị trường thì Hà Thái nên phát triển đội ngũ nhân viên kinh doanh hơn nữa, bởi đây là những người kiếm hợp đồng và mang lợi về cho doanh nghiệp. Hà Thái cũng nên có những chế độ lương, hoa hồng, thưởng với những nhân viên này để họ nhiệt tình làm việc hơn.
Về xúc tiến:
Đây là một hoạt động mà Hà Thái chưa thực sự thấy được vai trò quan trọng của nó trong việc phát triển công ty. Do vậy, để có thể hoàn thiện hệ thống Marketing mix thì công ty phải đặc biệt quan tâm đến hoạt động này và dành một nỗ lực cũng như ngân sách cho nó.
Quảng cáo trên các phương tiện: mặc dù là một công ty trong lĩnh vực quảng cáo nhưng Hà Thái vẫn chưa có nhiều hoạt động để tự quảng cáo cho mình. Để khách hàng biết đến Hà Thái và cũng để Hà Thái xây dựng thương hiệu cho mình thì Hà Thái nên có những hoạt động quảng cáo sau:
+ Trên các tạp chí chuyên đề, với độc giả là các doanh nghiệp.
+ Trên các trang web uy tín có số lượng người xem lớn như vnexpress.net, dantri.com, thoibaokinhte.com…
+ Trên Những trang vàng, vì đây cũng là một nguồn thông tin mà các doanh nghiệp tìm đến.
+ Cũng có thể quảng cáo trên chính các tấm lớn đặt tại vị trí mà Hà Thái cho thuê trong thời gian chưa có khách hàng thuê địa điểm đó.
+ Hà Thái có thể quảng cáo ở một vị trí khiêm tốn (như ở góc biển…) ngay trong biển quảng cáo cung ứng cho khách hàng.
- Những hoạt động Marketing trực tiếp: hoạt động này thực sự cần thiết đối với những công ty quảng cáo như Hà Thái, khi mà các công ty này chỉ sử dụng hình thức phân phối trực tiếp. Bởi những hình thức này giống như những tài liệu giới thiệu trước với khách hàng về công ty, do vậy nó sẽ giúp cho việc tiếp xúc của nhân viên kinh doanh với khách hàng được dễ dàng hơn.
Trên thực tế, hình thức Marketing trực tiếp mà Hà Thái sử dụng là: Marketing bằng catalog, hay các profile về công ty. Trong đó giới thiệu về công ty, những lĩnh vực kinh doanh và những hình ảnh về các sản phẩm mà Hà Thái đã làm cho khách hàng và những khách hàng hiện có của công ty để tạo sự tin cậy từ phía khách hàng. Tuy nhiên theo tôi, để có thể hiệu quả hơn trong hình thức này, Hà Thái nên kèm theo một vài thông tin sơ bộ về cuộc điều tra nghiên cứu hướng về sản phẩm, dich vụ hay lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Quan hệ công chúng (PR): công chúng của các công ty quảng cáo ở đây là các doanh nghiệp. Để gây sự chú ý và biết đến của nhóm công chúng này thì Hà Thái nên tham gia những cuộc triển lãm, hội trợ, hội thảo có tính chất chuyên đề, vì đây chính là nơi có thể gặp gỡ những khách hàng tiềm năng nhất. Trong thời gian tới, khi mà dịch vụ của công ty phát triển sẽ kéo theo qui mô của công ty cũng tăng lên, làm cho công chúng biết nhiều hơn về công ty cũng là việc cần làm, bởi nó đẩy Hà Thái lên một vị thế nào đó trong thị trường quảng cáo. Với ngân sách còn hạn chế thì Hà Thái có thể trích ra một khoản tiền để làm từ thiện như quĩ các học sinh nghèo vượt khó hày quĩ người nghèo…
III. Hoàn thiện các giải pháp hỗ trợ
1. Giải pháp về vốn:
Một khó khăn lớn đối với Hà Thái trong việc mở rộng thị trường đó là vốn. Hà Thái là một công ty tư nhân với số vốn góp ban đầu là 900.000.000 đồng và vốn lưu động hàng tháng trung bình là 300.000.000 đồng. Số vốn ít ỏi như vậy khiến cho Hà Thái khó có thể đáp ứng cho những hợp đồng lớn, như vậy, Hà Thái vô tình mất đi những khách hàng tốt. Để khắc phúc tình trạng này thì ngoài cách vay từ ngân hàng, Hà Thái có thể yêu cầu tạm ứng từ phía khách hàng mà hợp đồng của họ có giá trị lớn và đề nghị thanh toán chậm với các cơ sở sản xuất. Hàng tháng, sau khi thanh toán các hợp đồng, Hà Thái nên lấy một tỉ lệ lãi để lập quĩ phát triển kinh doanh. Những việc này cũng gặp nhiều khó khăn khi thực hiện nhưng đây là giải pháp tạm thời giúp Hà Thái có một lượng vốn khi cần đầu tư vào những hợp đồng có giá trị lớn.
2. Giải pháp về nhân sự:
So sánh giữa qui mô và sự phân bố nhân sự thì có thể thấy sự phân bố như thế là hợp lý. Tuy nhiên, những nhân viên kinh doanh của công ty thì thiếu những người được đào tạo một cách bài bản về kinh tế, Marketing và những kỹ năng tiếp xúc khách hàng, họ làm việc theo sự nhận định và kinh nghiệm tự có của mình. Do vậy đôi khi cách thức làm việc còn thiếu sự chuyên nghiệp. Hơn nữa, công việc của họ rất nặng nề, có thể ví họ là những người nuôi sống cả công ty bởi những hợp đồng họ mang về. Vậy, để nâng cao chất lượng nhân sự của công ty và phục vụ cho mục đích mở rộng thị trường, Hà Thái nên gửi nhân viên mình tham gia những lớp đào tạo ngắn ngày về lĩnh vực kinh doanh hay Marketing, đồng thời tuyển mới thêm với yêu cầu khả năng về quảng cáo và kinh doanh để có thể đem lại nhiều hợp đồng mới cho công ty hơn.
Đối với bộ phận thiết kế, doanh nghiệp nên tiếp tục tạo điều kiện cho nhân viên nâng cao trình độ, có thể cho họ tham gia những khóa học về kỹ thuật đồ họa thiết kế nâng cao để có thể đáp ứng những yêu cầu cao hơn của khách hàng về khía cạnh sáng tạo và nghệ thuật.
Đối với bộ máy lãnh đạo, mặc dù có khả năng quản lý và đưa doanh nghiệp đưa lên được như ngày hôm nay nhưng hầu hết trong số họ vẫn chủ yếu là không thực sự được đào tạo một cách chính qui và bài bản về nghiệp vụ quản lý doanh nghiệp hay quản trị kinh doanh. Theo em, đội ngũ ban lãnh đạo, đặc biệt là Phó giám đốc kinh doanh nên theo học thêm những khóa đào tạo về quản trị để có thể quản lý và phát triển doanh nghiệp đi lên nữa và trở thành một công ty thực sự chuyên nghiệp trên thị trường quảng cáo ngoài trời.
Một biện pháp không kém phần quan trọng đó là chế độ khen thưởng, đãi ngộ cho những nhân viên làm việc hiệu quả. Hiện tại thì chế độ trả lương cho nhân viên của Hà Thái được chia theo hai dạng theo các bộ phận khác nhau. Bộ phận hành chính và thiết kế thì được trả lương theo thời gian, tức là một mức lương cố định theo tháng. Còn cách tính khác là theo sản phẩm thì được áp dụng cho bộ phận kinh doanh. Điều đó có nghĩa là bộ phận kinh doanh ngoài lương cứng cố định hàng tháng ra thì còn có hoa hồng, hoa hồng này được chia theo tỷ lệ phần trăm nhất định của hợp đồng mà họ có được trong tháng. Ngoài ra, Hà Thái cũng có chế độ thưởng tết cho các nhân viên của mình. Chế độ lương này nhìn chung là đã hợp lý với bộ phận hành chính và bộ phận kinh doanh, nhưng nó còn còn bất hợp lý đối với bộ phận thiết kế. Bởi nếu xét về sản phẩm chủ yếu hiện tại của Hà Thái là biển quảng cáo đặt tại cửa hàng với yêu cầu thiết kế không cao thì việc tính lương như thế có thể tạm chấp nhận, nhưng nếu trong dài hạn, khi mà Hà Thái tiến sâu và thị trường biển quảng cáo tấm lớn với yêu cầu về tính nghệ thuật trong thông điệp quảng cáo cao hơn, nó sẽ đòi hỏi sức sáng tạo của các nhân viên thiết kế hơn nữa, khi đó, chế độ trả lương này sẽ không còn thu hút được những nhà thiết kế giỏi và đảm bảo sự thỏa mãn của họ khi làm việc cho công ty. Do vậy, Hà Thái nên thay đổi cách tính lương cho thu hút được những nhân viên và sự nhiệt tình làm việc của họ. Ngoài ra, Hà Thái nên có thêm những chế độ thưởng cho nhân viên theo những dịp đặc biệt hay thành tích của họ trong công việc. Điều này tạo cho các nhân viên yêu mến và trung thành hơn với công ty, tuy nhiên nó cũng sẽ phản tác dụng nếu chế độ thưởng này không được công bằng giữa các nhân viên.
3. Giải pháp về tổ chức:
Theo như chiến lược kinh doanh ở trên đề ra thì sự phân bố tổ chức như Hà Thái như trên sẽ không hợp lý vì số lượng nhân viên phòng kinh doanh quá ít. Trong tương lai, Hà Thái đặt mục tiêu cho mình là mở rộng thị trường và mở rộng danh mục sản xuất theo như tôi đã đề xuất trong phần I và II.1 ở chương 3 này sẽ có sự chồng chéo nhau trong các công việc và lĩnh vực mà nhân viên kinh doanh đó giải quyết. Các nhân viên sẽ không tập trung và có chuyên sâu thực sự với công việc của mình, đồng thời gây khó khăn cho quản lý. Biện pháp khắc phục tình hình trên, đó là: khi Hà Thái phân chia và thực sự quan tâm đến các mảng sản phẩm của mình ngoài biển quảng cáo tấm lớn thì Hà Thái nên chia bộ phận kinh doanh thành những bộ phận nhỏ, những bộ phân này sẽ phụ trách một mảng sản phẩm khác nhau như Phòng kinh doanh biển, bảng quảng cáo tấm lớn, Phòng kinh doanh chuyên về in ấn ấn phẩm quảng cáo, Phòng thiết kế, dàn dựng showroom, Phòng tổ chức hội chợ, triển lãm… Mỗi phòng nên có tu 2 đến 3 nhân viên, trong đó có một người là Trưởng phòng quản lý hoạt động của phòng mình và báo cáo lên Phó giám đốc kinh doanh. Như vậy, khi công ty phát triển sẽ có sự phân công rõ rang và chuyên môn hơn. Các nhân viên cũng nắm chắc công việc của mình hơn và sẽ phát huy hết khả năng trong công việc của mình.
4. Các kiến nghị với cơ quan Nhà nước có liên quan:
Các công ty quảng cáo ở nước ta đã đi vào hoạt động được 10 năm và Nhà nước cũng đã có những văn bản, qui định, pháp lệnh để hoạt động quảng cáo. Nhưng trên thực tế, hoạt động quảng cáo ở nước ta còn nhiều lộn xộn và thiếu sự qui hoạch đồng bộ. Các công ty quảng cáo còn chưa có sự gắn kết, hợp tác để hỗ trợ nhau phát triển. Do vậy để hoạt động quảng cáo trở nên chuyên nghiệp và có điều kiện phát triển một cách đúng đắn và lành mạnh thì cần có sự quản lý của các cơ quan Nhà nước và các cơ quan chuyên ngành:
a, Với cơ quan quản lý Nhà nước:
Các văn bản pháp lý đưa ra phải rõ rang, có hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện. Một số điểm cần khắc phục như việc Nhà nước chưa đưa ra những qui định cụ thể về việc cấm quảng cáo với những loại rượu thuốc có độ cồn trên 15 độ. Một số qui định như cấm sử dụng màu cờ Tổ Quốc trong quảng cáo, hay như việc viết, đặt biển hiệu của cơ quan, tổ chức cá nhân… nên có những văn bản hướng dẫn cụ thể để giúp cho các doanh nghiệp gặp lúng túng khi thực hiện các hoạt động quảng cáo.
Các văn bản, pháp lệnh qui định cũng nên thường xuyên thay đổi theo tình hình của thị trường, loại bỏ những qui định cũ không còn phù hợp với tình hình quảng cáo hiện nay. Và vì mỗi loại hình phương tiện quảng cáo đều có những đặc điểm khác nhau, do vậy trong qui định nên ghi rõ là áp dụng cho phương tiện nào, nếu không nó sẽ gây giảm hiệu quả quảng cáo của các phương tiện. Ví dụ như trước đây trên quảng cáo phải có đầy đủ thông tin về tên thương hiệu, giấy phép kinh doanh… nhưng như thế lại ảnh hưởng đến hiệu quả quảng cáo đối với các tấm biển quảng cáo tấm lớn.
Các thủ tục luôn gây phiền phức cho những người tham gia, trong lĩnh vực quảng cáo thì điều này cũng hề sai chút nào. Đặc biệt với việc xin cấp phép cho các biển quảng cáo. Các doanh nghiệp quảng cáo muốn xin giấy phép cho quảng cáo tấm lớn thì phải qua ba cơ quan quản lý, đó là Sở Văn Hóa Thông Tin, Sở Qui hoạch Kiến trúc và Sở xây dựng. Đôi khi có sự nảy sinh bất đồng ý kiến giữa ba ban Bộ ngành này thì việc cấp giấy phép sẽ bị cản trở và thời gian chờ đợi là rất lâu, do vậy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp. Vì vậy, Nhà nước cần có sự cải tổ trong hoạt động này, có thể chuyển quyền quản lý sang cho một cơ quan chủ quản duy nhất, đồng thời tích cực xóa bỏ tình trạng quan liêu cửa quyền.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý cần phải kiểm soát chặt chẽ hơn nữa tình hình vi phạm của các loại biển, bảng quảng cáo không hợp lý và gây trở ngại đến hoạt động đi lại của người dân.
Hiện nay, đội ngũ những người làm quảng cáo ở nước ta tuy khá đông nhưng chất lượng còn chưa cao và nghiệp vụ còn non yếu cho nên chưa thể đảm nhận những hợp đồng quảng cáo phức tạp với giá trị lớn. Điều đó cũng có nghĩa là ta đã để tuột hàng triệu USD vào tay những doanh nghiệp quảng cáo nước ngoài. Vì vậy, để phát triển lĩnh vực này thì Nhà nước nên chú trọng nhiều hơn đến việc đào tạo nguồn nhân lực có khả năng và trình độ chuyên môn cho ngành, giúp cho sự phát triển của ngành có tính cơ sở bằng cách đầu tư và hỗ trợ cho việc đào tạo các chuyên gia về quảng cáo bậc đại học.
b, Với hiệp hội Quảng cáo Việt Nam:
Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam là tổ chức xã hội- nghề nghiệp của các tổ chức và cá nhân Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo. Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam chịu sự quản lý của nhà nước, hoạt động theo quy định của pháp luật và điểu lệ của hiệp hội. Mục đích của Hiệp hội là đoàn kết, hợp tác và giúp đỡ nhau thúc đẩy sự phát triển của ngành quảng cáo của Việt Nam, hoà nhập với cộng đồng quảng cáo quốc tế, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hội viên. Để đạt được điều này tạo điều kiện giúp đỡ những doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này nói chung và Hà Thái nói riêng, thì tôi xin đưa ra một số kiến nghị với Hiệp hội như sau:
Một là, Hiệp hội quảng cáo cần có những hoạt động, biện pháp để phối hợp với các cơ quan Nhà nước hướng dẫn chỉ đạo để các công ty quảng cáo hoạt động đúng hướng, đúng luật, truyền đạt những đường lối phát triển và chính sách tới các công ty quảng cáo.
Hai là, Hiệp hội phải tạo ra một môi trường lành mạnh để các công ty có thể hợp tác với nhau để tạo lên một liên minh mạnh mẽ có đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài đang chiếm phần lớn thị trường quảng cáo nước ta.
Ba là, Hiệp hội quảng cáo phải thực sự trở thành một diễn đàn giữa các doanh nghiệp quảng cáo để các cá nhân, tổ chức có thể giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của nhami, là nơi họ có thể đưa ra tiếng nói của mình và là nơi cung cấp những thông tin đầy đủ và chính xác nhất về môi trường quảng cáo trong và ngoài nước cho những đơn vị có thể thu thập và nghiên cứu.
Tóm lại, trên đây là tất cả những giải pháp nhằm hoàn thiện các giải pháp Marketing cho doanh nghiệp Hà Thái để nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Những giải pháp này được đưa ra một cách cân nhắc sau một quá trình thực tập tại công ty và những lý thuyết đã được học trong thời gian qua. Tuy nhiên, trên đây chỉ là những giải pháp mang tính suy đoán và phân tích cá nhân, do vậy có thể gặp nhiều thiếu sót nhưng tôi mong rằng nó sẽ được hoàn thiện hơn khi được áp dụng trên thực tế dưới sự quản lý và chỉnh sửa của những nhân viên Marketing dạn dầy kinh nghiệm hơn tôi. Nhưng nhìn chung, Hà Thái muốn phát triển và đạt được những mục tiêu lớn thì cần phải cố gắng và nỗ lực hơn nữa, phải tập trung mọi nguồn lực để doanh nghiệp có đà đi lên. Và sự nỗ lực đó không chỉ do quyết tâm của những người quản lý công ty mà phải là sự quyết tâm của toàn bộ công nhân viên trong công ty.
Kết luận
Quảng cáo ngoài trời đã phát triển khá sớm tại thị Việt Nam nhưng cho đến những năm gần đây nó mới thực sự “nở rộ” và đang trở thành một công cụ quảng cáo đắc lực cho các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay go như hiện nay. Do vậy nó càng ngày càng được trọng dụng trong chiến lược quảng cáo của các doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp nhỏ. Điều này lại tác động ngược lại vào thị trường quảng cáo ngoài trời, làm cho thị trường này thêm sôi động và từ đó có động lực phát triển hơn nữa và đem lại nhiều hứa hẹn về những khoản lời lớn đối với các doanh nghiệp quảng cáo ngoài trời. Tuy nhiên, để loại hình quảng cáo này có cơ hội phát triển lành mạnh và cái nhìn thiện cảm từ công chúng thì Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ và các doanh nghiệp quảng cáo thì phải thực hiện đúng những qui định do Nhà nước đưa ra.
Những những đặc điểm của thị trường và sản phẩm của lĩnh vực quảng cáo ngoài trời cũng như xu hướng chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong quá trình phát triển kinh doanh dịch vụ này được nêu ra trong chuyên đề đã phần nào vẽ nên được bức tranh toàn cảnh của thị trường quảng cáo ngoài trời tại nước ta. Qua bức tranh này, ta có thể thấy rằng thị trường quảng cáo này thực sự là một thị trường rộng lớn có qui mô không hề nhỏ và sẽ là mỏ vàng cho các doanh nghiệp quảng cáo trong thời gian tới, tuy nhiên, một điều thật thiệt thòi cho các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam đó là ưu thế thị trường lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài đang chiếm tới 80% thị phần quảng cáo này. Thông qua việc phân tích thực trạng kinh doanh và hoạt động Marketing của công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái và các đối thủ cạnh tranh thì có thể phần nào thấy được những yếu kém trong hoạt động của phần lớn các doanh nghiệp quảng cáo nội địa, đó là sự thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, sản phẩm còn thiếu tính chuyên môn và đôi chút lạc hậu, chưa áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật để thiết kế những sản phẩm mới, hiện đại, các hoạt động Marketing còn chưa được quan tâm và sử dụng hiệu quả… Đây cũng chính là nguyên nhân chung khiến các doanh nghiệp nội địa thua kém so với các doanh nghiệp nước ngoài. Trên cơ sở phân tích đó, bài chuyên đề tốt nghiệp này đã nêu ra những biện pháp giúp Hà Thái hoàn thiện hệ thống Marketing mix, lập các kế hoạch Marrketing… và các biện pháp hỗ trợ khác như các vấn đề về vốn, nhân lực, tổ chức để Hà Thái có thể phát triển hơn nữa trong tương lai. Bên cạnh đó, những đề xuất trong chuyên đề tốt nghiệp này với các tổ chức, hiệp hội quảng cáo và cơ quan Nhà nước nếu được thực hiện sẽ phần nào giúp Hà Thái nói riêng và cả ngành quảng cáo nói chung có điều kiện thuận lợi để hoạt động hiệu quả và có thể giành lại thị phần từ các doanh nghiệp nước ngoài.
Để có thể hoàn thành chuyên đề này, tôi xin chân thành cảm ơn thầy T.S Nguyễn Hữu Lai đã tận tình hướng dẫn và giúp em định hướng chuyên đề. Và công ty Thương mại & Mỹ thuật Hà Thái, đặc biệt là Phó Giám đốc Đỗ Ngọc Khương đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực tập ở Quí công ty. Nhưng do trình độ và hiểu biết có hạn, tôi rất mong nhận được sự đóng góp và bổ xung của thầy, cô và các bạn để hoàn thiện chuyên đề này hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo:
Quản trị Marketing – Philip Kotler
Quảng cáo – Lý thuyết và Thực hành (Giáo trình trường ĐH KTQD HN- Khoa Marketing)
Nghiệp vụ Quảng cáo và Marketing – Lê Hoàng Quân (biên soạn)
Bài giảng về môn Marketing Công Nghiệp
Marketing trong kinh doanh dịch vụ - T.S Lưu Văn Nghiêm (Giáo trình trường ĐH KTQD HN)
Trang web của Hiệp hội quảng cáo www.vaa.org.vn
Trang web www.vnexpress.net
Trang web của Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn
Trang web Quảng cáo Việt Nam www.vietnamad.comMục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32315.doc