Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay, phát triển hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp- công nghiệp ở nông thôn là điều tất yếu, hộ là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ, vốn là một yếu tố quan trọng không thể thiếu, nó quyết định sự tồn tại và phát triển kinh tế của hộ trong đó vốn tín dụng đã góp phần không nhỏ vào phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sử dụng vốn trong phát triển kinh tế hộ, làm cho cơ cấu kinh tế nông thôn có bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp. Qua đó khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Minh Đức trong việc đầu tư vốn tín dụng cho phát triển kinh tế hộ.
67 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Minh Đức đối với phát triển kinh tế hộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.5.2) Đề xuất khoản vay:
Sau khi đã kiểm tra- thẩm định các điều kiện vay, hồ sơ vay, hồ sơ tài sản bảo đảm khoản tiền vay, nếu không cho vay cán bộ tín dụng phải thong báo cho khách hàng biết. Nếu xác định hồ sơ vay vốn có đầy đủ cơ sở để quyết định cho vay, cán bộ tín dụng phải chủ động đề xuất: mức tiền vay, lãi suất cho vay, thời hạn cho vay, phương thức cho vay:
Xác định mức tiền cho vay: Được căn cứ vào các yếu tố:
+Vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh.
+Gía trị tài sản bảo đảm tiền vay hoặc bảo lãnh.
+Tổng nhu cầu xin vay vốn.
+Khả năng hoàn trả nợ của khách hàng.
+Nguồn vốn hiện có của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Xác định đúng, cho vay đầy đủ, hợp lý số tiền cần vay sẽ giúp cho Hộ vay vốn sử dụng có hiệu quả, độ an toàn vốn cao. Ví dụ nếu xác định dự án của Hộ vay vốn cần 10 triệu, ngân hàng chỉ cho vay 5 triệu, người vay phải vay bên ngoài 5 triệu với lãi suất cao hơn. Tất yếu khi có nguồn thu nhập, Hộ vay phải tính toán để trả nợ các khoản vay có lãi suất cao hơn trước, nợ ngân hàng trả sau. Ngược lại, xác định dự án của Hộ vay vốn cần 5 triệu, ngân hàng cho vay 10 triệu, dẫn đến số tiền vượt nhu cầu sẽ được dung sai mục đích. Một khi đã sai mục đích thì tiềm ẩn rỉ ro là rất lớn.
Do vậy cán bộ tín dụng phải xác định chính xác vốn tự có, giá trị tài sản bảo đảm tiền vay và tổng nhu cầu vay vốn, để tính toán đề xuất mức tiền cho vay.
Thực tế cho thấy bản than Hộ vay vốn thường bộc lộ những thái cực khác nhau là:
+Nếu một nhu cầu vay vượt quá số thực tế cần vay, phòng ngừa sự cắt giảm quyết định một cách tuỳ tiện của cán bộ tín dụng hoặc nếu số vốn tự có vượt quá số vốn thực có để đảm bảo đạt tỷ lệ quy định của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam quy định là(10%,20%)
+Không kê khai đầy đủ, đúng số vốn tự có( thực chất là giảm thấp so với thực tế) để được vay số tiền lớn hơn. Ví dụ: vốn tự có đạt 50%, chỉ kê khai 20%.
+Nâng cao giá trị tài sản đảm bảo tiền vay thiếu những căn cứ khoa học, thực tế để mong muốn đạt được khoản vay số tiền tương ứng tỷ lệ tối đa cho phép là(70%,80%).
-Theo chế độ quy định, cách xác định mức tiền cho vay được quy định như sau:
+Trường hợp không phải đảm bảo tiền vay bằng tài sản:
Mức tiền cho vay= tổng nhu cầu vốn- vốn tự có- vốn khác
+Trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản:
đối với tài sản cầm cố là chứng từ có giá :
Mức cho vay tối đa=gốc+ lãi(của chứng từ có giá)- lãi tiền vay phải trả
trong thời hạn xin vay
Đối với tài sản thế chấp: tối đa bằng 70% giá trị tài sản.
Đối với tài sản cầm cố do ngân hàng giữ: tối đa bằng 70% giá trị tài sản.
Đối với tài sản cầm cố do khách hàng giữ, sử dụng hoặc bên thứ 3 giữ: tối đa bằng 50% giá trị tài sản.
Đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
Mức cho vay tối đa=70% tổng mức vốn đầu tư( nếu có tối thiểu 30% VTC)
Mức cho vay tối đa=tổng mức vốn đầu tư-mức vốn tự có(nếu có VTC và giá trịTS
bảo đảm tối thiểu bằng 30%)
Mức cho vay tối đa=tổng mức vốn đầu tư( nếu co giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các hình thức tối thiểu bằng 30%)
-Điều đặc biệt quan tâm khi xác định và quyết định mức cho vay là phải khắc phục được những quyết định chủ quan, thiếu cơ sở thực tiễn. Đó là việc vận dụng tỷ lệ tối đa(70%,50% của giá trị tài sản…..) để xác định mức cho vay, không căn cứ nhu cầu thực tiễn cần thiết cuả dự án,không tính đến rủi ro nếu xảy ra trong tương lai( giá trị tài sản thế chấp gảim thấp do nhiều nguyên nhân).
Tâm lý khách hàng và sự chủ quan của một số bộ phận nhỏ cán bộ tín dụng là dung phương pháp lấy giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh nhân(*) tỷ lệ tối đa cho phép để xác định mức xin vay/cho vay.
-Đối với một dự án, phương án tổng hợp, vừa có đối tượng vay vốn ngắn hạn, vừa có đối tượng vay vốn trung hạn, cán bộ tín dụng phải tính toán và xác định nhu cầu cho từng loại.
-Khách hàng có tín nhiệm(được xếp loại A theo tiêu thức phân loại khách hàng của ngân hàng nông nghiệp), khách hàng là Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp vay vốn không phải đảm bảo bằng tài sản, nếu vốn tự có thấp hơn quy định, giám đốc chi nhánh được quyết định mức vốn tự có tham gia và xác định mức cho vay phù hợp với khả năng trả nợ.
để phân biệt khách hàng loại A, cán bộ tín dụng phải theo dõi quá trình vay trả trong 2 năm, đối chiếu với các tiêu thức để xếp loại và đề xuất( công văn số 1963/NHNN-05,06, ngày 18/8/2000)
2.5.3)Áp dụng phương thức cho vay.
-Kiểm tra trước khi cho vay để xác định phương thức cho vay phù hợp cũng là yêu cầu cần thiết đối với cán bộ tín dụng, nó quyết định cơ bản việc điều hành nguồn vốn từng thời kỳ và góp phần tiết kiệm vốn huy động( nếu cần phải cho vay theo hạn mức nhưng lại cho vay từng lần sẽ rất lãng phí vốn) cũng như góp phần áp dụng bộ hồ sơ cho vay phù hợp, đơn giản các thủ tục cho khách hàng.
-Đối với cho vay Hộ, 2 phương thức cho vay phổ biến đang áp dụng tại cơ sở là:
+Cho vay từng lần
+Cho vay theo hạn mức tín dụng.
-Cán bộ tín dụng phải kiểm tra, xác định khách hàng vay vốn không thường xuyên hay thường xuyên, có kinh doanh ổn định? Có được xếp loại khách hàng có tín nhiệm với ngân hàng nông nghiệp( xếp loại A theo tiêu thức phân loại của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam). Có áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay không?
+Khách hàng SXKD đơn chiếc hay tổng hợp.
+Thời hạn cần thiết của hạn mức tín dụng.
+Tính chất hợp lý của việc thay đổi hạn mức tín dụng.
-Việc kiểm tra trước mỗi lần rút vốn vay( trong trường hợp hạn mức tín dụng đã ký, giải ngân nhiều lần) được thể hiện ở công việc:
+Kiểm tra hạn mức tín dụng có còn hay đã hết?
+Kiểm tra khoản vốn rút lần trước có được sử dụng đúng mục đích?
+Kiểm tra thời hạn của hạn mức tín dụng còn hiệu lực?
+Kiểm tra mục đích rút vốn vay có hợp pháp, hợp lệ?
+Kiểm tra các hồ sơ, thủ tục rút vốn có đầy đủ, hợp pháp hay không?
2.6)Lượng tiền vay.
Nhìn chung sự phát triển của Hộ góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế địa phương cũng như giải quyết công ăn việc làm tại chỗ cho người lao động, ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức có nhiệm vụ cho vay ngắn hạn đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, hàng hoá và dịch vụ cho vay trung hạn và dài hạn với các dự án có hiệu quả, mục tiêu tài trợ tuỳ tính chất và khả năng nguồn vốn. Ngân hàng còn được giao nhiệm vụ chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá trị. Cơ cấu dư nợ có sự chuyển dịch tích cực đúng hướng của ngân hàng nông nghiệp và chiến lược mở rộng thị trường và thị phần, ngân hàng chủ động lập hồ sơ kinh tế, phân loại lựa chọn khách hàng, lựa chọn thị trường đầu tư có hiệu quả, ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức tích cực mở rộng đầu tư vào thị trường truyền thống là nông nghiệp- nông thôn đặc biệt là Hộ ở nông thôn, số Hộ được vay vốn ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức là 1397 Hộ năm 2006.
BiÓu 1: Doanh sè cho vay qua c¸c n¨m
§¬n vÞ: triÖu ®ång
N¨m
2004
2005
2006
Doanh sè vay(triÖu ®ång)
23369
28922
28371
Sè hé vay (hé)
1324
1463
1397
B×nh qu©n/hé (triÖu ®ång/ hé)
17,65
19,77
20,31
Tình hình cho Hộ nông dân vay vốn để phát triển kinh tế Hộ của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Minh Đức trong 3 năm 2004-2006 như sau:
Năm 2004 là 23,369(triệu đồng) trong tổng số 1324 Hộ nghĩa là mỗi Hộ được vay là 17.65(triệu đồng)
Năm 2005 là 28,922(triệu đồng) trong tổng số 1463 Hộ nghĩa là mỗi Hộ vay là 19.77( triệu đồng)
Năm 2006 là 28,371( triệu đồng) trong tổng số 1397 Hộ nghĩa là mỗi Hộ vay là 20.31( triệu đồng)
Năm 2005 số tiền cho Hộ nông dân vay tăng so với năm 2004 là 5,553 triệu đồng hay đạt 124%, số Hộ nông dân cũng tăng thêm 139 Hộ, số tiền cho vay bình quân mỗi Hộ cũng tăng lên thêm 2.12 triệu đồng.
Năm 2006 số tiền cho Hộ nông dân vay giảm so với năm 2005 là 551 triệu đồng hay đạt 98%, tuy nhiên số Hộ nông dân giảm 66 Hộ, số tiền cho vay bình quân mỗi Hộ cũng lên thêm 0.54 triệu đồng.
Như vậy doanh số cho vay qua các năm tăng lên, năm sau cao hơn năm trước.Số Hộ tham gia vay vốn năm 2005 tăng so với năm 2004, năm 2006 giảm so với năm 2005, lượng vốn vay của mỗi Hộ có xu hướng tăng cao cụ thể năm 2004 bình quân một Hộ vay 17,65 triệu đồng nhưng đến năm 2006 mức vay vốn đã tăng lên là 19,77 triệu đồng, điều này cho thấy vốn là yếu tố rất cần thiết để phát triển Hộ.
Tính đến cuối năm 2005 tổng số vốn đầu tư tại khu công nghiệp Minh Đức là 2932,4 tỷ đồng trong đó vốn cố định là 1544,2 tỷ đồng, vốn tài sản lưu động là 1388,18 tỷ đồng, như vậy vốn cố định bình quân của 1 Hộ/ cơ sở sản xuất là 5533000 đồng, vốn lưu động bình quân của 1 Hộ/ cơ sở là 3045000 đồng từ đó ta có thể thấy được mức vốn mà các Hộ vay vẫn là rất thấp và lượng vốn vay là nhỏ. Các Hộ/ cơ sở vẫn chủ yếu là sử dụng nhà ở làm nơi sản xuất, công nghiệp đơn giản, quy mô sản xuất nhỏ, tính chung vốn sản xuất bình quân của 1 lao động là 6,35 triệu đồng. Trong những năm gần đây theo khảo sát của liên minh các hợp tác xã thì vốn bình quân của Hộ/ cơ sở đã tăng lên: Vốn bình quân của một lao động là 13,28 triệu đồng, của một Hộ là 28,6 triệu đồng tăng gấp 2,5 lần so sánh với tình hình phát triển Hộ trong cả nước thì Hộ sản xuất ở khu công nghiệp Minh Đức đã và đang phát triển đúng hướng và cần được sự trợ giúp vốn của các tổ chức trong đó tổ chức tín dụng đóng vai trò quan trọng.
BiÓu 2: Tû träng vèn vay cña c¸c hé / c¬ së chia theo nguån vay.
§V: (%)
Nguån vay
Tû träng (%)
Vay tõ ng©n hµng
62,85
Vay tõ c¸c ch¬ng tr×nh Nhµ níc
12,34
Vay tõ c¸c ch¬ng tr×nh tµi trî níc ngoµi
2,58
Vay cña t nh©n
17,53
Vay tõ c¸c nguån vèn kh¸c
4,70
Qua bảng số liệu trên 1 lần nữa khẳng định vai trò của vốn tín dụng trong việc thúc đẩy các Hộ sản xuất phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng của mình, các ngân hàng phải đẩy mạnh công tác huy động vốn, coi đây là công tác trọng tâm xuyên suốt trong quá trình hoạt động của mình nhằm cung cấp đủ vốn đáp ứng nhu cầu cần thiết cho Hộ, xứng đáng là người bạn tin cậy của Hộ sản xuất, một mặt giúp các Hộ sản xuất phát triển mặt khác mở rộng được quy mô hoạt động của ngân hàng mình.
Theo khảo sát thực tế thì hiện nay khu công nghiệp có 1397 Hộ vay vốn ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức, số Hộ vay vốn ngân hàng nông nghiệp giảm, nguyên nhân do các Hộ sản xuất hoạt động không thường xuyên hoặc không có nhu cầu vay vốn hoặc do khâu Marketing để tiếp cận với khách hàng của ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức không tốt bằng các ngân hàng khác.
Biểu 3: Tình hình vay vốn và sản xuất của Hộ
Đơn vị: Triệu đồng
Tên Hộ
Ngành nghề
số tiền vay
thời hạn vay
Phạm ngọc anh
CN
150
3 năm
Nguyễn văn tuấn
CN
250
3 năm
Hà văn tiến
CN
200
4 năm
Nguyễn thị sen
CN
80
2 năm
Nguyễn văn kiên
CN
140
2,5 năm
Nguyễn thị bắc
CN
80
2 năm
Lê thị thành
NN
15
2 năm
Nguyễn văn dũng
CN
130
3 năm
Trần văn biên
CN
100
3 năm
Lê thành dương
NN
80
2 năm
Nguyễn minh tú
NN
120
3 năm
Nguyễn thế quang
NN
150
4 năm
Vũ thị miến
NN
180
3,5 năm
Trầntrường giang
CN
90
3 năm
Nguyễn văn minh
NN
30
2 năm
Nguyễn thị hà
NN
50
3 năm
Cao văn sơn
CN
100
3 năm
Nguyến thế phong
CN
90
3 năm
Trần văn minh
CN
130
4 năm
Nguyễn quyết tiến
NN
25
2 năm
Qua bảng số liệu trên ta thấy số Hộ sản xuất công nghiệp vay vốn nhiều hơn so với các Hộ sản xuất nông nghiệp và thời hạn vay ít hơn so với các Hộ sản xuất nông nghiệp, chi phí sản xuất cao hơn nhưng kết quả sản xuất thu được là cao hơn rất nhiều so với Hộ sản xuất nông nghiệp, các Hộ sản xuất nông nghiệp còn giúp giải quyết công ăn việc làm cho người lao động nhàn rỗi ở khu công nghiệp Minh Đức.
Xác định rõ các ngân hàng phải cân đối đủ nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu tăng khối lượng tín dụng phục vụ cho các Hộ. Tín dụng thông thường tập trung thoả mãn nhu cầu chi phí sản xuất, mua sắm máy móc, công cụ phục vụ cho các hoạt động cho Hộ sản xuất. Việc bảo đảm tiền vay được nới lỏng hơn, các Hộ gia đình vay dưới 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, hồ sơ vay vốn của các Hộ váy vốn không phải thế chấp rất đơn giản, tạo tâm lý thoải mái cho các Hộ khi tham gia vay vốn ngân hàng, ngân hàng thoả thuận với khách hàng về phương thức cho vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn vay và khả năng kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay.
III)Đánh giá chung kết quả, hạn chế, nguyên nhân kết quả về mô hình tổ chức của tín dụng.
1)Kết quả.
1.1)kết quả đạt được từ phía ngân hàng.
Là một ngân hàng vừa kinh doanh thương mại vừa phục vụ chính sách xoá đói giảm nghèo nên trong hoạt động có nhiều khó khăn song ngân hàng nông nghiệp vầ phát triển nông thôn khu công nghiệp Minh Đức đã phát huy tính chủ động sang tạo nâng cao khả năng cạnh tranh thực hiện được các mục tiêu lớn.
Thành công đầu tiên của hệ thống ngân hàng, QTDND ở khu công nghiệp Minh Đức đó là huy động vốn tại chỗ, nguyên nhân là do quỹ tín dụng đã có nhiều biện pháp và hình thức huy động vốn phong phú, có các quy định về lãi suất huy động vốn linh hoạt.
-Đề cao phương châm gần dân, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng và cách làm ăn của các Hộ/ cơ sở vì vậy ngân hàng đã đưa ra những giải pháp, phương án hoạt động từng năm cụ thể và phù hợp mang lại hiệu quả tạo được lòng tin cho người gửi tiền.
-Thực hiện điều hành kế hoạch gắn với khoán tài chính đến nhóm và người lao động. Hằng năm trên cơ sở mục tiêu, kế hoạch trung ương giao, chỉ đạo các chi nhánh chủ động xây dựng bảo vệ kế hoạch kinh doanh tạo ra sự chủ động sáng tạo cho mỗi đơn vị cá nhân người lao động.
-Từng năm quyết toán tài chính gắn với khoán kế hoạch để xây dựng chi lương Hộ và cá nhân nhận khoán. đồng thời hàng tháng quý tổ chức giao ban, ban giám đốc với trưởng phó phòng chuyên môn, trưởng các đoàn thể từ đó rút ra những mặt được, chưa được, từ đó có các biện pháp khắc phục tháo gỡ và xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp kinh doanh tháng, quý tiếp theo đem lại lợi ích kinh tế xã Hội như thúc đẩy phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ dân trí.
Luôn bám sát diễn biến thị trường để đưa ra giải pháp phù hợp ( cả trước mắt và lâu dài) về lãi suất; hình thức huy động linh hoạt phong phú, hấp dẫn phù hợp cung cầu và tâm lý người gửi, mạnh dạn áp dụng những phương thức thanh toán và các dịch vụ tiện ích mới nên nguồn vốn luôn tăng trưởng cao và ổn định.
Mở rộng cho vay với nâng cao chất lượng tín dụng, thủ tục vay gọn hơn, thời gian xét duyệt cho vay và giải ngân được rút ngắn, độ an toàn cao.
1.2)Kết quả đạt được từ phía hộ.
Năm 2004 ở khu công nghiệp Minh Đức có 1324 hộ thì năm 2005 có 1463 hộ, năm 2006 có 1397 hộ vay vốn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Minh Đức số hộ năm 2006 giảm so với năm 2004 và 2005 nhưng quy mô hộ sản xuất lớn hơn và lượng tiền vay nhiều lên.Chúng ta có thể xem xét một số hộ điển hình làm kinh tế giỏi, trung bình và yếu dưới đây:
1.2.1) Trường hợp thứ nhất.
Tại thôn Dương Hoà, xã Minh Đức, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, gia đình chú Nguyễn Văn Tuấn đã có sự dám nghĩ, dám làm giàu và sự thành công trong sản xuất kinh doanh của chú.
Gia đình chú trước đây khi chưa vay vốn của ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức làm nghề tiểu thủ công nghiệp sản xuất giấy tiền và hàng mã nhưng với quy mô nhỏ do không có vốn để thuê thêm nhân công lao động, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, cũng như mở rộng địa điểm sản xuất, số tiền thu được của gia đình chú không đủ giàu vì chỉ đủ gia đình chú trang trải nguyên liệu sản xuất, công vận chuyển, còn số tiền lãi chỉ đủ chi trả cho cuộc sống của gia đình chú; lãi hàng năm mà gia đình chú thu được vào khoảng 18 đến 20 triệu đồng, gia đình chú đạt mức khá ở trong thôn.
Kể từ khi ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Minh Đức ra đời để đáp ứng nhu cầu vốn của các hộ tại khu công nghiệp Minh Đức, được sự giúp đỡ của UBND xã và các cán bộ tín dụng của ngân hàng nông nghiệp tuyên truyền về cho vay vốn của ngân hàng, gia đình chú đã mạnh dạn vay vốn của ngân hàng để thuê thêm lao động, mở rộng xưởng sản xuất, mua máy móc trang thiết bị hiện đại để phục vụ sản xuất, với điều kiện về sản xuất hàng mã và giấy tiền, gia đình chú quyết tâm mở rộng đầu tư cho sản xuất:
với điều kiện gia đình chú có diện tích đất đai rộng và tận dụng nhà ở làm xưởng sản xuất chú đã xây thêm để mở rộng xưởng sản xuất, gia đình chú thuê thêm lao động và mua sắm trang thiết bị, mua nguyên liệu để sản xuất hàng mã và giấy tiền, tổng nhu cầu về vốn là 270 triệu đồng, vốn tự có của gia đình chú là 20 triệu đồng, còn 250 triệu đồng là vấn đề mà gia đình chú rất khó giải quyết, gia đình chú có thế vay của ngân hàng khác, hay vay của tư nhân nhưng mức lãi suất cao lại không an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của gia đình chú, được sự hướng dân của UBND và cán bộ tín dụng gia đình chú đã quyết tâm vay vốn của ngân hàng nông nghiệp đóng ở xã mình, sau khi làm đầy đủ các thủ tục về vay vốn tín dụng của ngân hàng do nhu cầu vốn của gia đình chú là lớn lên ban đầu thủ tục có nhiều khó khăn được sự giúp đỡ của UBND xã và gia đình chú đã thế chấp toàn bộ đất đai của gia đình chú đang ở và đất của mẹ vợ chú để lại thì gia đình chú đã được vay mức tiền theo nguyện vọng với mức lãi suất tiền vay là 0,91%/ tháng theo mức lãi suất ưu tiên của tín dụng cho phát triển hộ của ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức, và thời hạn vay là 3 năm, gia đình chú đã vay dài hạn nguồn vốn này để phục vụ cho việc sản xuất lâu dài, kể từ đầu năm 2003 gia đình chú vay vốn của ngân hàng đến cuối năm 2004 nghĩa là sau 2 năm kể từ khi vay vốn, doanh thu của gia đình chú từ việc sản xuất giấy tiền và hàng mã đã giúp gia đình chú có thể trả hết nợ và có lãi khi thời hạn hoàn trả vốn và lãi của ngân hàng chưa hết, lãi của gia đình chú sau khi trừ lãi vay của ngân hàng 1 năm và chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu, và các chi phí khác bình quân một năm là gần 80 triệu đồng một con số không lớn với thành thị nhưng là lớn ở các địa phương, gia đình chú cũng là gia đình làm giấy tiền và hàng mã tiên phong đi đầu trong việc vay vốn của ngân hàng để mở rộng sản xuất làm giàu cho chính bản thân mình và cho xã hội. Gia đình chú cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động nhàn rỗi ở trong thôn và các thôn lân cận, hiện nay gia đình chú có gia đình chú có hơn 20 lao động thường xuyên phục vụ quá trình sản xuất, thu nhập bình quân của người lao động là 35nghìn đồng/ ngày một mức tiền công không cao so với đô thị nhưng là vừa đủ với người lao động ở nông thôn, trước sự thành công trong sản xuất kinh doanh của mình gia đình chú lại tiếp tục đầu tư thêm trang thiết bị và nguyên liệu để đầu tư sản xuất, vì nghề làm giấy tiền và hàng mã cần lao động thủ công là chính lên chú tiếp tục thuê thêm lao động thời vụ mỗi khi có nhiều đơn đặt hàng đặc biệt là các dịp có nhiều hội chùa và các ngày rằm và mùng một đầu tháng, gia đình chú cũng không ngừng nâng cao đời sống cho các lao động, hiện nay gia đình chú là gia đình làm ăn giỏi không chỉ ở trong thôn mà còn trong xã Minh Đức, gia đình chú đã biết tận dụng nghề làm truyền thống của thôn để làm giàu.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng nhu cầu cần vốn của hộ để phục vụ cho sản xuất của họ là rất lớn, để làm giàu cho chính bản thân họ và cho xã hội, giúp thu hẹp khoảng cách thành thị và nông thôn.
1.2.2)Trường hợp thứ hai
Là hộ của cô Vũ Thị Miến ở thôn Hoè Lâm, xã Ngọc lâm, huyện Mỹ Hào lại là một hộ điển hình về sản xuất nông nghiệp, gia đình cô đã đấu thầu được khu đầm nuôi cá và trồng cây quất cảnh, khu đầm có diện tích rộng lớn, lại thuận tiện cho việc nuôi cá, và đất đai phì nhiêu để trồng cây quất cảnh, với hướng đầu tư thả các loại cá có năng suất cao và phổ biến ngoài bắc như cá chép, cá trắm..và gần 120 cây quất cảnh, trước khi thả cá gia đình cô phải làm công tác vét bùn, làm sạch ao, mua giống cá, thức ăn cho cá, rồi trồng cây quất cảnh phải làm đất, mua cây giống, phân bón...tận dụng lao động trong nhà và có thuê một số lao động làm một số khâu.
với nhu cầu như vậy, tổng nhu cầu vốn của gia đình cô là hơn 200 triệu đồng trong đó vốn nhà cô cũng có một ít, gia đình cô cần vay lượng vốn lớn là 180 triệu đồng, ban đầu khi chưa vay vốn của ngân hàng, gia đình cô cũng như bao gia đình khác làm nông nghiệp tại thôn Hoè Lâm, chỉ trông chờ vào cây lúa và các loại cây ngắn ngày và cây vụ mùa khác thu nhập của gia đình là 15 triệu đồng một năm sau khi đã trừ đi các khoản chi phí giống cây trồng, phân bón và các khoản chi phí khác. Gia đình cô cũng chỉ đủ trang chải cho cuộc sống của gia đình mình. Cũng trong thời gian này xã có một khu đầm nuôi cá và bãi đất rộng rất thuận lợi cho trồng cây được sự giúp đỡ của người anh của cô làm ở xã chị đã nhận được khu đầm này, đồng thời có người bạn cũng trồng cây quất cảnh làm ăn cũng khá đã khuyên gia đình cô trồng cây quất ở bãi đất cạnh đó, lúc đó gia đình cô rất cần vốn không biết vay ở đâu, nếu vay ngoài lãi suất cao đồng thời rủi ro về sản xuất là cao lên gia đình cô cũng e ngại định không đấu thầu khu đầm đó, nhưng khi ngân hàng nông nghiệp được thành lập ở khu công nghiệp Minh Đức được sự giới thiệu của UBND gia đình cô đã làm thủ tục xin vay vốn để sản xuất, với lượng vốn cần vay là 180 triệu đồng là lớn đối với một hộ sản xuất nông nghiệp, lên khi vay vốn gặp nhiều khó khăn, sau nhiều lần và được sự giúp đỡ của anh cô, ngân hàng nông nghiệp cũng cho cô vay 180 triệu đồng với thời hạn vay là 3,5 năm, mức lãi suất theo quy định là 0,91%, vẫn biết trước là sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên lên ngân hàng có chính sách ưu tiên với hộ gia đình cô, bình thường là sản xuất nông nghiệp thường vay vốn ngắn hạn nhưng gia đình cô đã quyết tâm đầu tư lâu dài lên vay vốn dài hạn, sau khi nhận được vốn gia đình cô đã tiến hành sản xuất ban đầu có nhiều khó khăn nhưng sau 2 năm gia đình cô đã ổn định và sản xuất có lãi thu nhập từ việc bán cá và bán cây quất cảnh sau khi trừ đi chi phí về con giống, cây con, phân bón, thức ăn cho cá,tiền đấu thầu và các chi phi khác gia đình cô đã thu được gần 100 triệu đồng đó là một con số lớn đối với sản xuất nông nghiệp, sau gần 1 năm nữa gia đình cô đã hoàn trả vốn gốc và lãi cho ngân hàng trứơc 0,5 năm, số tiền lãi đó cô tiếp tục mở rộng để sản xuất, hiện nay gia đình cô đã là một gia đình giàu có trong thôn.
Gia đình cô đã khẳng định làm giàu có thể từ sản xuất nông nghiệp chứ không phải làm sản xuất phi nông nghiệp và kinh doanh mới giàu được, cũng qua đó cho thấy nhu cầu cần vốn của hộ là lớn như thế nào và ngân hàng phải có những ưu đãi về thủ tục và lãi suất hơn nữa đối với các hộ sản xuất nông nghiệp.
1.2.3)Trường hợp thứ ba
Đây là trường hợp điển hình về làm giàu từ nghề truyền thống của thôn qua nhiều thế hệ truyền lại, đó là hộ gia đình của bác Hà văn Tiến thuộc thôn Thuần Mỹ, xã Hoà Phong, huyện Mỹ Hào, là một gia đình có nghề làm đồ gỗ thủ công lâu đời trong thôn, ban đầu khi chưa vay vốn của ngân hàng gia đình bác cũng làm đồ gỗ thủ công nhưng với quy mô nhỏ và trang thiết bị thô sơ thủ công lên hiệu quả công việc không cao thu nhập từ đó sau khi trừ đi chi phí gỗ, và các chi phí khác gia đình bác một năm bình quân cũng chỉ thu được trên dưới 20 triệu đồng, số tiền này cũng chỉ đủ cho gia đình bác trang trải cuộc sống của gia đình bác, sau khi thấy mấy người trong thôn vay vốn ngân hàng nông nghiệp đóng tại địa phương, bác đã tham khảo ý kiến của những người được vay và đến ngân hàng hỏi về thủ tục vay, bác quyết định mở một xưởng làm đồ gỗ thủ công với quy mô tương đối lớn, thuê thêm lao động có tay nghề làm đồ gỗ trong thôn, mua thêm trang thiết bị như máy tiện, máy khoan....và mua thêm lượng gỗ lớn hơn, với tổng nhu cầu vốn cho hoạt động này là 300 triệu đồng, trong đó gia đình bác có nguồn vốn là 100 triệu đồng, cần phải vay thêm ngân hàng 200 triệu nữa, do số tiền vay lớn gia đình bác cũng gặp khó khăn về thủ tục vay như các hộ vay vốn lớn để sản xuất khác trong khu công nghiệp Minh Đức, sau khi thế chấp tài sản gia đình bác đã được ngân hàng nông nghiệp cho vay lượng tiền 200 triệu đồng, thời hạn vay là 4 năm , lãi suất vay là 0,91%/ tháng, từ khi có được khoản tiền vay bác tiến hành mở rộng quy mô sản xuất, sau gần 4 năm làm gia đình bác đã trả được hết nợ cả gốc và lãi cho ngân hàng, và thu nhập bình quân của gia đình bác sau khi trừ đi các khoản chi phí là hơn 80 triệu đồng, bác còn cho biết ban đầu sản xuất gặp nhiều khó khăn do đơn đặt hàng ban đầu ít nhưng dần đơn đặt hàng nhiều hơn, bây giờ đơn đặt hàng đã nhiều gia đình bác phải trang bị thêm máy móc và thuê thêm lao động có tay nghề trong thôn, thu nhập của người lao động là 50 nghìn đồng/ người/1 ngày công, thu nhập gia đình bác cũng tăng dần trong các năm.
Qua gia đình bác cho thấy lượng vốn cần vay trong dân là rất lớn, ngân hàng nông nghiệp cần phải hoàn thiện thủ tục vay cho các hộ hơn nữa và lên khuyến khích các hộ vay vốn với lượng vốn lớn và dài hạn.
1.2.4)Trường hợp thứ bốn.
Đó là gia đình chị Nguyễn Thị Hà ở thôn Dương Hoà, xã Minh Đức, huyện Mỹ Hào, thấy mọi người trong thôn làm giấy tiền có lãi chị cũng đi học hỏi để biết, sau khi nắm được các khâu làm giấy tiền và hàng mã, gia đình chị cũng làm giấy tiền và hàng mã, lúc đầu khi chưa vay vốn của ngân hàng gia đình chỉ cũng chỉ sản xuất nhỏ trong gia đình theo dạng bán buôn nhỏ lẻ thu nhập bình quân mỗi năm chỉ 10 triệu đồng, gia đình chị coi là bình thường trong thôn, sau khi được tiếp cận với nguồn vốn vay chi đã xin vay ngân hàng 50 triệu đồng để mở rộng sản xuất, với tổng nhu cầu về vốn để thuê thêm lao động và mua các thiết bị làm giấy tiền là 70 triệu đồng, gia đình chị có 20 triệu đồng, còn vay ngân hàng 50 triệu đồng, do gia đình chị vay vốn nhỏ lên thủ tục vay dễ dàng hơn, với thời hạn vay là 3 năm, lãi suất là 0,91%/ tháng, sau 3 năm gia đình chị cũng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng nhưng thu nhập gia đình cũng ở mức bình thường khiêm tốn tuy tăng hơn so với trước kia, do chưa có kinh nghiệm trong việc làm nghề này, chị cho biết doanh thu sau khi trừ đi chi phí và công thuê lao động cũng chỉ còn lại ở mức bình thường.
Qua đó cho thấy không phải đồng vốn nào có ngân hàng cũng có hiệu quả đối với phát triển kinh tế hộ.
1.2.5) Trường hợp thứ năm.
Gia đình anh Nguyễn Văn Minh ở thôn Nho Lâm, xã Ngọc Lâm, huyện Mỹ Hào, gia đình anh chị nuôi gà ta để bán thịt, ban đầu khi chưa vay vốn ngân hàng gia đình anh chủ yếu dựa vào thu nhập từ việc trồng lúa và các loại cây khác, nuôi gà bán thịt với số lượng ít do không có vốn, thu nhập gia đình anh chỉ trên 10 triệu đồng, sau khi được biết ngân hàng nông nghiệp cho vay vốn để phát triển kinh tế hộ, anh đã làm thủ tục xin vay vốn, anh dự định nuôi gà ta để bán thịt với quy mô trang trại nhỏ, do gia đình có đất sẵn lên anh chỉ cần xây thêm chuồng, mua thêm gà giống và thức ăn, thuốc phòng dịch cho gà tổng nhu cầu về vốn là 40 triệu đồng, gia đình anh có 10 triệu đồng, cần vay vốn 30 triệu đồng, sau khi làm các thủ tục cần thiết gia đình anh đựơc vay 30 triệu đồng, do lượng vốn vay không nhiều lên thủ tục vay anh rất dễ dàng không gặp khó khăn, lãi suất vay là 0,91%, thời hạn vay là 2 năm, sau 2 năm gia đình anh cũng gần hoàn trả nợ gốc và lãi của ngân hàng do dịch cúm gia cầm xuất hiện ở mấy năm qua lên gia đình anh đã gặp khó khăn.nhưng hiện nay anh đã trả hết nợ cho ngân hàng và thu nhập gia đình anh từ đàn gà cũng tăng lên đáng kể tuy không nhiều nhưng cũng giúp gia đình anh ổn định cuộc sống và tích luỹ để mở rộng sản xuất.
1.2.6) Trường hợp thứ sáu.
Đó là trường hợp khó khăn của gia đình bác Lê Thị Thành ở thôn Vân Dương, xã Hoà Phong, huyện Mỹ Hào, gia đình bác là gia đình khó khăn, trước khi vay vốn của ngân hàng gia đình bác chỉ nuôi 10 con vịt đẻ trứng lên thu nhập chẳng đáng bao nhiêu chỉ đủ phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, sau khi được biết ngân hàng nông nghiệp cho hộ vay vốn mức lãi suất ưu đãi bác đã mạnh dạn vay vốn ngân hàng để nuôi thêm đàn vịt đẻ trứng, do gia đình bác khó khăn lên việc vay vốn không gặp nhiều khó khăn lắm, số vốn bác cần vay để mua thêm vịt và thức ăn cho vịt là 15 triệu đồng, với thời hạn vay 2 năm, lãi suất 0,91%/ tháng.nhưng do dịch cúm gia cầm làm vịt chết hàng loạt, nên sau 2 năm gia đình bác chưa trả được vốn và lãi cho ngân hàng, gia đình bác lại gặp khó khăn bác đang làm thủ tục vay vốn ngân hàng nông nghiệp để khôi phục lại đàn vịt, nhưng việc vay vốn của bác đang được ngân hàng xem xét.
Qua đó cho thấy sản xuất nông nghiệp là ngành gặp nhiều khó khăn, rủi ro, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, vì thế ngân hàng nông nghiệp phải có chính sách ưu đãi với những hộ gặp rủi ro về vốn do đặc điểm nông nghiệp.
Tuy nhiên qua đó cũng xuất hiện những hộ làm ăn giỏi, làm cho thu nhập của người dân ở địa phương tăng lên, góp phần đổi mới nông thôn, rút ngắn khoảng cách thành thị và nông thôn.
Hộ phát triển làm biến đổi bộ mặt nông thôn mới, cơ cấu kinh tế thay đổi thu nhập của một hộ sản xuất trong năm lớn hơn 50% tổng thu nhập gấp 3-4 lần so với các hộ thuần nông nghiệp.
Hộ phát triển tạo công ăn việc làm cho người lao động tại chỗ, lao động ở các vùng lân cận khắc phục tình trạng lao động theo mùa vụ ở nông thôn.
Hộ phát triển mở rộng thị trường tiêu thụ nông thôn. Qua đó tạo điều kiện nâng cao doanh thu hạ thấp mức rủi ro.
Khu công nghiệp Minh Đức là khu có nhiều nghề truyền thống, từ hoạt động của ngân hàng đã góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng, đặc biệt là một số nghề truyền thống được phục hồi và hưng thịnh như làm đồ gỗ, làm giấy tiền và hàng mã. Có được những thành công như trên là do sự nỗ lực của cả hai bên: ngân hàng ( người bỏ vốn) và khách hàng ( người tiếp nhận vốn) công tác thanh tra, kiểm soát được tiến hành thường xuyên, liên tục và nghiêm túc.
Thông qua tác động của nguồn vốn tín dụng, đời sống người dân được cải thiện và tăng lên, nhiều hộ đã trở thành hộ giàu có.Bộ mặt nông thôn ngày càng được đổi mới, trình độ dân trí ngày càng cao,số hộ giàu có và khá ngày càng tăng, số hộ nghèo ngày càng giảm.
Phát triển Hộ sản xuất góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm bớt lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp.
2)Hạn chế và nguyên nhân.
*Từ phía ngân hàng.
Kết quả hoạt động tín dụng tuy đạt được nhiều kết quả song còn 1 số tồn tại cần được khắc phục đó là:
-Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn chưa đáp ứng được với tốc độ tăng trưởng dư nợ, chưa tương xứng với tiềm năng của ngân hàng.
-Chấp hành quy trình nghiệp vụ ở một số đơn vị chưa đầy đủ hồ sơ cho vay còn thiếu yếu tố hợp lệ, việc xếp loại khách hàng, xác định hiệu quả kinh tế của dự án định kỳ hạn trả nợ, kiểm tra sử dụng vốn vay của một số trường hợp chưa đạt yêu cầu.
-Một số đơn vị điều hành cơ cấu cho vay chưa hợp lý, tỷ lệ cho vay trung hạn và dài hạn còn cao. Đặc biệt một số ngân hàng chưa chú trọng công tác phân tích thực trạng dư nợ, đánh giá không đầy đủ, không sát với thực tế của khách hàng, do đó còn lúng túng trong công tác chỉ đạo điều hành để nợ quá hạn phát sinh, xử lý nợ còn tồn đọng chưa kiên quyết.
-Doanh số cho vay chưa cao chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng.
-Số Hộ vay vốn trung và dài hạn còn ở con số rất khiêm tốn, gây trở ngại cho các khách hàng có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài.
Nguyên nhân tồn tại là do:
+Do những khó khăn khách quan của nền kinh tế, của xã Hội tác động.
+Do chủ quan:
-Kiểm tra, kiểm soát tín dụng của một số ngân hàng cơ sở chưa chặt chẽ, chưa kiên quyết xử lý thu hồi nợ.
-Trình độ nghiệp vụ tín dụng của một số cán bộ chưa đồng đều, chưa đáp ứng yêu cầu trong cơ chế thị trường, như cán bộ mới vào ngành nghề, đa số cán bộ còn hạn chế về nghiệp vụ tín dụng doanh nghiệp,Hộ gia đình, trang trại,nghiệp vụ tín dụng đầu tư theo dự án lớn. Đây là nguyên nhân quan trọng cần có chiến lược khắc phục trong thời gian tới.
Do có những thành tích xuất sắc về hoạt động kinh doanh hoàn thành cao cả và phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế xã Hội trong những năm qua, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Minh Đức là đơn vị kinh tế tiêu biểu của huyện Mỹ Hào hay trong tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp đổi mới, được giám đốc ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hưng Yên và uỷ ban nhân dân huyện Mỹ Hào tặng bằng khen về công tác lao động xã Hội.
*Từ phía Hộ.
Các Hộ sản xuất còn ít, nhỏ bé, trình độ lạc hậu chưa đủ sức làm chuyển đổi nhanh, mạnh cơ cấu kinh tế của khu công nghiệp Minh Đức cũng như huyện Mỹ Hào. Gía trị sản lượng, sản xuất tiểu thủ công nghiệp do các Hộ sản xuất tạo ra chiếm khoảng trên 26% giá trị sản xuất của huyện Mỹ Hào và số lượng Hộ sản xuất chiếm khoảng 7% trên tổng số Hộ sản xuất của huyện Mỹ Hào. Tỷ lệ lao động làm công nghiệp còn rất nhỏ và công nghệ lạc hậu do vậy sản xuất của các Hộ sản xuất chưa tác động đáng kể tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế của khu công nghiệp Minh Đức và của huyện Mỹ Hào.
-Thị trường của các Hộ sản xuất còn nhỏ bé bấp bênh khả năng cạnh tranh các sản phẩm của các Hộ sản xuất còn yếu, kém và hình thức tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của các Hộ sản xuất là nhỏ lẻ, không tiêu thụ trực tiếp trên thị trường mà qua trung gian, thị trường nhỏ bé và bấp bênh như vậy là do:
+Khả năng tiếp cận của Hộ sản xuất với thị trường còn nhiều hạn chế.
+Đổi mới công nghệ khoa học kỹ thuật còn chậm, công nghệ ở trình độ thấp.
+Nội lực của các Hộ sản xuất còn kém, khó tự vươn lên đựơc do vốn đổi mới thiết bị và sản xuất kinh doanh còn hạn chế do vốn vay ngân hàng có nhiều khó khăn:
-Thủ tục vay còn khó khăn, vay vốn nhiều phải thế chấp nhưng nội lực của Hộ sản xuất không cho phép Hộ vay nhiều.
-Lượng tiền vay của ngân hàng nông nghiệp cho Hộ vay là một lượng nhỏ chỉ đủ tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất, chứ mở rộng sản xuất là rất khó khăn do ngân hàng có khái niệm cho doanh nghiệp vay thì lãi suất cao hơn đồng thời khả năng rủi ro thấp.
-Thời hạn vay của Hộ sản xuất là dài vì phụ thuộc vào đặc điểm của sản xuất nông nghiệp lên ngân hàng còn e ngại khi cho Hộ vay chỉ giám cho vay lượng nhỏ và thời hạn vay là rất ngắn.
-Lãi suất vay của ngân hàng nông nghiệp cho Hộ sản xuất vay là thấp hơn so với các doanh nghiệp vay theo quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nứơc vì thế cán bộ tín dụng vẫn có tâm lý ưu tiên cho các doanh nghiệp vay hơn các Hộ vay.
+Sự phát triển của Hộ sản xuất đang gây ô nhiễm môi trường nặng nề, do công nghệ lạc hậu, chưa có thiết bị xử lý chất thải.
+Môi trường thể chế cho phát triển Hộ ở nông thôn chưa được hình thành đồng bộ và khuyến khích phát triển Hộ sản xuất, thiếu chính sách phát triển Hộ như chính sách đất đai cho phát triển Hộ và sản phẩm, chính sách nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ…Do đó trong một thời gian dài các Hộ phát triển trong tình trạng tự phát vật lộn với nhiều khó khăn.
+Sự phát triển của nông nghiệp nông thôn còn ở trình độ thấp, hiện nay như sản xuất nông nghiệp còn mang tính chất thuần nông, hiệu quả thấp, thu nhâp và sức mua của người nông dân thấp là do những cản trở không nhỏ gây khó khăn cho phát triển Hộ sản xuất ở nông thôn công tác dư nợ hàng năm vẫn tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Dư nợ ngắn ngày vẫn chiếm tỷ lệ cao số xử lý nợ quá hạn trong các năm vẫn tăng lên và nợ quá hạn ngắn ngày vẫn chiếm 1 lượng lớn. Điều này rất phù hợp với thực tế hiện nay các dự án vay dài ngày để phát triển Hộ là rất khiêm tốn. Qua đó cho thấy ngân hàng cần có hướng hoạt động đẩy số dư nợ dài ngày tăng lên hơn nữa, tạo điều kiện cho các chủ Hộ vó vốn quay vòng, mua sắm các máy móc trang thiết bị, hiện đại hoá quy trình sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của Hộ trên thị trường.
Nói tóm lại trong những năm đổi mới vừa qua các Hộ sản xuất ở khu công nghiệp Minh Đức nói riêng và cả huyện Mỹ Hào cũng như tỉnh Hưng Yên nói chung đã phát triển sôi động theo hướng đóng góp, theo hướng tích cực trên các mặt như: thu hút được nhiều lao động làm nghề phi nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho các Hộ cũng như người dân, tăng sản phẩm của huyện đóng góp vào tỉnh và tỉnh đóng góp vào đất nước, phát huy nội lực của địa phương trong phát triển kinh tế- xã Hội, duy trì nghề gắn với từng xã tạo nét riêng biệt về sản phẩm đặc trưng của mỗi xã như: xã Ngọc Lâm làm nông nghiệp truyền thống, xã Hoà phong làm nghề mộc truyền thống, xã Minh Đức làm nghề thủ công.
Tuy nhiên phát triển Hộ sản xuất đang gặp các khó khăn tồn tại như: các Hộ sản suất đi lên theo hướng nào? Làm thế nào để khắc phục? vượt qua các yếu tố vốn có của nông nghiệp( công nghệ, thị trường, vốn và khả năng cạnh tranh) trong điều kiện nội lực của các Hộ có hạn, đặt ra câu hỏi cho các nhà làm tín dụng là làm thế nào để cho Hộ sản xuất vay vốn được nhiều hơn.
Chương III: Phương hướng và biện pháp chủ yếu hoàn thiện hoạt động tín dụng của ngân hàng cho phát triển kinh tế Hộ của Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn khu công nghiệp Minh Đức.
I)Quan điểm cơ bản về tín dụng cho phát triển kinh tế Hộ.
-Tín dụng bổ xung nguồn vốn thiếu hụt cho Hộ sản xuất, trên thực tế cho thấy Hộ sản xuất phát triển phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, nguồn giống cây trồng, vật nuôi, có những lúc do nhận được nhiều đơn đặt hàng hoặc có thêm nguồn nguyên liệu, giống cây trồng vật nuôi đòi hỏi có thêm lượng vốn nhất định, các hoạt động sản xuất của Hộ cũng chụi ảnh hưởng bơỉ tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp vì vậy ở thời điểm này thì thừa vốn nhưng ở thời điểm khác thì lại cần có sự bổ sung thêm vốn và việc bổ sung thêm vốn này bằng cách vay tín dụng ngân hàng sẽ bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời này giúp cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục không bị gián đoạn, từ đó nâng cao chất lượng và uy tín cho cơ sở sản xuất của Hộ.
-Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Hộ sản xuất hay các tổ chức khi tham gia vay vốn ngân hàng đều phải trả lãi, họ phải có trách nhiệm thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng sau một thời gian nhất định sự rằng buộc về mặt tài chính này buộc Hộ sản xuất và các tổ chức cá nhân phải làm ăn có hiệu quả vì vậy họ phải tính toán cẩn thận sao cho chi phí đầu vào là thấp nhất, doanh thu phải cao nhất, nhằm thu được lợi ích cao nhất có thể được, doanh thu mà Hộ sản xuất nhận được phải đảm bảo bù đắp đủ chi phí sản xuất, lãi ngân hàng và có tích luỹ.
Thông qua mối quan hệ rằng buộc này ngân hàng đã gián tiếp buộc Hộ sản xuất làm thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng cách nâng cao trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm.
-Góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ thiết bị của Hộ hầu hết còn sơ sài, nhiều cơ sở tạm bợ, chưa đảm bảo đủ tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh công nghiệp, tình trạng môi trường ngày càng ra tăng ảnh hưởng tới sức khoẻ và sinh hoạt của người dân trong khu vực này.
-Các Hộ ngành nghề thường tận dụng nhà ở làm chỗ sản xuất lên thường trật trội, trình độ thiết bị công nghệ của các Hộ còn thấp, máy móc cơ khí còn ít phổ biến vẫn sử dụng công cụ và lao động thủ công. Vì vậy khi được tiếp nhận nguồn vốn của ngân hàng nông nghiệp các Hộ sản xuất từng bước tiếp nhận và nâng cao trình độ công nghệ kỹ thuật phục vụ cho sản xuất, hiện đại hoá công nghệ sản xuất, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm thúc đẩy Hộ phát triển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hoá.
-Góp phần thúc đẩy các Hộ sản xuất hiện tại phát triển còn các Hộ sản xuất mới thì tín dụng ngân hàng cung ứng vốn để duy trì và mở rộng sản xuất, qua đó giúp Hộ sản xuất ngày một phát triển, từ đó xuất hiện thêm nhiều các hình thức sản xuất kinh doanh phục vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của xã Hội.
Nói tóm lại tín dụng ngân hàng nông nghiệp cung cấp vốn để Hộ mua sắm trang thiết bị công nghệ, tín dụng ngân hàng nông nghiệp là người hỗ trợ đắc lực cho Hộ sản xuất phát triển.
II)Phương hướng chủ yếu về huy động vốn , cho vay, đối tượng vay.
Hộ là một lực lượng sản xuất, một bộ phận hợp thành của nền kinh tế, cả nước lên phát triển Hộ sản xuất đặt trong mối quan hệ thống nhất với chiến lược phát triển kinh tế xã Hội.
Phát triển Hộ phải không ngừng hiện đại hoá công nghệ và sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh, phải kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển toàn diện bền vững nông nghiệp- nông thôn.
Phát triển Hộ theo hướng sản xuất hàng hoá.
Phát triển Hộ trên cơ sở huy động mọi nguồn lực ở nông thôn, tận dụng lao động ở nông thôn.
dưới đây là các phương hướng hoàn thiện hoạt động tín dụng cuả ngân hàng nông nghiệp cho phát triển kinh tế Hộ.
1)Phương hướng về huy động vốn.
Tăng cường đầu tư vốn cho Hộ để sản xuất. Trong tình hình hiện nay, kinh tế Hộ đang có sự phát triển mạnh mẽ, vốn đầu tư ban đầu không lớn, có thể tận dụng nhà làm nơi sản xuất, kết hợp giữa lao động thủ công và công nghệ hiện đại tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao vì vậy để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của Hộ, ngân hàng nông nghiệp cần đưa ra phương hướng huy động vốn:
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huy động vốn bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng và các công cụ khác theo quy định của pháp luật vì vậy ngân hàng nông nghiệp cần phải thúc đẩy các hoạt động sau:
-huy động tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác với lãi suất gửi phù hợp.
-Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá trị khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được thống đốc ngân hàng chấp nhận.
-Tăng cường vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và tổ chức tín dụng nước ngoài.
-Tăng cường vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước dưới hình thức tái cấp vốn.
-Đồng thời tăng cường các hình thức huy động vốn khác theo quy định của ngân hàng nhà nước.
2)Phương hướng cho vay vốn.
Mở rộng hình thức cho vay theo tổ nhóm hợp tác, thông thường các Hộ sản xuất rất coi trọng uy tín của mình, vì vậy thong qua hình thức này sẽ giúp cho các Hộ không có điều kiện về thế chấp tài sản cũng được vay vốn, ngân hàng cần đẩy mạnh hình thức cho vay theo phương thức này vì qua đó các tổ sẽ giúp ngân hàng trong khâu thẩm định dự án một cách cẩn thận, chu đáo và có trách nhiệm trước khi dự án được gửi lên ngân hàng, ấn định mức vay phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng không cao quá hoặc thấp quá, tránh được tình trạng thất thoát vốn cho ngân hàng, ngân hàng đang áp dụng hai phương thức cho vay đối với Hộ sản xuất là:
-Cho vay từng lần: Hộ vay vốn và ngân hàng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng, đây là phương thức cho vay chủ yếu và truyền thống từ trước đến nay do những Hộ sản xuất vay với số tiền nhỏ, không thường xuyên, không ổn định, lên hạn chế phương thức cho vay này vì:
+Người vay phải gánh chụi lãi cho tất cả số tiền được vay mặc dù mức độ sử dụng vốn vay là khác nhau và không được sử dụng hết.
+Trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ có phát sinh và cần vay thêm vốn nhưng các hoạt động sản xuất trong chu kỳ đó chưa kết thúc, vốn chưa hoàn lại đủ, chưa có điều kiện để trả cho ngân hàng để vay tiếp đợt mới.
+Thủ tục và các hợp đồng tín dụng còn phiền hà, gây khó khăn cho khách hàng đến với ngân hàng làm hạn chế mức độ vay vốn và sử dụng vốn tín dụng ngân hàng mà nhất là Hộ sản xuất kinh doanh.
-Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Ngân hàng và khách hàng đến vay xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh, phương thức này áp dụng cho khách hàng vay ngân hàng có nhu cầu thường xuyên, kinh doanh ổn định, đối với khách hàng quen luôn được ngân hàng ưu tiên, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất, lên duy trì phương thức cho vay này.
3)Phương hướng đối với từng đối tượng cho vay.
Tăng cường tiếp cận vơi các Hộ sẽ giúp cho ngân hàng hiểu rõ được đối tượng mình cho vay vốn đồng thời người đi vay cũng nắm rõ được các thủ tục cần thiết khi tham gia vay vốn, không để xảy ra tình trạng do thiếu thông tin về ngân hàng nên các Hộ vẫn cho rằng ngân hàng chỉ cho vay tối đa 50 đến 100 triệu đồng như quỹ tín dụng hay ngân hàng tại địa phương họ, thủ tục vay rắc rối, chờ đợi lâu và để vay được đồng vốn của ngân hàng thì rất khó khăn trong khi đó số tiền vay được lại quá nhỏ.
Do vậy việc tiếp cận với các Hộ để tìm hiểu nhu cầu vay vốn của họ là điều rất cần thiết có như vậy thì chất lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng mới được nâng cao và hoàn thiện hơn.
III)Các giải pháp chủ yếu.
1)Giải pháp về lãi suất vay.
Việc vận dụng lãi suất ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức phải thường xuyên nghiên cứu thị trường vốn lãi suất của các tổ chức tín dụng trên địa bàn, áp dụng mức lãi suất tuỳ theo từng đối tượng vay vốn đúng với quy định của giám đốc ngân hàng Việt Nam áp dụng mức lãi suất thế nào sao cho vừa có lợi kinh doanh cho ngân hàng vừa thúc đẩy kinh tế Hộ phát triển.
Lãi suất bình quân đầu vào và đầu ra của ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức nêu ra ở phần thực trạng vẫn chưa hiệu quả chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và đầu ra còn lớn cần phải điều chỉnh cho phù hợp.
Ngân hàng nông nghiệp khu công nghiệp Minh Đức cần áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn đối với khách hàng, áp dụng lãi suất giảm dần khuyến khích các Hộ vay vốn lớn sản xuất kinh doanh có hiệu quả và trả nợ ngân hàng đúng thời hạn trên cơ sở nắm bắt kịp thời nhu cầu vốn của Hộ, phải thường xuyên phân loại khách hàng để chủ động áp dụng phương thức cho vay, phải giữ vững khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới.
2)Giải pháp về thời hạn vay.
Bình thường thời hạn vay vốn là khoảng thời gian thoả thuận giữa hai bên, ở cuối mỗi thòi hạn đó khách hàng phải thanh toán một phần hay toàn bộ số tiền được vay của ngân hàng.
Có ba thời hạn vay là vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, trong đó nợ trung và dài hạn được hoàn trả theo phương thức phân kỳ, ở mỗi kỳ trả nợ người vay phải trả một phần nhất định và độ dài thời gian của từng thời kỳ phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Do tính chất của sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính thời vụ, theo chu kỳ sản xuất kinh doanh vì thế ngân hàng nông nghiệp cần phải đẩy cao tỷ trọng cho vay trung hạn và dài hạn, hạn chế vay ngắn hạn tạo điều kiện cho Hộ sản xuất an tâm khi vay vốn để sản xuất nông nghiệp.
3)Giải pháp về điều kiện vay.
Cần phải giảm quy trình cho vay, tránh gây phiền hà cho Hộ cần vay vốn, tránh thói cậy quyền của cán bộ tín dụng khi cho Hộ vay vốn, giảm bớt điều lệ khi vay vốn trung hạn và dài hạn đặc biệt là có chính sách phù hợp không phải thế chấp tài sản khi Hộ vay vốn lớn.
Tóm lại ngân hàng nông nghiệp phải tạo điều kiện sao cho điều kiện vay vốn là đơn giản nhất đối với phát triển kinh tế Hộ.
4)Giải pháp về đối tượng vay.
Nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực rộng lớn và phức tạp, gồm nhiều đối tượng cần vốn vì vậy cần phải phân loại đối tượng vay, mục đích vay của việc vay vốn, hiệu quả sử dụng vốn vay ra sao cần phải tập trung khuyến khích các Hộ nghèo vay vốn của ngân hàng để sản xuất và có chính sách ưu tiên về lãi suất, thời hạn, thủ tục vay đối với các Hộ này để thúc đẩy phát triển kinh tế Hộ.
5)Giải pháp về lượng tiền vay.
Các chủ Hộ khi tham gia vay vốn ngân hàng chủ yếu là để phát triển sản xuất, mở rộng quy mô, tăng doanh thu….lên cần một lượng vốn tương đối lớn, ngân hàng nông nghiệp cần khuyến khích các Hộ vay vốn lớn có chế độ ưu tiên về lãi suất, thời hạn, điều kiện vay, đặc biệt khuyến khích các Hộ sản xuất nông nghiệp vay vốn lớn để mở rộng sản xuất.
Kiến nghị
Cần phải thay đổi phương thức hoạt động, coi hộ là đối tượng để đầu tư lâu dài mặc dù họ còn yếu kém về nhiều mặt, luôn theo dõi và phân tích tình hình kinh doanh của họ để lựa chọn đối tượng và đáp ứng kịp thời vốn theo yêu cầu của sản xuất kinh doanh( số lượng, thời hạn, phương thức trả nợ cả gốc và cả lãi) nhanh chóng xoá bỏ các điều kiện về tài sản thế chấp một cách cứng nhắc về lề lối hành chính quan liêu trong việc xem xét dự án kinh doanh.
Ngân hàng nông nghiệp cần tìm kiếm thêm nguồn vốn dài hạn để đáp ứng thêm nhu cầu đầu tư ban đầu cho các hộ sản xuất nông nghiệp. Trong khung vay ngắn hạn của ngân hàng cần mở rộng thời hạn vay ngắn hạn của ngân hàng, ngoài ra ngân hàng cũng phải xem xét đến lãi suất, đối tượng vay, mục đích vay, lượng tiền cho vay.
Kết luận
Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay, phát triển hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp- công nghiệp ở nông thôn là điều tất yếu, hộ là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ, vốn là một yếu tố quan trọng không thể thiếu, nó quyết định sự tồn tại và phát triển kinh tế của hộ trong đó vốn tín dụng đã góp phần không nhỏ vào phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sử dụng vốn trong phát triển kinh tế hộ, làm cho cơ cấu kinh tế nông thôn có bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp. Qua đó khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Minh Đức trong việc đầu tư vốn tín dụng cho phát triển kinh tế hộ.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì ngân hàng vẫn còn bộc lộ những thiếu xót cần phải đựơc khắc phục nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác cho vay vốn của ngân hàng nông nghiệp đối với phát triển kinh tế hộ. Ngân hàng cần có phương hướng về huy động vốn tối đa nguồn vốn nhàn rỗi để hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế hộ vay vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, phương hướng về cho vay vốn và đối tượng cho vay đồng thời có những biện pháp về lãi suất, thời hạn, điều kiện và lượng tiền vay. Từ đó tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng và các hộ, hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Tài liệu tham khảo
1-Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam-NXB chính trị quốc gia.
2-Nghiệp vụ tín dụng dành cho cán bộ tín dụng-NHNN&PTNT.
3-Báo cáo kết quả kinh doanh-Phòng kinh doanh NHNN khu công nghiệp Minh Đức các năm.
4-Các loại tạp chí sách báo NN&PTNT tỉnh Hưng Yên.
5-Giáo trình kinh tế nông nghiệp-ĐHKTQD.
6-Giáo trình phân tích chính sách nông nghiệp-nông thôn-ĐHKTQD.
7-Giáo trình quản trị kinh doanh nông nghiệp-ĐHKTQD.
8-Tín dụng ngân hàng-TS Hồ Diệu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32082.doc