Chuyên đề Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội

Thẩm định dự án đầu tư là một công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải luôn hoàn thiện cả về phương pháp luận cũng như qua thực tế. Tuy nhiên để làm được điều này không phải là đơn giản mà cần phải có sự nỗ lực của toàn hệ thống ngân hàng cũng như sự phối hợp đồng bộ của các cấp, ngành liên quan. Trong phạm vi giới hạn về không gian và thời gian, địa điểm, luận văn đã đạt được những kết quả sau: 1. Hệ thống lại một số vấn đề lý luận về công tác thẩm định dự án đầu tư, phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. 2. Phân tích thực trạng công tác thẩm định tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Từ đó đánh giá kết quả đạt được, phát hiện những khuyết điểm và lý giải nguyên nhân của những tồn tại trên. 3. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội Tuy bài viết còn nhiều khiếm khuyết nhưng với những kết quả đạt được ở trên em xin đóng góp một phần nhỏ bé cho việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn • Thầy giáo- tiến sĩ Nguyễn Hồng Minh Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân • Trường Phòng Tín Dụng NHNo&PTNN Bắc Hà Nội - Phan Châu Giang cùng các cô, chú tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.

doc113 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ối với các dự án ở dạng này cán bộ tín dụng chỉ cần tính một số chỉ tiêu cơ bản về tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và một số chỉ tiêu tài chính của dự án. Do yếu tố quy mô nên một phần nào kỹ năng và kinh nghiệm của cán bộ không được bổ sung trau dồi thêm. - Về công tác thông tin và tư vấn NHNo&PTNT Bắc Hà Nội đã có một kho lưu trữ thông tin về từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế nhưng chỉ do từng cán bộ chuyên trách từng mảng đảm nhiệm và chưa mang tính chất chuyên nghiệp nên chất lượng khai thác thông tin chưa được tốt. Mục tiêu thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng là giúp cho doanh nghiệp lựa chọn được phương án tối ưu, song trên thực tế doanh nghiệp chỉ gửi đến ngân hàng một phương án kinh doanh do đó ngân hàng không có điều kiện để đánh giá so sánh các phương án với nhau. Về điều này chi nhánh cũng chưa yêu cầu doanh nghiệp thực hiện nên thực tế chỉ thẩm định một phương án duy nhất mà khách hàng đưa ra. - Về chất lượng thẩm định Mặc dù tất cả các dự án cho vay vốn gửi đến đều được ngân hàng tiến hành thẩm định song chất lượng thẩm định chưa cao nhiều khi chỉ mang tính hình thức, thủ tục, chưa đi sâu vào đánh giá một cách khách quan, toàn diện các khía cạnh của dự án, đặc biệt là những dự án vay vốn theo chỉ định của nhà nước thông qua ngân hàng. Việc thẩm định dù tiến hành theo đúng quy trình với đầy đủ các bước nhưng nội dung trong mỗi bước còn sơ sài, chung chung. Các nội dung thẩm định thị trường, kỹ thuật, môi trường, tài chính nhiều khi chấp nhận theo ý kiến của chủ đầu tư hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định phê duyệt. Cán bộ thẩm định chỉ đưa vào các số liệu do doanh nghiệp cung cấp để tính toán các chỉ tiêu kinh tế- tài chính mà không chủ động thu thập các thông tin ở các nguồn đáng tin cậy khác hoặc tiến hành khảo sát thực tế khu vực dự định đầu tư xây dựng để kiểm tra tính hợp lý của các dòng thu nhập, chi phí, làm cho những chỉ tiêu được tính toán ra thiếu cơ sở khoa học và trở nên không có ý nghĩa. NHNo&PTNT Bắc Hà Nội phần lớn cho vay trung dài hạn đối với các doanh nghiệp nhà nước và là những khách hàng truyền thống, có uy tín. Song điều đó không có nghĩa là cán bộ tín dụng được phép dễ dãi, buông lỏng trong khâu thẩm định, tạo cơ hội cho doanh nghiệp lợi dụng để chiếm dụng vốn của ngân hàng. Khi tiến hành thẩm định khách hàng vay vốn, mặc dù cán bộ thẩm định có tiến hành lập bảng số liệu về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính và có tính toán một số chỉ tiêu kinh tế nhưng việc lập và tính toán các chỉ tiêu này không được phân tích sâu sắc triệt để. Thường cán bộ thẩm định rút ra nhận xét rất chung chung: tình hình sản xuất kinh doanh là khá tốt, tình hình tài chính tương đối ổn định. Trong khi nếu được phân tích kỹ càng sẽ có không ít những chỉ tiêu khiến cho người thẩm định phải cân nhắc trước khi đưa ra nhận xét. Các chỉ tiêu NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, điểm hoà vốn, phân tích độ nhạy là có ý nghĩa rất lớn trong việc thẩm định dự án đầu tư nhưng ngân hàng chỉ mới khai thác nó ở mức độ thấp. Trong quy trình thẩm định nói chung có đề cập đến việc phân tích rủi ro của dự án dựa trên việc tính toán và phân tích độ nhạy của dự án, song thực tế không được sử dụng. Trong quá trình thẩm định dự án đầu tư, chi nhánh chưa hiểu đúng bản chất của thẩm định tài chính. Do đó, đã quá tập trung vào việc xem xét khả năng trả nợ hàng năm của dự án qua việc tính toán nguồn trả nợ bằng khấu hao + lợi nhuận ròng. Ngân hàng rất ít quan tâm đến hiệu quả tài chính cuối cùng của toàn bộ dự án đầu tư. Xuất phát từ quan điểm như vây, ngân hàng đã lựa chọn các dự án đầu tư không dựa nhiều vào các hiệu quả NPV, IRR. Có những dự án chi nhánh tính cả hai nhóm khấu hao + lợi nhuận để lại hàng năm với tỷ lệ khá lớn nên đến khi trả nợ doanh nghiệp không trả nợ được và phải gia hạn nợ. Khi tính chỉ tiêu thời gian hoàn vốn, cán bộ tín dụng đã không lưu ý đến giá trị thời gian của tiền tệ nên chỉ tiêu tính toán không được chính xác. Cán bộ tín dụng chỉ tính trên giá trị luỹ kế của lợi nhuận và khấu hao hàng năm với tổng mức vốn đầu tư một cách đơn thuần chứ không tính đến giá trị thời gian của đồng tiền. Chúng ta biết rằng đồng tiền có những giá trị khác nhau theo thời gian, chẳng hạn một đồng ngày hôm nay sẽ có giá trị hơn ngày mai. Ở đây cũng vậy, thời điểm bỏ vốn đầu tư và thời điểm thu hồi vốn là khác nhau và thường cách xa nhau nên giá trị của nó cũng khác nhau. Do vậy nếu tính thời gian hoàn vốn theo cách đơn thuần và cách có tính đến giá trị thời gian của tiền tệ (hệ số chiết khấu) thì kết quả sẽ khác xa nhau. Cụ thể ở thẩm định dự án đầu tư xây dựng nhà may sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc: Nếu tính thời gian hoàn vốn giản đơn như doanh nghiệp và ngân hàng tính thì có kết quả là 3,14 năm còn theo cách điều chỉnh (có tính đến lãi suất chiết khấu 10%) thì thời gian này lên tới 4 năm 8 tháng. Ngân hàng hầu như bỏ qua việc phân tích báo cáo việc lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp trong khi đó nó mới là báo cáo phản ánh đúng tình hình thực tế ngân quỹ, khả năng thanh toán của doanh nghiệp, còn các số liệu trên bảng cân đối kế toán chỉ là số liệu trong sổ sách. Hiện nay việc thẩm định tài sản đảm bảo vẫn chưa được chi nhánh quan tâm đúng mức . Đối với các doanh nghiệp Nhà nước khi vay vốn hầu như không cần tài sản đảm bảo còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì ngược lại, ngân hàng chỉ cho vay khi có đầy đủ tài sản đảm bảo. Vì vậy đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cũng như chính ngân hàng. Có những dự án rất khả thi nhưng do không có đủ tài sản đảm bảo nên đã không được duyệt vay. Thực tế điều này là không hợp lý vì theo cơ chế đảm bảo tiền vay: khách hàng vay vốn (không phân biệt là doanh nghiệp Nhà nước hay ngoài quốc doanh) đủ điều kiện quy định thì được tổ chức tín dụng xem xét, lựa chọn cho vay không có tài sản đảm bảo. Nên chăng chi nhánh cần xem xét lại vấn đề này bởi vì không phải tài sản thế chấp bao giờ cũng có đủ giá trị hoặc dễ phát mãi (chẳng hạn như thế chấp dây chuyền công nghệ lạc hậu). Nếu quá chú trọng đến tài sản đảm bảo thì sẽ gây nên sự chủ quan, yên tâm cho cán bộ cán bộ tín dụng vào tài sản thế chấp, ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay cũng như uy tín của ngân hàng. - Về đội ngũ cán bộ Đội ngũ cán cộ thẩm định dự án ở phòng kinh doanh hiện nay chưa được nhiều, số cán bộ có chuyên môn cả về nghiệp vụ ngân hàng và chuyên ngành kỹ thuật là rất hạn chế. Chi nhánh vẫn chưa có tổ thẩm định do quy mô còn nhỏ, điều này dẫn đến tính thống nhất đầy đủ các nội dung thẩm định là chưa cao. Được biết hiện nay hệ thống ngân hàng công thương quy định cán bộ cho vay độc lập với cán bộ thẩm định. Phải chăng chi nhánh chưa thực hiện vấn đề này là một nguyên nhân gây nên không đảm bảo tính khách quan trong quá trình thẩm định. 2.3.3. Nguyên nhân Những tồn tại trong công tác thẩm định dự án đầu tư tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội là do ảnh hưởng của của nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan. Bao gồm những nguyên nhân chính sau: 2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan - Do môi trường vĩ mô Do môi trường kinh tế chưa ổn định làm cho sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài còn hạn chế. Việc cạnh tranh giữa doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng còn nhiều bất cập vì các doanh nghiệp Nhà nước hầu như được ưu tiên trong mọi lĩnh vực đầu tư. Hơn nữa, các doanh nghiệp Nhà nước ngoài một số ít đơn vị làm ăn có hiệu quả thì phần lớn làm ăn thua lỗ, cầm chừng, vốn chủ sở hữu thấp khiến Nhà nước phải xoá nợ, khoanh nợ. Cơ chế quản lý Nhà nước còn nhiều lỏng lẻo, dẫn đến những sơ hở tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cá thể có hành vi lừa đảo. - Do chính sách, pháp luật Bên cạnh đó, sự ban hành chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật, quy chế của Nhà nước tạo ra những lúng túng dẫn đến việc thực hiện không đúng do hiểu sai của cán bộ tín dụng. Cơ chế chính sách tín dụng ban hành chậm, không đồng bộ và không đầy đủ gây khó khăn cho các cán bộ tín dụng trong công tác tín dụng. Việc thường xuyên thay đổi các chính sách của Nhà nước làm cho cán bộ tín dụng không dám cho vay với những dự án có liên quan đến sự thay đổi đó. Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC) hoạt động còn chưa rộng rãi, những thông tin vĩ mô còn hạn chế, việc trao đổi thông tin giữa các ngân hàng chưa có hiệu quả. - Do doanh nghiệp Công tác quản lý về Nhà nước về pháp lệnh kế toán, thống kê đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được quan tâm đúng mức. Các chuẩn mực kế toán chưa được tuân thủ, thêm vào đó là chế độ kiểm toán chỉ mang tính hình thức, trong khi kiểm toán độc lập thì chi phí cao. Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến các báo cáo tài chính doanh nghiệp khi trình lên ngân hàng không đáng tin cậy, khiến cho việc đánh giá một cách chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp là hết sức khó khăn. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng để ngân hàng thiết lập và đảm bảo chất lượng tín dụng. Khi doanh nghiệp không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, kịp thời các số liệu này thì quan hệ tín dụng sẽ thiếu đi sự tin tưởng, gắn kết lẫn nhau và gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng. Theo quyết định số 324/1998/NHNN1 ngày 30/9/1998: Ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư khả thi, khả năng tài chính của khách hàng… Song thực tế khi tiến hành thẩm định khách hàng vay vốn, doanh nghiệp đã không tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện nghĩa vụ theo dõi, nắm bắt tình hình sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp có dự án mang tính khả thi cao song do hạn chế trong phương pháp lập hoặc không có tài sản thế chấp hợp pháp nên dẫn đến việc do dự của ngân hàng trong quyết định cho vay. Giá cả hàng hoá nhất là các sản phẩm nông nghiệp quá thấp, người sản xuất không bù đắp được chi phí nên không có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào ngành này dẫn đến đối tượng cho vay của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội bị hạn chế. Đối với dự án đầu tư mà doanh nghiệp trình cho ngân hàng, do bản thân doanh nghiệp chưa có đủ trình độ hiểu biết về chuyên môn, không nắm được đầy đủ thông tin từ thị trường nên việc phân tích, xử lý thông tin không chính xác dẫn tới quyết định sai lầm trong kinh doanh hoặc khách hàng cố tình làm tốt dự án lên để được ngân hàng cho vay. Kết quả là các dự án đầu tư mà khách hàng trình lên còn mang tính chủ quan, thiếu thực tiễn. 2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan Ngân hàng thiếu những thông tin chính xác về hoạt động kinh doanh năng lực tài chính của khách hàng do hoạt động thu thập thông tin không đa dạng. Ngân hàng chủ yếu dựa vào thông tin do khách hàng cung cấp còn thông tin do các nguồn khác thường rất hạn chế. Hoạt động thông tin của trung tâm tín dụng của ngân hàng Nhà nước còn chưa được phổ biến rộng rãi. Một số cán bộ tín dụng còn thiếu kiến thức về phân tích tài chính doanh nghiệp mà đây lại là nội dung rất quan trọng để khẳng định tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Đồng thời sự am hiểu về kỹ thuật, xây dựng cơ bản,…còn hạn chế của cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. Tâm lý chủ quan khi cho vay vẫn còn tồn tại vì một số cán bộ tín dụng cho rằng đó là khách hàng quen nên không cần giám sát chặt chẽ, giải quyết cho vay chỉ dựa vào các thông tin cung cấp qua trình bày thay cho những số liệu đáng tin cậy. Sự yên tâm về các tài sản thế chấp và thiếu sự giám sát chặt chẽ, đánh giá lại tài sản thế chấp trong điều kiện thị trường còn nhiều biến động. Như vậy bên cạnh những thành công đã đạt được, công tác thẩm định dự án đầu tư của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội vẫn còn nhiều bất cập. Do đó NHNo&PTNT Bắc Hà Nội cần tiếp tục hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định cũng như hoạt động kinh doanh của toàn ngân hàng. TÓM TẮT CHƯƠNG 2 1. Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội là một ngân hàng cấp 3 nên có bộ máy cơ cấu tổ chức đơn giản gọn nhẹ. Hiện nay, chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn về trụ sở làm việc, cơ sơ vật chất trang bị kỹ thuật công nghệ còn hạn chế…Hơn nữa, tình hình cạnh tranh gay gắt của hệ thống các ngân hàng trong khu vực … Đứng trước những khó khăn như vậy nhưng chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội vẫn hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong nhiêu năm qua, dần dần khẳng định được vị trí của mình trên địa bàn quận cũng như trên toàn thành phố Hà Nội. 2. Công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội đã đạt được những thành tựu đáng kể. Qua ví dụ thẩm định dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc một phần nào chúng ta thấy những mặt được và chưa được của công tác thẩm định dự án đầu tư để từ đó tìm ra những nguyên nhân nhằm có những giải pháp khắc phục những hạn chế đó, để công tác thẩm định dự án đầu tư ngày một hoàn thiện hơn. Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NHN0 & PTNT BẮC HÀ NỘI 3.1. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CỦA NHNo&PTNT BẮC HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI. 3.1.1. Phương hướng nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng đến năm 2010 Mục tiêu tăng trưởng chủ yếu: Nguồn vốn tăng trưởng: Từ 25% đến 30%/năm Dư nợ tăng trưởng: 20%/năm Lợi nhuận tăng: Từ 10% đến 15%/năm Cơ cấu nguồn vốn dự kiến đủ đến năm 2010 + Tiền gửi từ tổ chức và dân cư: 50%-70% đồng nguồn vốn + Tiền gửi các tổ chức tín dụng và tiền gửi khác có lãi suất đầu vào cao, không ổn định giảm dần xuống + Tăng cường mở rộng huy động tiền gửi ngoại tệ góp phần đáp ứng vốn ngoại tệ cho hoạt động xuất nhập khẩu - Cơ cấu dư nợ: + Tăng dần dư nợ trung dài hạn, mở rộng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ cá thể, cán bộ viên chức nhà nước. + Phấn đấu đến năm 2010 có số dư nợ trung dài hạn chiếm tỷ lệ 4% tổng dư nợ + Dư nợ cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ cá thể chiếm 55% tổng dư nợ - Thu dịch vụ đến 2010 đạt 30% tổng doanh thu Từ các mục tiêu tăng trưởng trên, chi nhánh dự kiến đạt đạt được kết quả kinh doanh qua từng năm như sau: Các chỉ tiêu chủ yếu của Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội (Đơn vị : tỷ đồng) Năm Chỉ tiêu 2008 2009 2010 I. Nguồn vốn 3508 4078 4550 1. Nội tệ 627 793 1030 + Không kỳ hạn 189 235 350 + < 12 tháng 324 319 350 + > 12 tháng 113 280 330 2. Ngoại tệ 535 685 720 3. Tiền gửi các tctd 125 340 450 4. Kỳ phiếu 1797 1843 1950 II. Sử dụng vốn 1. Tổng dư nợ 3978 4110 4530 + Ngắn hạn 3176 3265 3270 + Trung dài hạn 802 835 950 2. Cơ cấu dư nợ: + DNNN 1334 1428 1408 + DN ngoài QD 278 330 440 + Hộ cá thể 970 912 915 + Cầm cố GTCG 886 825 827 + Vay đời sống 508 515 620 + Nợ quá hạn 2% 2% 2% Dự kiến tình hình tài chính. (Đơn vị: Triệu đồng) Năm Chỉ tiêu 2008 2009 2010 I. Tổng thu 4628 5617 6774 Thu lãi cho vay 680 800 940 Thu thừa vốn 380 460 560 Thu phí dịch vụ 106 137 178 Thu lãi tiền gửi ngoại tệ 1282 1782 2448 Thu khác 92 100 123 II. Tổng chi (Không lương) 4260 5161 6294 Chi trả lãi TK 80 3961.8 4800 5860 Chi phí quản lý 127.8 154.8 188.9 Chi khác (TK 81+86+87) 170.4 206.9 488.9 III.Quỹ thu nhập 368 440 480 IV. Quỹ lương được xác lập 610 635 660 Số người 150 156 162 (Nguồn: Đề án phát triển kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT đến 2010) Lương bình quân: 3.000.000 đ/người/tháng 3.1.2. Định hướng công tác thẩm định dự án đầu tư của chi nhánh trong thời gian tới Trong thời gian tới, chi nhánh đã đề ra phương thức hoạt động và nhiệm vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư của mình nhằm hoàn thiện hơn nữa hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cụ thể: Tuyển chọn, tăng cường lực lượng các bộ thẩm định, bổ sung cán bộ có chuyên ngành kỹ thuật công nghệ. Hoàn thiện quy trình công tác thẩm định riêng tại chi nhánh. Tổ chức xét duyệt tín dụng theo nguyên tắc phân định trách nhiệm rõ ràng giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Rút ngắn thời gian thẩm định dự án Chủ động tìm kiếm dự án có hiệu quả để cho vay. Nâng cao công tác thu nhập xử lý thông tin. Có chính sách động viên khích lệ để mỗi cán bộ tự rèn luyện, học tập, tích luỹ kiến thức, đúc rút kinh nghiệp nghề nghiệp. Thực hiện tốt công tác thẩm định, theo dõi giám sát trong và sau khi cho vay. Thẩm tra, quyết toán vốn đầu tư hoàn thành, đảm bảo tham gia đầy đủ có hiệu quả trong cả 3 khâu: Kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NHN0 & PTNT BẮC HÀ NỘI 3.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư Mục đích của đầu tư là sinh lời nhưng để nhận biết được khả năng sinh lời của một khoản đầu tư hay một dự án đầu tư là một việc khó. Khi đứng trước một cơ hội (dự án) nhà đầu tư phải lựa chọn cho mình một phương án tối ưu. Cần có cơ sở định tính và định lượng để xây dựng một phương pháp thẩm định khoa học trên lý thuyết kinh tế và toán học. Trước đây, khi nền kinh tế nước ta chưa phát triển, công tác thẩm định hiệu quả dự án đầu tư bị coi nhẹ. Chúng ta hầu như chỉ tính hiệu quả trên cơ sở tính lùi của mức giá hoặc phí mà thị trường có thể chấp nhận được mà không xuất phát từ việc hạch toán chi phí sản xuất hoặc sử dụng. Việc tính toán hiệu quả của dự án đầu tư chưa được thực hiện đầy đủ ; khoa học công nghệ còn lạc hậu nhưng lại ham quy mô lớn…nên đã bỏ qua không xem xét đến sự phù hợp với nền kinh tế đất nước, đến hiệu quả do công trình đem lại. Điều này đã dẫn đến việc phê duyệt và cấp vốn đầu tư tràn lan cho hàng loạt công trình lớn nhỏ mà không xét đến khả năng đầu tư vốn tập trung dứt điểm cho những công trình quan trọng. Mặt khác, tiến độ thi công xây dựng kéo dài nhiều năm, công trình dựa vào bàn giao sử dụng phát huy hiệu quả kinh tế chậm, thậm chí có những công trình chủ trương đầu tư sai nên không thể đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả kinh tế, gây thất thoát lãng phí lớn. Từ sau đại hội Đảng VI, với chủ trương “Mở cửa”, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì việc thẩm định dự án đầu tư đã được quan tâm và dần nâng cao chất lượng. Tuy vậy vẫn chưa đạt yêu cầu của nền kinh tế đang trên đà phát triển và hội nhập. Lý do là một phần do chúng ta chưa có được phương pháp thẩm định khoa học tiên tiến, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn Việt Nam. Vì vậy để đạt được hiệu quả kinh tế, giải quyết được vấn đề nhà đầu tư quan tâm thì chúng ta phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. 3.2.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHno&PTNT Bắc Hà Nội Xuất phát từ sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư và trên cơ sở tìm kiếm thực tế công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp trên các phương diện sau: Hoàn thiện quy trình và soạn thảo các quy trình riêng cho từng lĩnh vực của dự án đầu tư. Khai thác, đánh giá thông tin Đào tạo cán bộ Nâng cao cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ 3.2.2.1. Về quy trình thẩm định Quy trình thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội nhìn chung tương đối hợp lý và đầy đủ các khâu theo một quy trình chuẩn của NHN0&PTNT Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vẫn còn hạn chế. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư chi nhánh nên chú trọng một số vấn đề sau: a. Khi thẩm định khách hàng vay vốn Ngân hàng căn cứ báo cáo tài chính mà doanh nghiệp gửi cho ngân hàng để thẩm định năng lực tài chính, khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Để công tác thẩm định khách hàng có ý nghĩa thì các thông tin khách hàng cung cấp phải chính xác. Vì vậy trước khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng cần xác minh tính đúng đắn, trung thực của số liệu. Yêu cầu khách hàng nộp đủ báo cáo tài chính của ít nhất 2 năm liền kề và của quý, tháng gần thời điểm vay vốn nhất để có thể đánh giá được xu hướng hoạt động của doanh nghiệp. Việc lập và tính toán các chỉ tiêu tài chính phải phục vụ cho việc phân tích chứ không phải lập cho có lệ hay lập rồi để đấy. Ví dụ: Trong các khoản phải thu thì bao nhiêu phần trăm là khó đòi; trong hàng tồn kho thì có bao nhiêu phần trăm là hàng kém phẩm chất, bị ứ đọng; tài sản cố định lạc hậu hay hiện đại… Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính, cán bộ tín dụng nên đánh giá, kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực liên quan. Bên cạnh đó, ngân hàng cần khẩn trương đưa vào phân tích, đánh giá báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đa số các ngân hàng hiện nay, khi phân tích tình hình tài chính của khách hàng thì chỉ quan tâm đến bảng cân đối kế toán và kết quả sản xuất kinh doanh chứ chưa chú ý đến báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đánh giá chính xác năng lực quản lý ngân quỹ cũng như khả năng tính toán hiện đại và tương lai của khách hàng. Ngân hàng có thể dựa vào tổng số vốn đăng ký mà phân thành các quy mô doanh nghiệp khác nhau (lớn, vừa, nhỏ). Đối với những doanh nghiệp có số vốn lớn thì ngân hàng nên đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trình độ quản lý của doanh nghiệp. Do việc quản lý các doanh nghiệp lớn khó khăn hơn và vốn vay thường lớn hơn. Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình…) ngân hàng nên chú trọng hơn uy thế, năng lực kinh doanh, khả năng thanh toán và các điều kiện bảo đảm tiền vay. Bên cạnh biện pháp sử dụng số liệu và chỉ tiêu cứng nhắc nói trên, ngân hàng cũng có thể sử dụng nghệ thuật để thẩm định khách hàng vay vốn. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng có thể nhận xét một cách khách quan nhất về khách hàng. Cán bộ tín dụng có thể tiếp xúc, phỏng vấn chủ doanh nghiệp hoặc trực tiếp đến doanh nghiệp khảo sát tình hình thực tế. Từ đó có những thông tin về doanh nghiệp được đầy đủ, cụ thể và chính xác hơn. Làm thế nào để không gây khó dễ cho khách hàng mà cán bộ tín dụng vẫn có đủ thông tin để đánh giá khách hàng. Sau đây là một số yếu tố có thể giúp cho cán bộ tín dụng có thể đánh giá định tính về khách hàng: - Khả năng lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp là yếu tố quan trọng nhất. Nếu khả năng quản lý tốt có thể biến đổi một doanh nghiệp kém thành một doanh nghiệp khá và ngược lại. Để đánh giá khả năng này của chủ doanh nghiệp, cần xem xét các nội dung sau: + Năng lực đề ra chiến lược kinh doanh có sức cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. + Kế hoạch phát triển khai thác các công việc một cách hợp lý, có hiệu quả, đảm bảo tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật và Bộ Tài chính. + Tạo nên một cơ cấu tổ chức hiệu quả, phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn giữa nhân viên và người điều hành. Sử dụng đúng người, đúng việc, có chính sách khuyến khích khen thưởng và tuyển mộ hợp lý. + Có tinh thần dám nghĩ dám làm và chịu trách nhiệm trước những quyết định của mình. - Hình ảnh, vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương trường được khẳng định qua dư luận xã hội trên các phương diện thông tin đại chúng, trong quan hệ với khách hàng, với nhà cung cấp. b. Khi thẩm định dự án vay vốn NHN0&PTNT Bắc Hà Nội cần thẩm định đầy đủ các nội dung cần thiết để đảm bảo nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện, giúp cho việc ra quyết định đầu tư một cách chính xác. Cần nhận thức rằng mọi nội dung của dự án đều có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kết quả thẩm định phương diện thị trường là cơ sở để đánh giá việc lựa chọn kỹ thuật, quy mô, công suất của dự án, kết quả thẩm định phương diện kỹ thuật lại là cơ sở để tính toán các dòng thu nhập, chi phí, xác định nên hiệu quả tài chính của dự án. Trong khi hiệu quả tài chính dự án lại là cơ sở để thẩm định lợi ích kinh tế, xã hội và quyết định phương án cho vay, thu nợ của ngân hàng. Khi thẩm định phương diện thị trường của dự án, cán bộ thẩm định cần thu thập các thông tin về: Số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường (kể cả những doanh nghiệp sắp thành lập); mức cầu sản phẩm cùng loại trong năm qua (ít nhất là 5 năm) để thấy được tốc độ tăng trưởng trong thời gian qua, làm cơ sở cho việc dự báo tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới; mức cung thực tế của các doanh nghiệp trên thị trường; thông tin giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra, cán bộ thẩm định còn phải nắm được quy hoạch, kế hoạch đầu tư định hướng phát triển do Bộ, ngành xây dựng công bố để đảm bảo dự án là các công trình được tiến hành theo đúng quy hoạch của nhà nước. Khi tiến hành thẩm định phương diện kỹ thuật với những dự án phức tạp vượt ra ngoài khả năng của cán bộ đầu tư, ngân hàng nên thuê chuyên gia, tránh tình trạng chấp nhận ngay những kết quả kỹ thuật doanh nghiệp đưa đến. Đồng thời bản thân cán bộ thẩm định cũng phải nghiên cứu, tìm hiểu về những ngành nghề, sản phẩm của dự án do mình phụ trách. Khi lập dự toán và nguồn vốn đầu tư, ngân hàng cần chú trọng kiểm tra tính hợp lý và đầy đủ về các khoản chi phí đầu tư dựa trên cơ sở tham khảo những dự án tương tự điển hình (không chỉ những dự án do NHNo&PTNT Bắc Hà Nội thẩm định mà cả của những ngân hàng khác đã từng thẩm định). Ngân hàng không nên chỉ dựa vào kế hoạch dự trù chi phí do chủ đầu tư đưa ra như hiện nay, tránh tình trạng tính thừa hoặc thiếu. Chú trọng đến giá bán sản phẩm dự kiến để tạo nên đầu tư, tham khảo giá bán các dự án trong nước và trên khu vực để dự tính giá bán khi Việt Nam gia nhập AFTA, WTO. Khi tiến hành thẩm định phương diện tài chính, chi nhánh cần xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu tài chính. Việc vận dụng tính các chỉ tiêu này cần đúng và đủ song quan trọng hơn là cán bộ thẩm định phải đưa ra được những đánh giá, kết luận từ các chỉ tiêu đó và lựa chọn tiêu chuẩn chấp nhận dự án một cách chính xác, phù hợp với từng loại ngành nghề, đôi khi có sự ưu tiên về một khía cạnh nào đó của dự án. Khi tính toán chi phí sản xuất cho dự án, cán bộ đầu tư nên lập bảng tính lãi vay dựa trên dư nợ còn lại. Việc tính lãi vay như vậy sẽ mang tính thực tế hơn. Việc tính khấu hao tài sản cố định cần thực hiện theo đúng quy định của Bộ Tài chính, tránh hiện tượng khấu hao quá thấp, thời hạn thu hồi vốn quá dài. Dự trù thu nhập- chi phí phải được lập theo từng năm, tránh tình trạng san đều như nhau qua mỗi năm và do vậy điểm hoà vốn trả nợ cũng cần phải được lập theo năm. Trong quá trình lập dự trù thu nhập, chi phí, cán bộ thẩm định thường lấy theo giá trị trung bình của các biến số với độ chính xác không cao. Vì vậy, để tránh việc chấp nhận những dự án quá lạc quan, người ta thường sử dụng những ước tính với xu hướng giảm bớt doanh thu và tăng chi phí. Dựa trên cơ sở lý luận đã trình bày ở chương I cùng với tình hình thực tế và khả năng ứng dụng, ngân hàng nên áp dụng hệ chỉ tiêu đánh giá báo gồm: Giá trị hiện tại ròng (NPV), tỉ suất nội hoàn (IRR), chỉ số doanh lợi (PI), thời gian hoàn vốn có chiết khấu, điểm hoà vốn qua các năm, phân tích rủi ro…bằng các ứng dụng chương trình phần mềm máy tính. Ngoài ra cán bộ thẩm định cần tiến hành phân tích thêm chỉ tiêu độ nhạy của dự án và ảnh hưởng của lạm phát đến hậu quả của dự án vì dự án đầu tư thường có vòng đời tương đối dài và tất yếu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định để có quyết định chính xác hơn về tính khả thi của dự án. Mục đích của phân tích độ nhạy là kiểm tra mức độ nhạy cảm của dự án đối với sự biến động của từng yếu tố trong tương lai. Từ đó xác định mức độ của các yếu tố rủi ro và chiều hướng tác động của các yếu tố đó đến hiệu quả của dự án chẳng hạn khi có lạm phát làm doanh thu giảm 5% hoặc chi phí sản xuất tăng 5% hoặc cả hai nhân tố biến động đồng thời thì NPV, IRR biến động như thế nào và xem xét lại dự án có còn khả thi hay không. Ngân hàng cần soạn thảo quy trình riêng cho mỗi lĩnh vực của dự án đầu tư (lĩnh vực xây dựng cơ bản, kinh doanh dịch vụ, sản xuất chế biến…) nhằm tạo điều kiện để cán bộ tín dụng xác định rõ hơn công việc mà mình phải làm, tránh hiện tượng thẩm định thừa, thiếu các nội dung và các chỉ tiêu. Để công tác đầu tư có hiệu quả và chất lượng hơn, chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội cần có một quy trình thẩm định dự án rất cụ thể cho từng loại hình đầu tư. 3.2.2.2. Thu thập, xử lý đánh giá tốt thông tin Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, với sự đa dạng của các nguồn thông tin cùng với các cách xử lý thông tin ngày càng hiện đại, việc thu thập chính xác kịp thời nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư là khá phức tạp nhưng hết sức cần thiết. Vấn đề đặt ra là cần phải thu thập các nguồn thông tin, phân loại, xử lý và đánh giá thông tin như thế nào để có được các thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác. Một trong những hướng giải quyết là cần sử dụng rộng rãi máy vi tính và các phần mềm ứng dụng trong phân tích đánh giá dự án. Bởi lẽ, ngoài chức năng lưu trữ, cập nhật, truy cập thông tin, máy vi tính cho những khả năng vô cùng chính xác trong tính toán, kiểm tra, phân tích dự án. Cần lưu ý tránh sử dụng nguồn thông tin một chiều. Việc nghiên cứu những thông tin này cần xuất phát từ những yếu tố cần tính toán trong quá trình thẩm định để đảm bảo yêu cầu đánh giá dự án đầu tư được chính xác. Các thông tin cơ bản về các khía cạnh sau: + Thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về đối thủ cạnh tranh, về thị trường nguyên liệu để thẩm định giá cả tiêu thụ sản phẩm, chi phí sản xuất kinh doanh. + Thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp. + Thông tin về các tính năng, đặc điểm hoạt động của máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất…để đánh giá công suất, sản lượng bảo đảm cho doanh thu của dự án. Cũng như góp phần thẩm định chi phí sản xuất kinh doanh vì công suất máy móc thiết bị càng lớn thì khả năng hạ giá thành càng nhiều. + Thông tin về biến động giá cả của tỷ giá hối đoái, chính sánh thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, chính sách đầu tư…ở hiện tại và tương lai với phân tích độ nhạy cảm của dự án đầu tư nhằm có kết luận chính xác hơn nữa cho những dự án có vòng đời dài. Để có được các thông tin trên cần thu thập từ các kênh khác nhau: Thông tin từ khách hàng và các thông tin từ bên ngoài. - Thông tin từ khách hàng: Việc thu thập thông tin bằng cách điều tra trực tiếp từ khách hàng sẽ giúp cán bộ thẩm định phát hiện được những gian lận mà khách hàng cố tình giấu diếm. Mục đích của cuộc phỏng vấn nhằm thu được những thông tin sau: Làm rõ hơn mục đích vay vốn, khả năng trả nợ và uy tín của khách hàng, giải trình được những nhược điểm chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn trong hồ sơ xin vay vốn thu thập thêm thông tin về doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ và trình độ quản lý của ban lãnh đạo. Để có thể thu thập được thông tin chính xác đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng các nội dung chuẩn bị phỏng vấn và có phương pháp phỏng vấn khéo léo, phù hợp. Cùng với việc phỏng vấn trực tiếp khách hàng, cán bộ đầu tư phải trực tiếp xuống cơ sở sản xuất của doanh nghiệp để thăm quan, khảo sát thực tế. Cán bộ thẩm định phải chú ý trường hợp khách hàng mượn nhà xưởng của người khác cho ngân hàng tham quan. Do đó cần phải gặp gỡ với các công nhân, ngoài ra cần bố trí những chuyến đi đột xuất để có thể thu nhập được những thông tin chính xác hơn. - Các kênh thông tin từ bên ngoài + Thông tin của các ngành chuyên gia thuộc lĩnh vực mà dự án đang được xem xét đầu tư: ngành in ấn, ngành y tế, ngành nông nghiệp… + Thông tin của các cơ quan quản lý chức năng như thống kê, tài chính, thuế…Đối với NHN0&PTNT Bắc Hà Nội cần khai thác thông tin từ: Trung tâm thông tin tín dụng CIC, Công ty kiểm toán việt nam VaCo, các công ty kiểm toán có uy tín khác: Ernst and Young… + Thông tin của các phương tiện truyền thông, tin tức như báo chí, phát thanh, truyền hình… + Thông tin về những vấn đề có tính chất vĩ mô ảnh hưởng đến dự án như tình hình thị trường tiền tệ trong nước, khu vực và thế giới, tình hình xuất nhập khẩu. Việc khai thác các kênh thông tin này rất cần thiết sự hỗ trợ về tài chính, về tổ chức của các cơ quan hữu quan nhà nước. 3.2.2.3. Đào tạo và đào tạo lại cán bộ thẩm định. Cán bộ thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội là những người trực tiếp tham gia thẩm định dự án, tham gia góp ý kiến cấp quyết định đầu tư về dự án khả thi và việc chấp thuận cho vay hay không cho vay. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ thẩm định dự án là phải có năng lực, trình độ và nắm vững quy trình nghiệp vụ thẩm định dự án. Đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt, nghiêm túc trong công việc và luôn đặt mục tiêu chất lượng thẩm định dự án lên hàng đầu. Chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội cần có kế hoạch đào tạo tức thời và dài hạn kiến thức chuyên môn, trang bị thêm hiểu biết về pháp luật, thị trường, kinh tế, ngoại ngữ, tin học, chế độ…cho cán bộ tín dụng. Tích cực học tập thể lệ của ngành, liên ngành, chủ trương đường lối, mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và địa phương…Tạo điều kiện cho cán bộ tự nâng cao trình độ kiến thức và năng lực, kinh nghiệm làm việc. Chi nhánh cần đặt ra những yêu cầu chuyên môn bắt buộc, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, tài chính kế toán, ngân hàng, ngoại ngữ, tin học, thanh toán quốc tế…Bên cạnh đó có kế hoạch thực hiện sắp xếp lại những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc. Cán bộ tín dụng cần tiếp cận với các dự án tại các khu đô thị mới, khu chung cư trong khu vực quận; Phối hợp với công ty phát triển nhà, đô thị để triển khai công tác này. Để hướng tới một ngân hàng có quy mô hiện đại trong tương lai gần, để đủ sức kinh doanh, cạnh tranh, phục vụ tốt khách hàng trên địa bàn thủ đô, ngay từ bây giờ chi nhánh phải có kế hoạch tăng cường, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ “khung”, kế cận, phải có kiến thức, trình độ nghiệp vụ cơ bản, có đạo đức, lối sống lành mạnh, trách nhiệm nghề nghiệp cao, có bản lĩnh, kiên định, kinh nghiệm nghề nghiệp vững chắc. Cần chỉ đạo sát sao công tác đào tạo lại, đào tạo mới một cách có hệ thống nhằm bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho cán bộ, tiếp cận với phương pháp lập và thẩm định dự án tiên tiến; tổ chức tập huấn nghiệp vụ, tăng cường tổ chức các buổi hội thảo, học tập các văn bản mới về đầu tư xây dựng cơ bản và các lĩnh vực khác có liên quan, trang bị cho cán bộ những kiến thức về kinh tế, tài chính, tiền tệ…Mời các chuyên gia chuyên ngành truyền đạt về công tác quản lý, định mức đơn giá xây dựng cơ bản, giúp cán bộ nắm vững các chế độ, chính sách của Nhà nước. Ban lãnh đạo cần có giải pháp về công tác tuyển dụng cán bộ, có chế độ lương, thưởng, khuyến khích, ưu đãi cho cán bộ tín dụng. Ngoài ra chi nhánh cần có các quy định cụ thể về xử lý các trường hợp vi phạm nội quy, quy chế thẩm định dự án để nâng cao ý thức kỹ luật, tinh thần trách nhiệm. Cần đưa công tác kiểm tra giám sát làm công tác trọng tâm để ban lãnh đạo điều hành công việc; chỉ đạo kịp thời bộ phận thẩm định, tránh sơ hở, sai sót đáng tiếc trong khi thẩm định dự án mà chấp nhận dự án không khả thi hoặc bỏ qua các dự án có hiệu quả tốt, giúp cho chi nhánh có quyết định lựa chọn phương án đầu tư đúng đắn nhất. 3.2.2.4. Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ Hiện nay, cơ sở vật chất của chi nhánh vẫn đang còn rất nghèo nàn, trụ sở phải thuê nên để thực hiện được giải pháp này là một vấn đề rất khó. Tuy nhiên, trong những năm tới, khi tình hình hoạt động của ngân hàng phát triển, có trụ sở làm việc thì cần hoàn thiện cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ tin học trong công tác thẩm định. Để quá trình thẩm định được diễn ra đúng quy trình, nhanh và chính xác thì phải đầu tư một hệ thống trang thiết bị, công nghệ hiện đại; áp dụng những kỹ thuật phân tích tính toán mới để có thể truy cập, xử lý một khối lượng thông tin phức tạp. Ở phòng kinh doanh của chi nhánh hiện tại chỉ có một máy vi tính, việc sử dụng máy cũng không thường xuyên. Một phần là do số lượng máy vi tính còn quá hạn chế, một phần là do thói quen của cán bộ, họ thường tính toán bằng thủ công hơn là việc ngồi ở trên máy. Hơn nữa các phầm mềm trợ giúp công tác thẩm định còn hạn chế. Vì vậy trong thời gian tới, ngân hàng cần nghiên cứu và lắp đặt hệ thống máy vi tính và nối mạng giữa các bộ phận trong nội bộ ngân hàng, mua một số phần mềm hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án đầu tư và quản lý trao đổi thông tin. Tuỳ theo quy mô và tính chất công việc mà có sự đầu tư phù hợp để vừa không lãng phí vừa đảm bảo phục vụ tốt nhất cho yêu cầu công việc. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Thẩm định dự án đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng khác nhau. Để công tác thẩm định dự án đầu tư ngày càng hiệu quả hơn thì cần có một giải pháp đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều ngành nhiều cấp. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số kiến nghị sau: 3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ Ngân hàng là kênh phân phối vốn cho nền kinh tế. Do đó Chính phủ nên tạo diều kiện cho ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Chính phủ có cơ chế và biện pháp kiên quyết yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán, thống kê và và báo cáo theo đúng quy định của nhà nước. Đồng thời cũng ban hành qui chế bắt buộc ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, công ty tài chính, các doanh nghiệp phải chịu sự giám sát của hệ thống kiểm toán quốc gia và mức độ trách nhiệm cho từng bên tham gia. Cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Chính phủ cần dứt khoát loại bỏ những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, chỉ để tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và thực sự cần thiết nhằm tạo điều kiện cho đầu tư tín dụng có trọng điểm và nâng cao hiệu quả. Chính phủ cần tăng cường trách nhiệm của cơ quan hữu quan trong việc cấp giấy phép thành lập công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thuộc những ngành nghề chủ chốt có hoạt động kinh doanh phát triển, Chính phủ cần tiếp tục bổ sung vốn điều lệ thường xuyên để đảm bảo vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Hiện nay ở nước ta, số doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp và có tiềm năng lớn. Tuy nhiên, chúng ta chưa tạo được một mặt bằng cạnh tranh chung cho các doanh nghiệp. Trong việc vay vốn Ngân hàng, các doanh nghiệp nhà nước vẫn được ưu tiên hơn và tâm lý chung của ngân hàng là thường muốn cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh hơn là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này cũng làm ảnh hưởng tới kết quả thẩm định dự án. Vì vậy việc tạo dựng một môi trường cạnh tranh bình đẳng đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích, thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển. Đặc biệt, Chính phủ nên thành lập công ty dịch vụ đánh giá tài sản thế chấp. Đây là mô hình tương đối tốt mà nhiều nước trên thế giới đang làm. Cũng như công tác kiểm toán, công ty dịch cụ đánh giá tài sản phải chịu trách nhiệm vật chất và pháp lý khi việc đánh giá không đúng với giá trị thực của tài sản, kịp thời ban hành sửa đổi bổ sung một số luật để tạo hành lang pháp lý cho các ngân hàng kinh doanh thuận lợi: Bổ sung, sửa đổi: Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Luật kế toán, pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Ban hành kịp thời các luật còn thiếu. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Đề nghị ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định, trợ giúp về thông tin và kinh nghiệm cho ngân hàng. Hàng năm ngân hàng Nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định. Ngân hàng Nhà nước nên có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng(CIC). Trung tâm cần đưa ra mức độ rủi ro của từng ngành nghề, từng lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho ngân hàng phân loại, xếp hạng doanh nghiệp. Nên thành lập các công ty chuyên mua bán thông tin, các công ty này sẽ cung cấp thông tin về tín dụng, thị trường và của doanh nghiệp một cách đảm bảo và chính xác nhất. Có thể tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giám sát đối với các ngân hàng thương mại để kịp thời phát hiện những sai sót trong công tác thẩm định. Trong môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh như hiện nay, khi nhiều ngân hàng không chịu cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin về doanh nghiệp có quan hệ với mình cho ngân hàng khác, chỉ khi doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản thì ngân hàng cho vay mới biết chính xác doanh nghiệp đang nợ các ngân hàng khác là bao nhiêu. Ngân hàng Nhà nước cần có quy định chi tiết, rõ ràng các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp được quy định tại Điều 16 Luật Các Tổ chức tín dụng, trong đó làm rõ các trường hợp được coi là thông tin sai sự thật, làm tổn hại lợi ích của tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng cần có sự hợp tác với nhau trong hoạt động tín dụng không chỉ vì lợi ích cục bộ mà bỏ qua các điều kiện, thủ tục cần thiết khi tiến hành thẩm định. Với những tổ chức tín dụng vi phạm cần có biện pháp xử lý hành chính nghiêm minh trong toàn ngành. Trong thời gian qua, ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, quy chế quan trọng, tạo ra một hành lang quy chế tài chính – ngân hàng khá rõ ràng và đầy đủ. Song, trên thực tế vẫn còn nhiều mối quan hệ phát sinh trong hoạt động tín dụng-ngân hàng chưa có văn bản, quy chế điều chỉnh. Để đảm bảo tính thống nhất, đầy đủ trong luật định, đề nghị ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung và sớm ban hành các thông tư hướng dẫn, tạo cơ sở vững chắc cho việc thi hành và áp dụng trong các hoạt động thẩm định nói riêng cũng như hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung. Đặc biệt, ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu vấn đề thế chấp đối với các doanh nghiệp Nhà nước được vay vốn. Đã qua nhiều lần sửa đổi nhưng hiện nay, tài sản hình thành sau khi vay vốn đầu tư được dùng làm tài sản thế chấp cho vốn vay là chưa hợp lý vì về mặt sở hữu vẫn là sở hữu Nhà nước nên hình thức thế chấp này là không được hiệu quả về kinh tế và cũng thiếu cơ sở pháp lý, các biện pháp để xử lý tài sản thế chấp còn thiếu rõ ràng và không thực tế. 3.3.3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam Với khó khăn hiện nay là chưa có một cơ quan nào đứng ra nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép làm căn cứ so sánh, nên chăng các ngân hàng thương mại cần tự nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn áp dụng cho các chi nhánh trong toàn hệ thống. Chẳng hạn như một số chỉ tiêu sau: Theo văn bản số 284 của ngân hàng Nhà nước về quy chế cho vay quy định: Thời gian thẩm định dự án đầu tư trung dài hạn là 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của khách hàng. Xét thấy thời gian này là khá dài đối với khách hàng vì trong trong thời gian chờ đợi khách hàng có thể mất cơ hội kinh doanh, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật… Điều này cũng ảnh hưởng đến tiến độ thi công của dự án. Do đó NHNo&PTNT Việt Nam cần xem xét để có thể giảm bớt thời gian thẩm định. Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn (PP) cần căn cứ theo từng ngành nghề mà có quy định cụ thể. Ví dụ, với các dự án thương mại, dịch vụ, đầu tư chiều sâu, tiểu thủ công nghiệp thì PP5 năm; dự án công nghiệp nhẹ PP7 năm; dự án công nghiệp nặng PP10 năm; công trình hạ tầng PP15 năm;... Các chỉ tiêu sinh lời của dự án trong từng ngành nghề, các chỉ tiêu đảm bảo của khách hàng vay vốn... cần được cụ thể hoá với các con số nhất định để từ đó làm căn cứ để nhận xét, kết luận. 3.3.4. Kiến nghị với NHNo&PTNT thành phố Hà Nội NHNo&PTNT Thành Phố Hà Nội nên tạo điều kiện giúp đỡ cho chi nhánh có được trụ sở khang trang, hiện đại, để từ đó đủ sức thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng diễn ra quyết liệt giữa các tổ chức tín dụng. Đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ tin học và pháp luật, ngoại ngữ, thanh toán quốc tế cho cán bộ, trang bị đầy đủ công nghệ tin học phù hợp với sự phát triển của ngân hàng. Hiện nay chi nhánh vẫn chưa có cán bộ phó phòng kinh doanh, do vậy NHNo&PTNT Thành Phố Hà Nội cần xem xét bổ nhiệm thêm một phó phòng kinh doanh, đồng thời cho thành lập thêm 2 phòng: Phòng thanh toán và phòng hành chính. Cho chi nhánh được nối mạng với một số doanh nghiệp, công ty có lượng tiền chuyển và gửi lớn như: Điện lực Thanh Xuân, Công ty in Tài Chính, Công ty Xuất nhập khẩu và đầu tư,... Các điều kiện trên ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, do vậy NHNo&PTNT Thành Phố Hà Nội nên xem xét và hỗ trợ cho chi nhánh thực hiện được các nguyện vọng trên của mình. 3.3.5. Kiến nghị với các bộ ngành liên quan Nên chăng Bộ Tài chính cần tạo dựng một khung pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải công khai tình hình tài chính của mình khi xin vay ngân hàng. Để làm được điều này, phải tiến hành công tác kiểm toán doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước nhằm có được báo cáo tài chính với độ tin cậy cao. Bộ Tài chính nên có biện pháp kinh tế cũng như hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh thống kê, kế toán.Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp để đảm bảo tính trung thực, chính xác của các con số trên báo cáo tài chính. Đề nghị các bộ chủ quản như: Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Tổng cục Đầu tư, Tổng cục Thống kê,... hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực đầu tư mà ngành mình phụ trách. Hàng năm thông tin được công bố một cách công khai, chính xác ở trung tâm thông tin ngành để giúp cho ngân hàng và chủ đầu tư thuận lợi trong việc thu thập thông tin. Bộ Kế hoạch và đầu tư cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng xây dựng và phát triển để hướng dẫn các doanh nghiệp, ngân hàng tập trung vào tài trợ cho dự án, các chương trình ưu tiên của Chính phủ. Đề nghị các Bộ, Ngành địa phương cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt dự án. Các nội dung của dự án có quan hệ rất chặt chẽ với nhau, chỉ cần một trong các nội dung của dự án không được xem xét cẩn thận sẽ dẫn đến các nội dung khác thiếu đi sự chính xác về hiệu quả của dự án. Mặt khác các Bộ, Ngành địa phương có thể thẩm định cùng một dự án nhưng ở các góc độ khác nhau nên sự phối hợp này cũng nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. TÓM TẮT CHƯƠNG 3 1. Mục đích của đầu tư là sinh lời nhưng để nhận biết được khả năng sinh lời của một khoản đầu tư hay một dự án đầu tư là một việc khó. Khi đứng trước một dự án đầu tư, nhà tài trợ (ngân hàng) phải lựa chọn cho mình một phương án tối ưu. Cần có cơ sở định tính và định lượng để xây dựng một phương pháp thẩm định khoa học trên lý thuyết kinh tế và toán học. 2. Xuất phát từ sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội cần chú trọng một số vấn đề sau: - Quy trình thẩm định - Khai thác, đánh giá thông tin - Đào tạo cán bộ - Nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ 3. Thẩm định dự án đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng khác nhau. Do đó để công tác thẩm định dự án đầu tư ngày càng hiệu quả hơn thì cần có một giải pháp đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều ngành, nhiều cấp từ chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Hà Nội, cho đến các Bộ, Sở, ngành liên quan như Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Khoa học công nghệ môi trường,… KẾT LUẬN Thẩm định dự án đầu tư là một công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải luôn hoàn thiện cả về phương pháp luận cũng như qua thực tế. Tuy nhiên để làm được điều này không phải là đơn giản mà cần phải có sự nỗ lực của toàn hệ thống ngân hàng cũng như sự phối hợp đồng bộ của các cấp, ngành liên quan. Trong phạm vi giới hạn về không gian và thời gian, địa điểm, luận văn đã đạt được những kết quả sau: 1. Hệ thống lại một số vấn đề lý luận về công tác thẩm định dự án đầu tư, phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư. 2. Phân tích thực trạng công tác thẩm định tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Từ đó đánh giá kết quả đạt được, phát hiện những khuyết điểm và lý giải nguyên nhân của những tồn tại trên. 3. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội Tuy bài viết còn nhiều khiếm khuyết nhưng với những kết quả đạt được ở trên em xin đóng góp một phần nhỏ bé cho việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo- tiến sĩ Nguyễn Hồng Minh Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Trường Phòng Tín Dụng NHNo&PTNN Bắc Hà Nội - Phan Châu Giang cùng các cô, chú tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình “ Lập và quản trị dự án đầu tư ” Chủ biên: PGS.PTS Nguyễn Ngọc Mai - Đại học kinh tế quốc dân – NXB Giáo dục 1996. Quản trị dự án đầu tư – Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thuỷ- NXB Chính trị Quốc gia tháng 10- 1994 Tài liệu “ Hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng” Trung tâm đào tạo- NHNo&PTNT Việt Nam năm 2005 Tài liệu “ Hướng dẫn thẩm định, tái thẩm định các điều kiện vay vốn của doanh nghiệp ”NHNo&PTNT Việt Nam Đề án “ phát triển kinh doanh chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội giai đoạn 2007-2009” Báo các tình hình thực hiện một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2007- Định hướng và các giải pháp năm 2008 Quyết định số180/QĐ/HĐQT ngày 15/12/1998 của NHNo&PTNT Việt Nam về quy định cho vay đối với khách hàng của NHNo&PTNT Việt Nam Nghị định 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/12/1999 và thông tư 06/2000/TT-NHNN1 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng Quyết định số 72/QĐ-HĐBT-thẩm định dự án đầu tư ngày 31/3/2002 của Chủ tịch HĐQT-NHNo&PTNT Việt Nam Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ Ý kiến về mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Ngân hàng của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội Tạp chí Ngân hàng các năm 2007, 2008, 2009. Thời báo kinh tế 2007, 2008. BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT C. phí : Chi phí D. thu : Doanh thu DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước KHCB : Khấu hao cơ bản KHTSCĐ : Khấu hao tài sản cố định L/C : Thư tín dụng NHNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. NHTM : Ngân hàng Thương mại QPTKD : Quỹ phát triển kinh doanh SX : Sản xuất T. chính : Tài chính TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TSCĐ : Tài sản cố định TSLĐ : Tài sản lưu động UBND : Uỷ ban nhân dân XDCB : Xây dựng cơ bản XNK : Xuất nhập khẩu MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26473.doc
Tài liệu liên quan