Đề nghị ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định, trợ giúp về thông tin và kinh nghiệm cho ngân hàng. Hàng năm ngân hàng Nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định.
Ngân hàng Nhà nước nên có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng (CIC). Trung tâm cần đưa ra mức độ rủi ro của từng ngành nghề, từng lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho ngân hàng phân loại, xếp hạng doanh nghiệp. Nên thành lập các công ty chuyên mua bán thông tin, các công ty này sẽ cung cấp thông tin về tín dụng, thị trường và của doanh nghiệp một cách đảm bảo và chính xác nhất. Có thể tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giám sát đối với các ngân hàng thương mại để kịp thời phát hiện những sai sót trong công tác thẩm định.
Trong môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh như hiện nay, khi nhiều ngân hàng không chịu cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin về doanh nghiệp có quan hệ với mình cho ngân hàng khác, chỉ khi doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản thì ngân hàng cho vay mới biết chính xác doanh nghiệp đang nợ các ngân hàng khác là bao nhiêu. Ngân hàng Nhà nước cần có quy định chi tiết, rõ ràng các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp được quy định tại Điều 16 Luật Các Tổ chức tín dụng, trong đó làm rõ các trường hợp được coi là thông tin sai sự thật, làm tổn hại lợi ích của tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng cần có sự hợp tác với nhau trong hoạt động tín dụng không chỉ vì lợi ích cục bộ mà bỏ qua các điều kiện, thủ tục cần thiết khi tiến hành thẩm định. Với những tổ chức tín dụng vi phạm cần có biện pháp xử lý hành chính nghiêm minh trong toàn ngành.
108 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1713 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
74
Thu lãi cho vay
680
800
940
Thu thừa vốn
380
460
560
Thu phí dịch vụ
106
137
178
Thu lãi tiền gửi ngoại tệ
1282
1782
2448
Thu khác
92
100
123
II. Tổng chi (Không lương)
4260
5161
6294
Chi trả lãi TK 80
3961.8
4800
5860
Chi phí quản lý
127.8
154.8
188.9
Chi khác (TK 81+86+87)
170.4
206.9
488.9
III.Quỹ thu nhập
368
440
480
IV. Quỹ lương được xác lập
610
635
660
Số người
150
156
162
(Nguồn: Đề án phát triển kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT đến 2010)
Lương bình quân: 2.500.000 đ/người/tháng
3.1.2. Định hướng công tác thẩm định dự án đầu tư của chi nhánh trong thời gian tới
Trong thời gian tới, chi nhánh đã đề ra phương thức hoạt động và nhiệm vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư của mình nhằm hoàn thiện hơn nữa hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cụ thể:
- Tuyển chọn, tăng cường lực lượng các bộ thẩm định, bổ sung cán bộ có chuyên ngành kỹ thuật công nghệ.
- Hoàn thiện quy trình công tác thẩm định riêng tại chi nhánh.
- Tổ chức xét duyệt tín dụng theo nguyên tắc phân định trách nhiệm rõ ràng giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay.
- Rút ngắn thời gian thẩm định dự án
- Chủ động tìm kiếm dự án có hiệu quả để cho vay.
- Nâng cao công tác thu nhập xử lý thông tin.
- Có chính sách động viên khích lệ để mỗi cán bộ tự rèn luyện, học tập, tích luỹ kiến thức, đúc rút kinh nghiệp nghề nghiệp.
- Thực hiện tốt công tác thẩm định, theo dõi giám sát trong và sau khi cho vay. Thẩm tra, quyết toán vốn đầu tư hoàn thành, đảm bảo tham gia đầy đủ có hiệu quả trong cả 3 khâu: Kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN NHÀ MÁY SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI TẠI NHN0 & PTNT BẮC HÀ NỘI
3.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư
Mục đích của đầu tư là sinh lời nhưng để nhận biết được khả năng sinh lời của một khoản đầu tư hay một dự án đầu tư là một việc khó. Khi đứng trước một cơ hội (dự án) nhà đầu tư phải lựa chọn cho mình một phương án tối ưu. Cần có cơ sở định tính và định lượng để xây dựng một phương pháp thẩm định khoa học trên lý thuyết kinh tế và toán học.
Trước đây, khi nền kinh tế nước ta chưa phát triển, công tác thẩm định hiệu quả dự án đầu tư bị coi nhẹ. Chúng ta hầu như chỉ tính hiệu quả trên cơ sở tính lùi của mức giá hoặc phí mà thị trường có thể chấp nhận được mà không xuất phát từ việc hạch toán chi phí sản xuất hoặc sử dụng. Việc tính toán hiệu quả của dự án đầu tư chưa được thực hiện đầy đủ ; khoa học công nghệ còn lạc hậu nhưng lại ham quy mô lớn…nên đã bỏ qua không xem xét đến sự phù hợp với nền kinh tế đất nước, đến hiệu quả do công trình đem lại. Điều này đã dẫn đến việc phê duyệt và cấp vốn đầu tư tràn lan cho hàng loạt công trình lớn nhỏ mà không xét đến khả năng đầu tư vốn tập trung dứt điểm cho những công trình quan trọng. Mặt khác, tiến độ thi công xây dựng kéo dài nhiều năm, công trình dựa vào bàn giao sử dụng phát huy hiệu quả kinh tế chậm, thậm chí có những công trình chủ trương đầu tư sai nên không thể đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả kinh tế, gây thất thoát lãng phí lớn.
Từ sau đại hội Đảng VI, với chủ trương “Mở cửa”, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì việc thẩm định dự án đầu tư đã được quan tâm và dần nâng cao chất lượng. Tuy vậy vẫn chưa đạt yêu cầu của nền kinh tế đang trên đà phát triển và hội nhập. Lý do là một phần do chúng ta chưa có được phương pháp thẩm định khoa học tiên tiến, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn Việt Nam. Vì vậy để đạt được hiệu quả kinh tế, giải quyết được vấn đề nhà đầu tư quan tâm thì chúng ta phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư.
Hoạt động thẩm định dự án đầu tư bị tác động bởi nhiều nhân tố, muốn chất lượng hoạt động này được nâng cao, các nhà ngân hàng phải xem xét hết sức kỹ lưỡng, để phát huy các mặt tích cực đồng thời hạn chế các mặt tiêu cực của các nhân tố ảnh hưởng này.
3.2.1.1. Nhân tố bên trong
* Nhân tố con người
Cán bộ thẩm định chính là những người trực tiếp tiến hành thẩm định dự án đầu tư. Chất lượng của đội ngũ nhân viên phòng thẩm định có ảnh hưởng đến việc quy trình nghiệp vụ thẩm định có được thực hiện đúng và đạt được chất lượng cao hay không. Thẩm định dự án đầu tư là việc đưa ra quyết định đầu tư trên quan điểm cá nhân nhưng chất lượng thẩm định lại ảnh hưởng đến tài sản toàn ngân hàng. Nếu như đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm thì quyết định đầu tư tuy chỉ dựa trên quan điểm cá nhân cũng chính xác và hiệu quả hơn. Mặt khác, tư cách đạo đức tốt cũng là điều kiện cần cho cán bộ thẩm định nhằm hạn chế rủi ro đạo đức ngân hàng.
Nhân tố con người luôn chi phối mọi hoạt động trong quy trình hoạt động thẩm định dự án từ khâu tiếp nhận hồ sơ xin vay, thu thập, xử lý thông tin cho đến khi cho vay và thu nợ. Vì vậy, trong hoạt động thẩm định dự án thì nhân tố con người luôn đóng vai trò quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dự án.
* Phương pháp thẩm định
Các ngân hàng thường hay sử dụng phương pháp so sánh rất phổ biến và đơn giản trong khi thẩm định. Một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tài chính chủ yếu của dự án như khả năng thanh toán, thời hạn thu hồi vốn, cơ cấu vốn, doanh lợi vốn tự có... sau khi đem phân tích và tính toán sẽ được đem so sánh. Vấn đề cốt lõi khi áp dụng phương pháp này là ngân hàng căn cứ vào mức chuẩn nào để đánh giá mặt tài chính của dự án vay vốn. Trên thực tế, được đem ra làm chuẩn để so sánh là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của các dự án tương tự đã và đang được thực hiện.
Nhưng hiện nay, ở nước ta các dự án đang hoạt động phần lớn có hiệu quả thấp. Do đó nếu so sánh như trên thì mức hiệu quả dự án chưa chắc đã đạt được như mong muốn. Do vậy, việc thẩm định dự án bằng phương pháp so sánh có rất nhiều nhược điểm. Từ trước đến nay, chưa có cơ quan chuyên môn, chuyên gia kinh tế nào xây dựng ra bất kỳ chuẩn mực nào để làm cơ sở so sánh, thẩm định tính khả thi của các dự án đầu tư. Do vậy, công tác thẩm định có thể nói hoàn toàn dựa vào kiến thức hiểu biết về các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư, kinh nghiệm quản lý dự án trong thực tiễn.
* Chất lượng thu thập thông tin
Hiện nay, việc thu thập thông tin liên quan đến dự án đều do cán bộ thẩm định ngân hàng đảm nhiệm. Mọi nguồn thông tin ngân hàng có được phần lớn dựa vào các tài liệu mà người vay gửi đến. Đồng thời, ngân hàng dựa vào nguồn thông tin đại chúng về doanh nghiệp mà các thông tin này không mang tính pháp lý, chỉ có ý nghĩa tham khảo khi phân tích, đánh giá. Bên cạnh đó, việc sàng lọc xử lý thông tin của ngân hàng nhiều khi không cẩn thận. Do vậy, chưa phát hiện ra được những sai lệch, méo mó trong các báo cáo tài chính cũng như những điểm bất hợp lý trong các dự án đầu tư mà doanh nghiệp gửi đến. Vấn đề này dẫn đến việc tính toán thiếu chính xác mức hiệu quả dự án đầu tư của các ngân hàng.
* Công tác tổ chức điều hành
Tổ chức điều hành là việc bố trí, sắp xếp, quy định trách nhiệm, quyền hạn của cá nhân, bộ phận tham gia thẩm định, trình tự tiến hành cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức, cá nhân, bộ phận đó trong việc thực hiện. Yếu tố này ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng thẩm định, nó có thể tạo điều kiện nâng cao chất lượng thẩm định song cũng có thể là một nhân tố kìm hãm từ bên trong nội bộ ngân hàng. Cần có sự phân công, phân nhiệm khoa học, chặt chẽ, tận dụng tối đa năng lực sáng tạo và sức mạnh tập thể, đồng thời tạo ra được cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ bằng cách thành lập bộ phận kiểm soát nội bộ, kiểm soát tổng hợp, được tổ chức độc lập với các bộ phận khác và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của ban giám đốc thì những rủi ro trong việc thẩm định sẽ hạn chế được tối đa, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư.
3.2.1.2. Nhân tố bên ngoài
* Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đến vay vốn ngân hàng đều phải có phương án hoạt động sản xuất kinh doanh đã được soạn thảo kỹ lưỡng. Để có thể nhận được các khoản vay từ phía ngân hàng, không chỉ đòi hỏi dự án phải đạt hiệu quả cao, ít rủi ro tiềm ẩn mà còn cần doanh nghiệp phải có "lý lịch đẹp" cũng như tiềm lực tài chính vững mạnh trong quá khứ và hiện tại. Mọi yếu tố trên đều ảnh hưởng đến các số liệu, nội dung trong các báo cáo tài chính, thuyết minh giải trình dự án và những thông tin khác mà bản thân doanh nghiệp, dự án cung cấp là không đầy đủ, thiếu trung thực.
* Nguyên nhân từ môi trường vĩ mô
Một lĩnh vực thông tin khác cũng hết sức quan trọng và cần thiết đối với công tác thẩm định là thông tin về chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, ngành, địa phương; thông tin về lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, môi trường kinh doanh của dự án; thông tin mang tính pháp luật có liên quan đến công tác quản lý đầu tư dự án như luật đầu tư, thương mại, hợp đồng kinh tế, đất đai...
Mọi nguyên nhân trên quy tụ lại đều dẫn đến vấn đề thiếu hụt thông tin, thông tin kém trung thực, thông tin không đầy đủ. Thực tế này dẫn đến các báo cáo thẩm định dự án của ngân hàng trên nhiều phương diện còn phiến diện, thiếu chuẩn xác (chưa đi vào xem xét mục đích của dự án có phù hợp, có đóng góp gì cho chiến lược phát triển ngành, xã hội, sản phẩm kinh doanh của dự án có ý nghĩa thiết thực, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, dự án đầu tư có vay vốn nước ngoài, có tuân thủ các điều lệ vay và trả nợ nước ngoài...) đều ảnh hưởng đến quyết định cho vay, đầu tư của ngân hàng.
* Các nhân tố khác
Một dự án đầu tư thường có tuổi thọ dài, do đó các nhân tố môi trường bên ngoài như tình hình kinh tế, sức ép cạnh tranh trong ngành, các quy định của pháp luật cũng có những ảnh hưởng nhất định tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng. Những nhân tố này luôn thay đổi và nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Khi rủi ro bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh xảy ra, ngân hàng cũng không thể thu hồi vốn bởi loại rủi ro này cũng ảnh hưởng nghiêm trọng tới dự án và doanh nghiệp không thể chống đỡ được.
Các quyết định, chính sách của Chính phủ cũng như các văn bản điều chỉnh lãi suất, quy chế cho vay của Ngân hàng Trung ương cũng tác động đến chất lượng công tác thẩm định dự án.
Ngoài ra, trình độ lập dự án của chủ đầu tư cũng như độ trung thực của các báo cáo tài chính còn hạn chế cũng làm giảm chất lượng thẩm định dự án đầu tư.
3.2.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi tại chi nhánh NHno&PTNT Bắc Hà Nội
Xuất phát từ sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi và trên cơ sở tìm kiếm thực tế công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp trên các phương diện sau:
- Hoàn thiện quy trình và soạn thảo các quy trình riêng cho từng lĩnh vực của dự án đầu tư.
- Khai thác, đánh giá thông tin
- Đào tạo cán bộ
- Nâng cao cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ
3.2.2.1. Về quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội nhìn chung tương đối hợp lý và đầy đủ các khâu theo một quy trình chuẩn của NHN0&PTNT Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vẫn còn hạn chế. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư chi nhánh nên chú trọng một số vấn đề sau:
a. Khi thẩm định khách hàng vay vốn
Ngân hàng căn cứ báo cáo tài chính mà doanh nghiệp gửi cho ngân hàng để thẩm định năng lực tài chính, khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Để công tác thẩm định khách hàng có ý nghĩa thì các thông tin khách hàng cung cấp phải chính xác. Vì vậy trước khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng cần xác minh tính đúng đắn, trung thực của số liệu. Yêu cầu khách hàng nộp đủ báo cáo tài chính của ít nhất 2 năm liền kề và của quý, tháng gần thời điểm vay vốn nhất để có thể đánh giá được xu hướng hoạt động của doanh nghiệp. Việc lập và tính toán các chỉ tiêu tài chính phải phục vụ cho việc phân tích chứ không phải lập cho có lệ hay lập rồi để đấy. Ví dụ: Trong các khoản phải thu thì bao nhiêu phần trăm là khó đòi; trong hàng tồn kho thì có bao nhiêu phần trăm là hàng kém phẩm chất, bị ứ đọng; tài sản cố định lạc hậu hay hiện đại…
Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính, cán bộ tín dụng nên đánh giá, kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực liên quan. Bên cạnh đó, ngân hàng cần khẩn trương đưa vào phân tích, đánh giá báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đa số các ngân hàng hiện nay, khi phân tích tình hình tài chính của khách hàng thì chỉ quan tâm đến bảng cân đối kế toán và kết quả sản xuất kinh doanh chứ chưa chú ý đến báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đánh giá chính xác năng lực quản lý ngân quỹ cũng như khả năng tính toán hiện đại và tương lai của khách hàng.
Ngân hàng có thể dựa vào tổng số vốn đăng ký mà phân thành các quy mô doanh nghiệp khác nhau (lớn, vừa, nhỏ). Đối với những doanh nghiệp có số vốn lớn thì ngân hàng nên đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, trình độ quản lý của doanh nghiệp. Do việc quản lý các doanh nghiệp lớn khó khăn hơn và vốn vay thường lớn hơn. Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình…) ngân hàng nên chú trọng hơn uy thế, năng lực kinh doanh, khả năng thanh toán và các điều kiện bảo đảm tiền vay.
Bên cạnh biện pháp sử dụng số liệu và chỉ tiêu cứng nhắc nói trên, ngân hàng cũng có thể sử dụng nghệ thuật để thẩm định khách hàng vay vốn. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng có thể nhận xét một cách khách quan nhất về khách hàng. Cán bộ tín dụng có thể tiếp xúc, phỏng vấn chủ doanh nghiệp hoặc trực tiếp đến doanh nghiệp khảo sát tình hình thực tế. Từ đó có những thông tin về doanh nghiệp được đầy đủ, cụ thể và chính xác hơn.
Làm thế nào để không gây khó dễ cho khách hàng mà cán bộ tín dụng vẫn có đủ thông tin để đánh giá khách hàng. Sau đây là một số yếu tố có thể giúp cho cán bộ tín dụng có thể đánh giá định tính về khách hàng:
- Khả năng lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp là yếu tố quan trọng nhất. Nếu khả năng quản lý tốt có thể biến đổi một doanh nghiệp kém thành một doanh nghiệp khá và ngược lại. Để đánh giá khả năng này của chủ doanh nghiệp, cần xem xét các nội dung sau:
+ Năng lực đề ra chiến lược kinh doanh có sức cạnh tranh và đứng vững trên thị trường.
+ Kế hoạch phát triển khai thác các công việc một cách hợp lý, có hiệu quả, đảm bảo tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật và Bộ Tài chính.
+ Tạo nên một cơ cấu tổ chức hiệu quả, phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn giữa nhân viên và người điều hành. Sử dụng đúng người, đúng việc, có chính sách khuyến khích khen thưởng và tuyển mộ hợp lý.
+ Có tinh thần dám nghĩ dám làm và chịu trách nhiệm trước những quyết định của mình.
- Hình ảnh, vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương trường được khẳng định qua dư luận xã hội trên các phương diện thông tin đại chúng, trong quan hệ với khách hàng, với nhà cung cấp.
b. Khi thẩm định dự án vay vốn
NHN0&PTNT Bắc Hà Nội cần thẩm định đầy đủ các nội dung cần thiết để đảm bảo nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện, giúp cho việc ra quyết định đầu tư một cách chính xác. Cần nhận thức rằng mọi nội dung của dự án đều có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kết quả thẩm định phương diện thị trường là cơ sở để đánh giá việc lựa chọn kỹ thuật, quy mô, công suất của dự án, kết quả thẩm định phương diện kỹ thuật lại là cơ sở để tính toán các dòng thu nhập, chi phí, xác định nên hiệu quả tài chính của dự án. Trong khi hiệu quả tài chính dự án lại là cơ sở để thẩm định lợi ích kinh tế, xã hội và quyết định phương án cho vay, thu nợ của ngân hàng.
Khi thẩm định phương diện thị trường của dự án, cán bộ thẩm định cần thu thập các thông tin về: Số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường (kể cả những doanh nghiệp sắp thành lập); mức cầu sản phẩm cùng loại trong năm qua (ít nhất là 5 năm) để thấy được tốc độ tăng trưởng trong thời gian qua, làm cơ sở cho việc dự báo tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới; mức cung thực tế của các doanh nghiệp trên thị trường; thông tin giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra, cán bộ thẩm định còn phải nắm được quy hoạch, kế hoạch đầu tư định hướng phát triển do Bộ, ngành xây dựng công bố để đảm bảo dự án là các công trình được tiến hành theo đúng quy hoạch của nhà nước.
Khi tiến hành thẩm định phương diện kỹ thuật với những dự án phức tạp vượt ra ngoài khả năng của cán bộ đầu tư, ngân hàng nên thuê chuyên gia, tránh tình trạng chấp nhận ngay những kết quả kỹ thuật doanh nghiệp đưa đến. Đồng thời bản thân cán bộ thẩm định cũng phải nghiên cứu, tìm hiểu về những ngành nghề, sản phẩm của dự án do mình phụ trách.
Khi lập dự toán và nguồn vốn đầu tư, ngân hàng cần chú trọng kiểm tra tính hợp lý và đầy đủ về các khoản chi phí đầu tư dựa trên cơ sở tham khảo những dự án tương tự điển hình (không chỉ những dự án do NHNo&PTNT Bắc Hà Nội thẩm định mà cả của những ngân hàng khác đã từng thẩm định). Ngân hàng không nên chỉ dựa vào kế hoạch dự trù chi phí do chủ đầu tư đưa ra như hiện nay, tránh tình trạng tính thừa hoặc thiếu. Chú trọng đến giá bán sản phẩm dự kiến để tạo nên đầu tư, tham khảo giá bán các dự án trong nước và trên khu vực để dự tính giá bán khi Việt Nam gia nhập AFTA, WTO.
Khi tiến hành thẩm định phương diện tài chính, chi nhánh cần xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu tài chính. Việc vận dụng tính các chỉ tiêu này cần đúng và đủ song quan trọng hơn là cán bộ thẩm định phải đưa ra được những đánh giá, kết luận từ các chỉ tiêu đó và lựa chọn tiêu chuẩn chấp nhận dự án một cách chính xác, phù hợp với từng loại ngành nghề, đôi khi có sự ưu tiên về một khía cạnh nào đó của dự án.
Khi tính toán chi phí sản xuất cho dự án, cán bộ đầu tư nên lập bảng tính lãi vay dựa trên dư nợ còn lại. Việc tính lãi vay như vậy sẽ mang tính thực tế hơn. Việc tính khấu hao tài sản cố định cần thực hiện theo đúng quy định của Bộ Tài chính, tránh hiện tượng khấu hao quá thấp, thời hạn thu hồi vốn quá dài. Dự trù thu nhập- chi phí phải được lập theo từng năm, tránh tình trạng san đều như nhau qua mỗi năm và do vậy điểm hoà vốn trả nợ cũng cần phải được lập theo năm. Trong quá trình lập dự trù thu nhập, chi phí, cán bộ thẩm định thường lấy theo giá trị trung bình của các biến số với độ chính xác không cao. Vì vậy, để tránh việc chấp nhận những dự án quá lạc quan, người ta thường sử dụng những ước tính với xu hướng giảm bớt doanh thu và tăng chi phí.
Dựa trên cơ sở lý luận đã trình bày ở chương I cùng với tình hình thực tế và khả năng ứng dụng, ngân hàng nên áp dụng hệ chỉ tiêu đánh giá báo gồm: Giá trị hiện tại ròng (NPV), tỉ suất nội hoàn (IRR), chỉ số doanh lợi (PI), thời gian hoàn vốn có chiết khấu, điểm hoà vốn qua các năm, phân tích rủi ro…bằng các ứng dụng chương trình phần mềm máy tính. Ngoài ra cán bộ thẩm định cần tiến hành phân tích thêm chỉ tiêu độ nhạy của dự án và ảnh hưởng của lạm phát đến hậu quả của dự án vì dự án đầu tư thường có vòng đời tương đối dài và tất yếu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định để có quyết định chính xác hơn về tính khả thi của dự án.
Mục đích của phân tích độ nhạy là kiểm tra mức độ nhạy cảm của dự án đối với sự biến động của từng yếu tố trong tương lai. Từ đó xác định mức độ của các yếu tố rủi ro và chiều hướng tác động của các yếu tố đó đến hiệu quả của dự án chẳng hạn khi có lạm phát làm doanh thu giảm 5% hoặc chi phí sản xuất tăng 5% hoặc cả hai nhân tố biến động đồng thời thì NPV, IRR biến động như thế nào và xem xét lại dự án có còn khả thi hay không.
Ngân hàng cần soạn thảo quy trình riêng cho mỗi lĩnh vực của dự án đầu tư (lĩnh vực xây dựng cơ bản, kinh doanh dịch vụ, sản xuất chế biến…) nhằm tạo điều kiện để cán bộ tín dụng xác định rõ hơn công việc mà mình phải làm, tránh hiện tượng thẩm định thừa, thiếu các nội dung và các chỉ tiêu. Để công tác đầu tư có hiệu quả và chất lượng hơn, chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội cần có một quy trình thẩm định dự án rất cụ thể cho từng loại hình đầu tư.
3.2.2.2. Xây dựng nội dung, hệ thống chỉ tiêu thẩm định các DA ĐT trong lĩnh vực sản xuất chế biến
Cụ thể trong lĩnh vực sản xuất chế biến, có thể bổ xung thêm một số nội dung trọng yếu như trong khâu dự báo thị trường, thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án. Các chỉ tiêu này khi được áp dụng cụ thể, phải đảm bảo không chỉ mang tính định tính, phải có tính định lượng rõ rang. Từ đó mới đảm bảo đưa ra kết luận xác thực hơn về các chỉ tiêu tài chính của dự án trong tương lai, giảm thiểu rủi ro tín dụng cho Chi nhánh. Từ những dữ liệu này tại Chi nhánh, đơn vị có thể tập hợp và xây dựng một hệ thống chỉ tiêu trong lĩnh vực sản xuất chế biến như ( tùy thuộc vào ngành nghề cụ thể):
- Mức độ nâng cao chất lượng sản phẩm là bao nhiêu năm? (thời gian thay đổi công nghệ sản xuất, chế biến).
- Sản phẩm của dự án chiếm thị phần khoản bao nhiêu thì được gọi là có sức cạnh tranh cao?
Hơn nữa, Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp tín dụng cũng như là một nội dung quan trọng, cần thực hiện định kỳ, thường xuyên và nghiêm túc với tất cả các loại hình doanh nghiệp hay ngành nghề kinh doanh. Kết quả nội dung này không chỉ bổ sung thêm thông tin quan trọng trong việc ra quyết định mà còn giúp Chi nhánh kiểm soát được rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Có được những dữ liệu lưu giữ này, cán bộ tín dụng có thể sử dụng ngay khi có nhu cầu tín dụng phát sinh mà không cần mất thời gian làm lại các bước phân tích từ đầu.
Việc phân tích nên thực hiện định kỳ 6 tháng một lần trên cơ sở quyết toán của doanh nghiệp. Nội dung phân tích cần đi sâu là: Phân tích chi tiết tồn kho, các khoản phải thu, các khoản phải trả ( thời điểm phát sinh, đối tượng, khách hàng), phân tích dư nợ hiện tại, quan hệ vay, trả, so sánh với doanh thu cùng thời điểm của doanh nghiệp, phân tích tình hình thị trường về khả năng tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp( chủng loại, khối lượng, giác cả), mối quan hệ giữa cung và cầu sản phẩm, thị phần sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp. Tính toán các chỉ số đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp (chỉ số thanh toán nhanh, hệ số tài trợ vốn). Từ đó có thể tính toán mức tồn kho hợp lý, loại khỏi hàng tồn kho những vật tư, hàng hóa ứ đọng, chậm luân chuyển, đánh giá tốc độ chu chuyển vốn của doanh nghiệp, tỷ lệ những khoản phải thu khó đòi, phải trả quá hạn để tìm giải pháp cùng doanh nghiệp tháo gõ khó khăn trong thanh toán.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tương đối toàn diện như trên, ngoài việc giúp doanh nghiệp có được cái nhìn toàn cảnh về bức tranh kinh doanh của mình, đồng thời ngân hàng cũng có cơ sở đưa ra những phán quyết tín dụng mới xác thực hơn.
3.2.2.3. Thu thập, xử lý đánh giá tốt thông tin
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, với sự đa dạng của các nguồn thông tin cùng với các cách xử lý thông tin ngày càng hiện đại, việc thu thập chính xác kịp thời nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư là khá phức tạp nhưng hết sức cần thiết.
Vấn đề đặt ra là cần phải thu thập các nguồn thông tin, phân loại, xử lý và đánh giá thông tin như thế nào để có được các thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác. Một trong những hướng giải quyết là cần sử dụng rộng rãi máy vi tính và các phần mềm ứng dụng trong phân tích đánh giá dự án. Bởi lẽ, ngoài chức năng lưu trữ, cập nhật, truy cập thông tin, máy vi tính cho những khả năng vô cùng chính xác trong tính toán, kiểm tra, phân tích dự án. Cần lưu ý tránh sử dụng nguồn thông tin một chiều.
Việc nghiên cứu những thông tin này cần xuất phát từ những yếu tố cần tính toán trong quá trình thẩm định để đảm bảo yêu cầu đánh giá dự án đầu tư được chính xác. Các thông tin cơ bản về các khía cạnh sau:
+ Thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về đối thủ cạnh tranh, về thị trường nguyên liệu để thẩm định giá cả tiêu thụ sản phẩm, chi phí sản xuất kinh doanh.
+ Thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
+ Thông tin về các tính năng, đặc điểm hoạt động của máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất…để đánh giá công suất, sản lượng bảo đảm cho doanh thu của dự án. Cũng như góp phần thẩm định chi phí sản xuất kinh doanh vì công suất máy móc thiết bị càng lớn thì khả năng hạ giá thành càng nhiều.
+ Thông tin về biến động giá cả của tỷ giá hối đoái, chính sánh thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, chính sách đầu tư…ở hiện tại và tương lai với phân tích độ nhạy cảm của dự án đầu tư nhằm có kết luận chính xác hơn nữa cho những dự án có vòng đời dài.
Để có được các thông tin trên cần thu thập từ các kênh khác nhau: Thông tin từ khách hàng và các thông tin từ bên ngoài.
- Thông tin từ khách hàng:
Việc thu thập thông tin bằng cách điều tra trực tiếp từ khách hàng sẽ giúp cán bộ thẩm định phát hiện được những gian lận mà khách hàng cố tình giấu diếm. Mục đích của cuộc phỏng vấn nhằm thu được những thông tin sau:
Làm rõ hơn mục đích vay vốn, khả năng trả nợ và uy tín của khách hàng, giải trình được những nhược điểm chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn trong hồ sơ xin vay vốn thu thập thêm thông tin về doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ và trình độ quản lý của ban lãnh đạo.
Để có thể thu thập được thông tin chính xác đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng các nội dung chuẩn bị phỏng vấn và có phương pháp phỏng vấn khéo léo, phù hợp.
Cùng với việc phỏng vấn trực tiếp khách hàng, cán bộ đầu tư phải trực tiếp xuống cơ sở sản xuất của doanh nghiệp để thăm quan, khảo sát thực tế. Cán bộ thẩm định phải chú ý trường hợp khách hàng mượn nhà xưởng của người khác cho ngân hàng tham quan. Do đó cần phải gặp gỡ với các công nhân, ngoài ra cần bố trí những chuyến đi đột xuất để có thể thu nhập được những thông tin chính xác hơn.
- Các kênh thông tin từ bên ngoài
+ Thông tin của các ngành chuyên gia thuộc lĩnh vực mà dự án đang được xem xét đầu tư: ngành in ấn, ngành y tế, ngành nông nghiệp…
+ Thông tin của các cơ quan quản lý chức năng như thống kê, tài chính, thuế…Đối với NHN0&PTNT Bắc Hà Nội cần khai thác thông tin từ: Trung tâm thông tin tín dụng CIC, Công ty kiểm toán việt nam VaCo, các công ty kiểm toán có uy tín khác: Ernst and Young…
+ Thông tin của các phương tiện truyền thông, báo chí, phát thanh, truyền hình…
+ Thông tin về những vấn đề có tính chất vĩ mô ảnh hưởng đến dự án như tình hình thị trường tiền tệ trong nước, khu vực và thế giới, tình hình xuất nhập khẩu.
Việc khai thác các kênh thông tin này rất cần thiết sự hỗ trợ về tài chính, về tổ chức của các cơ quan hữu quan nhà nước.
3.2.2.4. Đào tạo và đào tạo lại cán bộ thẩm định.
Cán bộ thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội là những người trực tiếp tham gia thẩm định dự án, tham gia góp ý kiến cấp quyết định đầu tư về dự án khả thi và việc chấp thuận cho vay hay không cho vay. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ thẩm định dự án là phải có năng lực, trình độ và nắm vững quy trình nghiệp vụ thẩm định dự án. Đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt, nghiêm túc trong công việc và luôn đặt mục tiêu chất lượng thẩm định dự án lên hàng đầu.
Chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội cần có kế hoạch đào tạo tức thời và dài hạn kiến thức chuyên môn, trang bị thêm hiểu biết về pháp luật, thị trường, kinh tế, ngoại ngữ, tin học, chế độ…cho cán bộ tín dụng. Tích cực học tập thể lệ của ngành, liên ngành, chủ trương đường lối, mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và địa phương…Tạo điều kiện cho cán bộ tự nâng cao trình độ kiến thức và năng lực, kinh nghiệm làm việc. Chi nhánh cần đặt ra những yêu cầu chuyên môn bắt buộc, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, tài chính kế toán, ngân hàng, ngoại ngữ, tin học, thanh toán quốc tế…Bên cạnh đó có kế hoạch thực hiện sắp xếp lại những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc.
Cán bộ tín dụng cần tiếp cận với các dự án tại các khu đô thị mới, khu chung cư trong khu vực quận; Phối hợp với công ty phát triển nhà, đô thị để triển khai công tác này.
Để hướng tới một ngân hàng có quy mô hiện đại trong tương lai gần, để đủ sức kinh doanh, cạnh tranh, phục vụ tốt khách hàng trên địa bàn thủ đô, ngay từ bây giờ chi nhánh phải có kế hoạch tăng cường, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ “khung”, kế cận, phải có kiến thức, trình độ nghiệp vụ cơ bản, có đạo đức, lối sống lành mạnh, trách nhiệm nghề nghiệp cao, có bản lĩnh, kiên định, kinh nghiệm nghề nghiệp vững chắc. Cần chỉ đạo sát sao công tác đào tạo lại, đào tạo mới một cách có hệ thống nhằm bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho cán bộ, tiếp cận với phương pháp lập và thẩm định dự án tiên tiến; tổ chức tập huấn nghiệp vụ, tăng cường tổ chức các buổi hội thảo, học tập các văn bản mới về đầu tư xây dựng cơ bản và các lĩnh vực khác có liên quan, trang bị cho cán bộ những kiến thức về kinh tế, tài chính, tiền tệ…Mời các chuyên gia chuyên ngành truyền đạt về công tác quản lý, định mức đơn giá xây dựng cơ bản, giúp cán bộ nắm vững các chế độ, chính sách của Nhà nước.
Ban lãnh đạo cần có giải pháp về công tác tuyển dụng cán bộ, có chế độ lương, thưởng, khuyến khích, ưu đãi cho cán bộ tín dụng. Ngoài ra chi nhánh cần có các quy định cụ thể về xử lý các trường hợp vi phạm nội quy, quy chế thẩm định dự án để nâng cao ý thức kỹ luật, tinh thần trách nhiệm. Cần đưa công tác kiểm tra giám sát làm công tác trọng tâm để ban lãnh đạo điều hành công việc; chỉ đạo kịp thời bộ phận thẩm định, tránh sơ hở, sai sót đáng tiếc trong khi thẩm định dự án mà chấp nhận dự án không khả thi hoặc bỏ qua các dự án có hiệu quả tốt, giúp cho chi nhánh có quyết định lựa chọn phương án đầu tư đúng đắn nhất.
3.2.2.5. Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ
Hiện nay, cơ sở vật chất của chi nhánh vẫn đang còn hạn chế, trụ sở phải thuê nên để thực hiện được giải pháp này là một vấn đề rất khó. Tuy nhiên, trong những năm tới, khi tình hình hoạt động của ngân hàng phát triển, có trụ sở làm việc thì cần hoàn thiện cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ tin học trong công tác thẩm định.
Để quá trình thẩm định được diễn ra đúng quy trình, nhanh và chính xác thì phải đầu tư một hệ thống trang thiết bị, công nghệ hiện đại; áp dụng những kỹ thuật phân tích tính toán mới để có thể truy cập, xử lý một khối lượng thông tin phức tạp.
Do số lượng máy vi tính còn hạn chế, hơn nữa các phầm mềm trợ giúp công tác thẩm định còn chưa cập nhật. Vì vậy trong thời gian tới, ngân hàng cần nghiên cứu và lắp đặt hệ thống máy vi tính và nối mạng giữa các bộ phận trong nội bộ ngân hàng, mua một số phần mềm hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án đầu tư và quản lý trao đổi thông tin. Tuỳ theo quy mô và tính chất công việc mà có sự đầu tư phù hợp để vừa không lãng phí vừa đảm bảo phục vụ tốt nhất cho yêu cầu công việc.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Thẩm định dự án đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng khác nhau. Để công tác thẩm định dự án đầu tư ngày càng hiệu quả hơn thì cần có một giải pháp đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều ngành nhiều cấp. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số kiến nghị sau:
3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ
Ngân hàng là kênh phân phối vốn cho nền kinh tế. Do đó Chính phủ nên tạo diều kiện cho ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
Chính phủ có cơ chế và biện pháp kiên quyết yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán, thống kê và và báo cáo theo đúng quy định của nhà nước. Đồng thời cũng ban hành qui chế bắt buộc ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, công ty tài chính, các doanh nghiệp phải chịu sự giám sát của hệ thống kiểm toán quốc gia và mức độ trách nhiệm cho từng bên tham gia.
Cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Chính phủ cần dứt khoát loại bỏ những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, chỉ để tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và thực sự cần thiết nhằm tạo điều kiện cho đầu tư tín dụng có trọng điểm và nâng cao hiệu quả. Chính phủ cần tăng cường trách nhiệm của cơ quan hữu quan trong việc cấp giấy phép thành lập công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thuộc những ngành nghề chủ chốt có hoạt động kinh doanh phát triển, Chính phủ cần tiếp tục bổ sung vốn điều lệ thường xuyên để đảm bảo vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Hiện nay ở nước ta, số doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp và có tiềm năng lớn. Tuy nhiên, chúng ta chưa tạo được một mặt bằng cạnh tranh chung cho các doanh nghiệp. Trong việc vay vốn Ngân hàng, các doanh nghiệp nhà nước vẫn được ưu tiên hơn và tâm lý chung của ngân hàng là thường muốn cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doanh hơn là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này cũng làm ảnh hưởng tới kết quả thẩm định dự án. Vì vậy việc tạo dựng một môi trường cạnh tranh bình đẳng đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích, thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển.
Đối với các DNNN Chính phủ cần phải giảm bớt những “giúp đỡ “để các doanh nghiệp này từng bước làm chủ sản xuất kinh doanh, chụi những quy luật cạnh tranh của thị trường. Trước mắt có thể là những khó khăn nhưng sau đó nó sẽ đứng vững và caác hoạt động có hiệu qủa hơn. Những “giúp đỡ”cần được giảm đầu tiên là trong các quan hệ tín dụng đối với các NHTM quốc doanh. Từ trước nghị định 178/NĐ- CP/1999, chủ trương của Chính phủ vẫn tách rõ ra doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp phi quốc doanh trong hoạt động tín dụng. Cho phép các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn không cần thế chấp, điều này là hoàn toàn bất hợp lý bởi lẽ, khi không phaỉ thế chấp tài sản thì tổng số tiền vay tại các Ngân hàng có thể sẽ lớn hơn nhiều so với nguồn vốn kinh doanh hiệ có. Điều này hiển nhiên cho rằng hệ số tài trợ không có giá trị trong công tác thẩm định. Hậu quả là doanh nghiệp sẽ “phồng to”hơn so với năng lực thực tế của mình, nếu như có xảy ra rủi ro trong quá trình kinh doanh (Vấn đề này là không tránh khỏi) thì doanh nghiệp không có đủ năng lực để tàu trợ. Như vậy DNNN và NHTM quốc doanh đều là vốn của Nhà nước thì cần tách bạch rành rọt để cho mỗi chủ thể tự chủ trách nhiệm lấy nguồn vốn của mình và hoạt động có hiệu quả hơn. Tình trạng bỏ “túi lành”sang “túi thủng”như hiện nay là bất cập. Công tác thẩm định không có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp này.
Chính phủ cần có thái độ dứt khoát sắp xếp alị các doanh nghiệp, chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho dan sinh, tạo điều kiện cho mở rộng quy mô tín dụng. Cổ phần hoá DNNN là phương thức sắp xếp lại doanh nghiệp huy động được các nguồn lực từ nhiều thành phần kinh tế khác. Cổ phần hoá là một trong những biện pháp quan trọng để Doanh nghiệp có cơ hội tăng vốn tự có từ đó, doanh nghiệp có thể tiép cận với những khoản tín dụng đảm báo điều kiện dạt ra của NH về vốn tự có. Hàng năm chính phủ đều có những kế hoạch đầu tư phát triển cho từng ngành thực hiện không đồng nhất: có hiẹn tượng các dự án của ngành thì thừa, các dự án của vùng thì thiếu. Chính những mâu thuẫn này làm cho công tác thẩm định tại Ngân hàng trở nên khó khăn hơn. Bởi vì khi thẩm định phương diện thị trường thì nhu cầu những sản phẩm hàng hoá của dự án tại vùng thì thiếu, nhưng xét trên toàn ngành thì tổng sản lượng lại thừa. Hay tình trạng các dự án cùng loại cùng một lúc thực hiện, trước khi thực hiện thì tổng cung là nhỏ hơn tổng cầu, nhưng nhiều dự án đi vào hoạt động thì tổng cầu nhỏ hơn tổng cung. Những khó khăn này Ngân hàng khó mà lường hết được trong công tác thẩm định, nhưng mà Chính phủ, các bộ có liên quan có thể điều tiết dược theo kế hoạch. Vì vậy, Chính phủ cần lưu tâm hơn nữa về điều này. Đặc biệt, các cơ quan chức năng phải chú trọng đến các chính sách hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án đầu tư, mà quan trọng hơn là công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư: ban hành các chỉ tiêu chuẩn phục vụ cho các NHTM, các tổ chức tài chính. Nhà nước cần quy định rõ các biện pháp chế tài biện pháp xử lý nghiên trọng các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả … để đưa các donh nghiệp hoạt động kinh doanh lành mạnh nhằm nâng cao pháp chế XHCN. Nhà nước cần phải chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ ké toán theo đúng quy dịnh của Nhà nước, bên cạnh đó ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp hệ thôngnn trong viẹc phân tích hoạt đọng sản xuất kinh doanh cuae doanh nghiệp qua đó hạn ché phòng ngừa rủi ro. Hơn nữa tạo điều kiện cho các Ngân hàng đánh giá đúng sức mạnh tài chính của dự án cũng như của doanh nghiệp có dự án.
Đặc biệt, Chính phủ nên thành lập công ty dịch vụ đánh giá tài sản thế chấp. Đây là mô hình tương đối tốt mà nhiều nước trên thế giới đang làm. Cũng như công tác kiểm toán, công ty dịch cụ đánh giá tài sản phải chịu trách nhiệm vật chất và pháp lý khi việc đánh giá không đúng với giá trị thực của tài sản, kịp thời ban hành sửa đổi bổ sung một số luật để tạo hành lang pháp lý cho các ngân hàng kinh doanh thuận lợi:
- Bổ sung, sửa đổi: Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Luật kế toán, pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
- Ban hành kịp thời các luật còn thiếu.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Đề nghị ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định, trợ giúp về thông tin và kinh nghiệm cho ngân hàng. Hàng năm ngân hàng Nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định.
Ngân hàng Nhà nước nên có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng (CIC). Trung tâm cần đưa ra mức độ rủi ro của từng ngành nghề, từng lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho ngân hàng phân loại, xếp hạng doanh nghiệp. Nên thành lập các công ty chuyên mua bán thông tin, các công ty này sẽ cung cấp thông tin về tín dụng, thị trường và của doanh nghiệp một cách đảm bảo và chính xác nhất. Có thể tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giám sát đối với các ngân hàng thương mại để kịp thời phát hiện những sai sót trong công tác thẩm định.
Trong môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh như hiện nay, khi nhiều ngân hàng không chịu cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin về doanh nghiệp có quan hệ với mình cho ngân hàng khác, chỉ khi doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản thì ngân hàng cho vay mới biết chính xác doanh nghiệp đang nợ các ngân hàng khác là bao nhiêu. Ngân hàng Nhà nước cần có quy định chi tiết, rõ ràng các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp được quy định tại Điều 16 Luật Các Tổ chức tín dụng, trong đó làm rõ các trường hợp được coi là thông tin sai sự thật, làm tổn hại lợi ích của tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng cần có sự hợp tác với nhau trong hoạt động tín dụng không chỉ vì lợi ích cục bộ mà bỏ qua các điều kiện, thủ tục cần thiết khi tiến hành thẩm định. Với những tổ chức tín dụng vi phạm cần có biện pháp xử lý hành chính nghiêm minh trong toàn ngành.
Trong thời gian qua, ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản, quy chế quan trọng, tạo ra một hành lang quy chế tài chính – ngân hàng khá rõ ràng và đầy đủ. Song, trên thực tế vẫn còn nhiều mối quan hệ phát sinh trong hoạt động tín dụng-ngân hàng chưa có văn bản, quy chế điều chỉnh. Để đảm bảo tính thống nhất, đầy đủ trong luật định, đề nghị ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung và sớm ban hành các thông tư hướng dẫn, tạo cơ sở vững chắc cho việc thi hành và áp dụng trong các hoạt động thẩm định nói riêng cũng như hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung.
Đặc biệt, ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu vấn đề thế chấp đối với các doanh nghiệp Nhà nước được vay vốn. Đã qua nhiều lần sửa đổi nhưng hiện nay, tài sản hình thành sau khi vay vốn đầu tư được dùng làm tài sản thế chấp cho vốn vay là chưa hợp lý vì về mặt sở hữu vẫn là sở hữu Nhà nước nên hình thức thế chấp này là không được hiệu quả về kinh tế và cũng thiếu cơ sở pháp lý, các biện pháp để xử lý tài sản thế chấp còn thiếu rõ ràng và không thực tế.
NHNN cần thực thi chính sách lãi suất thị trường để cho các NHTMcó sự linh hoạt cho lĩnh vực đầu tư các dự án. Mục tiêu của NHTM là tăng tối đa lợi nhuận, nhưng những quy định về lãi suất trong thời gian vừa qua mặc dù là một chủ trương đúng đắn nhưng nó vẫn có thể làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Nếu chỉ với lãi suất thị trường thì lãi suấtvẫn biến động theo tỷ lệ lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước làm tăng tối đa lợi nhuận cho Ngân hàng, nhất là những dự án đầu tư trung dài hạn. Những hạn chế của lãi suất cố định làm cho khi thẩm định dự án và quyết định cho vay, Ngân hàng vẫn có thể là người chịu thiệt thòi. Bởi vì, các dự án cho vay dự án thường là trung dài hạn nhưng hiện tại lãi suất là thấp ví dụ 1%/ tháng nhưng một năm sau lãi xuất tăng 2%/tháng như có dự án vẫ chỉ được hưởng lãi suất 1%/tháng. Đối với các dự án thuộc ngành có lợi nhuận siêu ngạch như thuốc lá, đồ uống, …mà chúng ta không khuyến khích phát triển thì lãi suất trần sẽ gây cản trở cho Ngân hàng trong việc tăng lãi suất đối với các dự án đầu tư vào ngành này. Việc thay đổi chính sách với các dự án đầu tư vào các ngành này. Việc thay đổi chính sách lãi suất không những giúp Ngân hàng tăng hiệu quả trong việc cho vay các dự án mà còn giúp Chính Phủ điều tiết nền kinh tế đúng định hướng của mình. - Ngân hàng nhà nước là cơ quan điều hành, trực tiếp của các NHTM thì nhất thiết phải có hỗ trợ các NHTM trong công tác thẩm định. NHNN cần ban hành một “cẩm nang”chung về quy trình, nội dung thẩm định dự án trên cơ sở thẩn định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ kế hoạch và Đầu tư phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời hoà nhập dần với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn như việc tính toán một số chỉ tiêu điểm hoà vốn, IRR của dự án có vốn vay Ngân hàng trong điều kiện có lạm phát. Mốc để so sánh các chỉ tiêu đó của dự án nhằm đưa ra quyết định cho vay hay không ? Hoặc quan điểm về tính nguồn trả nợ hàng năm.Ngoài những cuộc hội thảo nhằm bàn bạc đúc rút những kinh nghiệm thẩm định tại NHTM, nhất thiết phải tổ chức những khoá học thường niện cho các cán bộ thẩm định do các chuyên gia của WB, IMF hoặc của một số nước khcs có ngành Ngân hàng phát triển để họ có thể nắm bắt được những tiến bộ, ứng dụng thành công vào công tác thẩm định của mình.
- Hiện nay Chính phủ cho phép các DNNN vay vốn không phải thế chấp tài sản làm đảm bảo thì phải có quy định rõ ràng khi doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến bị phá sản thì vốn vay Ngân hàng được ưu tiên hàng đầu, để tránh tình trạng thất toát vốn của Ngân hàng cũng như của nền kinh tế. - Để phát huy trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin tín dụng, chất lượng thông tin, cần lập các công ty tư vấn chuyên mua bán thông tin. Qua đó tách biệt vai trò quản lý NHà nước của NHNN và vai trò kinh doanh thông tin của các công ty tư vấn.
3.3.3. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam
Với khó khăn hiện nay là chưa có một cơ quan nào đứng ra nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép làm căn cứ so sánh, nên chăng các ngân hàng thương mại cần tự nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn áp dụng cho các chi nhánh trong toàn hệ thống. Chẳng hạn như một số chỉ tiêu sau:
Theo văn bản số 284 của ngân hàng Nhà nước về quy chế cho vay quy định: Thời gian thẩm định dự án đầu tư trung dài hạn là 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của khách hàng. Xét thấy thời gian này là khá dài đối với khách hàng vì trong trong thời gian chờ đợi khách hàng có thể mất cơ hội kinh doanh, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật… Điều này cũng ảnh hưởng đến tiến độ thi công của dự án. Do đó NHNo&PTNT Việt Nam cần xem xét để có thể giảm bớt thời gian thẩm định.
Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn (PP) cần căn cứ theo từng ngành nghề mà có quy định cụ thể. Ví dụ, với các dự án thương mại, dịch vụ, đầu tư chiều sâu, tiểu thủ công nghiệp thì PP5 năm; dự án công nghiệp nhẹ PP7 năm; dự án công nghiệp nặng PP10 năm; công trình hạ tầng PP15 năm;...
Các chỉ tiêu sinh lời của dự án trong từng ngành nghề, các chỉ tiêu đảm bảo của khách hàng vay vốn... cần được cụ thể hoá với các con số nhất định để từ đó làm căn cứ để nhận xét, kết luận.
3.3.4. Kiến nghị với NHNo&PTNT thành phố Hà Nội
NHNo&PTNT Thành Phố Hà Nội nên tạo điều kiện giúp đỡ cho chi nhánh có được trụ sở khang trang, hiện đại, để từ đó đủ sức thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng diễn ra quyết liệt giữa các tổ chức tín dụng.
Đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ tin học và pháp luật, ngoại ngữ, thanh toán quốc tế cho cán bộ, trang bị đầy đủ công nghệ tin học phù hợp với sự phát triển của ngân hàng. Hiện nay chi nhánh vẫn chưa có cán bộ phó phòng kinh doanh, do vậy NHNo&PTNT Thành Phố Hà Nội cần xem xét bổ nhiệm thêm một phó phòng kinh doanh, đồng thời cho thành lập thêm 2 phòng: Phòng thanh toán và phòng hành chính. Cho chi nhánh được nối mạng với một số doanh nghiệp, công ty có lượng tiền chuyển và gửi lớn như: Công ty in Tài Chính, Công ty Xuất nhập khẩu và đầu tư,...
Các điều kiện trên ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, do vậy NHNo&PTNT Thành Phố Hà Nội nên xem xét và hỗ trợ cho chi nhánh thực hiện được các nguyện vọng trên của mình.
3.3.5. Kiến nghị với các bộ ngành liên quan
Nên chăng Bộ Tài chính cần tạo dựng một khung pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải công khai tình hình tài chính của mình khi xin vay ngân hàng. Để làm được điều này, phải tiến hành công tác kiểm toán doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước nhằm có được báo cáo tài chính với độ tin cậy cao. Bộ Tài chính nên có biện pháp kinh tế cũng như hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh thống kê, kế toán.Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp để đảm bảo tính trung thực, chính xác của các con số trên báo cáo tài chính.
Đề nghị các bộ chủ quản như: Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Tổng cục Đầu tư, Tổng cục Thống kê,... hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực đầu tư mà ngành mình phụ trách. Hàng năm thông tin được công bố một cách công khai, chính xác ở trung tâm thông tin ngành để giúp cho ngân hàng và chủ đầu tư thuận lợi trong việc thu thập thông tin. Bộ Kế hoạch và đầu tư cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng xây dựng và phát triển để hướng dẫn các doanh nghiệp, ngân hàng tập trung vào tài trợ cho dự án, các chương trình ưu tiên của Chính phủ.
Đề nghị các Bộ, Ngành địa phương cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt dự án. Các nội dung của dự án có quan hệ rất chặt chẽ với nhau, chỉ cần một trong các nội dung của dự án không được xem xét cẩn thận sẽ dẫn đến các nội dung khác thiếu đi sự chính xác về hiệu quả của dự án. Mặt khác các Bộ, Ngành địa phương có thể thẩm định cùng một dự án nhưng ở các góc độ khác nhau nên sự phối hợp này cũng nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư.
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
1. Mục đích của đầu tư là sinh lời nhưng để nhận biết được khả năng sinh lời của một khoản đầu tư hay một dự án đầu tư là một việc khó. Khi đứng trước một dự án đầu tư, nhà tài trợ (ngân hàng) phải lựa chọn cho mình một phương án tối ưu. Cần có cơ sở định tính và định lượng để xây dựng một phương pháp thẩm định khoa học trên lý thuyết kinh tế và toán học.
2. Xuất phát từ sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, chi nhánh NHN0&PTNT Bắc Hà Nội cần chú trọng một số vấn đề sau:
- Quy trình thẩm định
- Xây dựng nội dung, hệ thống chỉ tiêu thẩm định các DA ĐT trong lĩnh vực SXCB
- Khai thác, đánh giá thông tin
- Đào tạo cán bộ
- Nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ
3. Thẩm định dự án đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng khác nhau. Do đó để công tác thẩm định dự án đầu tư ngày càng hiệu quả hơn thì cần có một giải pháp đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều ngành, nhiều cấp từ chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Hà Nội, cho đến các Bộ, Sở, ngành liên quan như Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Khoa học công nghệ môi trường,…
KẾT LUẬN
Thẩm định dự án đầu tư là một công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải luôn hoàn thiện cả về phương pháp luận cũng như qua thực tế. Tuy nhiên để làm được điều này không phải là đơn giản mà cần phải có sự nỗ lực của toàn hệ thống ngân hàng cũng như sự phối hợp đồng bộ của các cấp, ngành liên quan.
Trong phạm vi giới hạn về không gian và thời gian, địa điểm, luận văn đã đạt được những kết quả sau:
1. Hệ thống lại một số vấn đề lý luận về công tác thẩm định dự án đầu tư, phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư.
2. Phân tích thực trạng công tác thẩm định tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Từ đó đánh giá kết quả đạt được, phát hiện những khuyết điểm và lý giải nguyên nhân của những tồn tại trên.
3. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội
Tuy bài viết còn nhiều khiếm khuyết nhưng với những kết quả đạt được ở trên em xin đóng góp một phần nhỏ bé cho việc hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn
- Thầy giáo- Tiến sĩ Nguyễn Hồng Minh Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
- Trường Phòng Tín Dụng NHNo&PTNN Bắc Hà Nội - Phan Châu Giang cùng các cô, chú tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu “ Hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng” Trung tâm đào tạo- NHNo&PTNT Việt Nam năm 2005
Tài liệu “ Hướng dẫn thẩm định, tái thẩm định các điều kiện vay vốn của doanh nghiệp ”NHNo&PTNT Việt Nam
Đề án “ phát triển kinh doanh chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội giai đoạn 2007-2009”
Quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/03/2002 của HĐQT NHNo&PTNT Việt Nam V/v ban hành Qui định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
Quyết định số 72/QĐ-HĐBT-thẩm định dự án đầu tư ngày 31/3/2002 của Chủ tịch HĐQT-NHNo&PTNT Việt Nam
Sổ tay Cán bộ Tín Dụng của NHNN & PTNN tháng 5 năm 2008.
Quyết định số 1300/QĐ-HĐQT-TDHo ngày 03/12/2007 của HĐQT NHNo&PTNT Việt Nam V/v ban hành qui định các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
Báo Đầu tư, cơ quan của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Báo cáo Thường niên Thị trường thức ăn chăn nuôi Việt Nam năm 2007 và Triển vọng 2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26613.doc