Tình hình tài chính của doanh nhgiệp
Tình hình tài chính của doanh nghiệp được phản ánh thông qua: cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn, khả năng thanh toán, tốc độ tăng trưởng, kết quả tài chính của doanh nghiệp. Tình hình tài chính có ảnh hưởng đến mọi mặt trong hoạt động của doanh nghiệp, nó quyết định đến chi phí huy động vốn, khả năng để tiến hành hoạt động SXKD một cách bình thường và liên tục. Nếu xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác sẽ dẫn đến tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn SXKD, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn Mặt khác, việc xác định cơ cấu đầu tư cũng có tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn Nếu sử dụng vốn đầu tư vào các tài sản chưa cần sử dụng chiếm tỷ trọng lớn thì không những nó không phát huy được phát huy được tác dụng trong quá trình SXKD mà còn bị hao hụt, mất mát và khấu hao dần làm hiệu quả sử dụng vốn giảm.
Tổ chức quản lý của doanh nghiệp
Tổ chức quản lý doanh nghiệp bao gồm cơ cấu tổ chức quản lý và cơ chế hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp. Tổ chức quản lý doanh nhgiệp là cơ sở để truyền đạt và phối hợp thực hiện các quyết định SXKD, nó tạo ra sự kết hợp giữa các phòng ban, bộ phận trong doanh nghiệp hướng tới các mục tiêu như: nâng cao lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phảm dịch vụ Doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì không thể xem nhẹ công tác quản lý doanh nghiệp trên các lĩnh vực như: nhân lực, tài chính, sản xuất, marketing.
Khả năng sản xuất của doanh nghiệp
Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả SXKD của doanh nghiệp. Khả năng SXKD của doanh nghiệp thể hiện thông qua: trình độ kỹ thuật quy mô sản xuất, cơ cấu sản phẩm, năng suất lao động Các nhân tố này ảnh hưởng đến chi phí SXKD, khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường, thời gian hoàn thành sản phẩm cũng như chất lượng sản phẩm. Để tạo ra sản phẩm mới, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phsi, hạ giá thành, doanh nghiệp phải cải tiến và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại, đổi mới công nghệ sản xuất. Có như vậy mới đáp ứng được sự phát triển của thị trường, theo kịp sự phát triển về khoa học cồn nghệ trong ngành.
Hoạt động marketing
Hoạt động marketing làm tăng uy tín, thu hút khách hàng cho doanh nghiệp. Nó định hướng cho quá trình đầu tư và sản xuất của doanh nghiệp đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp. Con người là trung tâm của quá trình SXKD, là yếu tố quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Giá trị mới và lợi nhuận của doanh nghiệp là kết quả lao động sáng tạo của người lao động.
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1728 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các giải pháp tài chính chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần xây dựng và lắp đặt viễn thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CTCP: Công ty cổ phần
VKD: Vốn kinh doanh
VLĐ: Vốn lưu động
TSCĐ: Tài sản lưu động
TSCĐ: Tài sản cố định
KHCN: Khoa học công nghệ
EBIT: Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
XDCBDD: xây dựng cơ bản dở dang
Chi phí SXKDDD: Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
LỜI MỞ ĐẦU
Khi đánh giá tổng quát bộ nền kinh tế nói chung, người ta thường nghĩ ngay đến sự tăng trưởng và phát triển, trong đó nổi bật lên là giá cả, cung - cầu và thị trường, cùng các nhân tố kinh tế khác. Nhưng để có cái nhìn sâu sắc hơn, người ta thường chú ý đến phần “tế bào” quan trọng nhất của nó – các doanh nghiệp. Điều đó thật dễ hiểu bởi các doanh nghiệp và người tiêu dùng, đôi khi là một, đôi khi tách rời, là những chủ thể quan trọng nhất cấu thành nên hệ thống kinh tế. Nhắc đến các doanh nghiệp, người ta nghĩ ngay đến tiềm lực vốn và doanh thu. Đó cũng là hai chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá “sức mạnh” của một doanh nghiệp. Trong khi vốn là yếu tố đầu vào không thể thiếu thì doanh thu – kết quả đầu ra cho ta cái nhìn tổng quan về tình hình hoạt động của một doanh nghiệp. Để có một kết quả tốt, buộc chúng ta phải có sự đầu tư thích đáng. Và một điều kiện không thể thiếu là nguồn vốn kinh doanh phải đáp ứng tốt nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp, phải được sử dụng đúng mục đích và cuối cùng được phân phối một cách hiệu quả.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển năng động, vai trò của vốn càng trở nên quan trọng. Vốn là tiềm lực của doanh nghiệp, qua nó ta có cái nhìn khái quát về quy mô hoạt động cũng như các khả năng tài chính khác của doanh nghiệp. Để phát huy sức mạnh ấy, chúng ta cần có một chính sách tối ưu về vốn, trong đó có vấn đề huy dộng và sử dụng vốn sao cho thật sự mang lại hiệu quả cao. Trong khuôn khổ chương trình đào tạo chuyên sâu của nhà trường, cùng những kiến thức thu thập được trong suốt quá trình thực tập tại Công ty cổ phần xây dựng và lắp đặt viễn thông, em đã quyết định lựa chọn và hoàn thoành công trình nghiên cứu của mình làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp cuối khoá. Đề tài em chọn là: “Các giải pháp tài chính chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ phần xây dựng và lắp đặt viễn thông”.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý tận tình của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, tập thể cán bộ công nhân viên Công ty cổ phần xây dựng và lắp đặt viễn thông, đặc biệt là chị Chu Thị Tuyết Lan – trưởng phòng kế toán của Công ty, đã tạo mọi điều kiện cho em học hỏi trong suốt qua trình thực tập, cũng như hoàn thành bài viết này. Đồng thời cho em gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo, đặc biệt là cô giáo – Thạc sỹ Vũ Thị Yến, đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt thời gian qua!
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 03 năm 2009
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Hương
CHƯƠNG 1
VỐN KINH DOANH VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH
1.1. TỔNG QUAN VỀ VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vốn kinh doanh
Khái niệm
Trong nền kinh tế, người ta thường ví doanh nghiệp như là tế bào quan trọng nhất. Đó là các thực thể sản xuất và cung cấp hàng háo, dịch vụ thoả mãn nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế, đảm bảo sự tồn tại, phát triển của xã hội. Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh cũng đều cần phải có vốn. Phạm trù vốn kinh doanh (VKD) luôn gắn liền với khái niệm doanh nghiệp. Theo điều 4 Luật doanh nghiệp 2005, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Khi xuất phát từ các yếu tố sản xuất, trong tác phẩm “Tư bản” của Max vốn được khái quát hoá thành phạm trù tư bản trong đó nó đem lại giá trị thặng dư và là “một đầu vào của quá trình sản xuất”. Định nghĩa đó đã bao hàm đầy đủ bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn là giá trị cho dù nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: tài sản cố định (TSCĐ), tài sản lưu động (TSLĐ)… và vai trò quan trọng nhất của vốn là đem lại giá trị thặng dư thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh(SXKD). Tuy nhiên, do trình độ phát triển kinh tế – xã hội lúc bấy giờ, khái niệm về vốn chỉ bó hẹp trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư.
Sau Max, các trường phái kinh tế học hiện đại đã kế thừa, phát huy những quan điểm của học thuyết Mac Lênin trong quá trình nghiên cứu về vốn. Theo khái niệm trong cuốn “Kinh tế học” của David Begg, vốn là phạm trù bao gồm: vốn hiện vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hoá để sản xuất ra các hàng hoá khác. Vốn tài chính doanh nghiệp là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Ở đây tác giả đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản của doanh nghiệp trong quá trình SXKD.
Theo P.Samuelson: “Vốn là các hàng hoá sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào của hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp (máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liệu…)
Theo một tác giả trong nước, vốn của doanh nghiệp được hiểu là “tiền đề để doanh nghiệp tiến hành bất kỳ hoạt động SXKD nào cũng cần phải có vốn. Vì vậy, vốn được coi là số tiền ứng trước cho kinh doanh.
Tóm lại có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, tuy nhiên có thể hiểu vốn một cách khái quát: VKD của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản mà doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Đặc điểm vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả VKD đòi hỏi doanh nghiệp phải nhận thức đúng đắn các đặc trưng của vốn. Sau đây là những đặc trưng chủ yếu của VKD:
- Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định. Nói cách khác, vốn là biểu hiện bằng giá trị của các tài sản trong doanh nghiệp. Tài sản trong doanh nghiệp có thể là tài sản hữu hình, tài sản vô hình hay tài sản tài chính. Tại một thời điểm, vốn có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Đặc trưng này giúp doanh nghiệp có sự nhìn nhận toàn diện về các loại vốn, từ đó đề xuất các biện pháp phát huy hiệu quả tổng hợp của VKD.
- Vốn phải vận động để sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để trở thành vốn thì tiền phải được vận động sinh lời. Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm khởi đầu và điểm kết thúc của một vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền tệ với giá trị lớn hơn, tức là kinh doanh có lãi. Điều này đòi hỏi trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp không được để vốn bị ứ đọng.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian tức là, đồng vốn tại các thời điểm khác nhau có giá trị không giống nhau. Sở dĩ vốn có giá trị thời gian là vì những lý do sau:
Thứ nhất: một đồng vốn hôm nay đưa vào SXKD, năm sau sẽ có giá trị ngoài đồng vốn gốc còn có giá trị tăng thêm do chính nó tạo ra.
Thứ hai: do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan như lạm phát, tiến bộ khoa học kỹ thuật nên sức mua đồng tiền ở mỗi thời điểm khác nhau là khác nhau.
Do đó, huy động và sử dụng vốn kịp thời là điều hết sức quan trọng. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn về vấn đề này thông qua quá trình luân chuyển của vốn.
- Vốn được gắn với chủ sở hữu nhất định, điều này có nghĩa là không có đồng vốn nào vô chủ. Chỉ khi vốn được gắn với chủ sở hữu thì đồng vốn mới được sử dụng một cách có hiệu quả.
- Vốn được quan niệm là một loại hoàng hoá đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Trên thị trường vốn, người cần vốn và người có vốn có thể trao đổi quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định và giá của việc sử dụng vốn là khoản lãi phải trả. Với loại hàng hoá đặc biệt này việc trao đổi không làm thay đổi quyền sở hữu vốn mà chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn. Việc mua bán vốn thường tuân theo các quy luật của thị trường.
- Vốn phải tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng trong hoạt động kinh doanh. Đặc trưng này đòi hỏi doanh nghiệp cần lập kế hoạch để huy động đủ lượng vốn cần thiết và trong quá trình kinh doanh cần tái đầu tư lợi nhuận để mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Quá trình luân chuyển của vốn kinh doanh
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp luôn luôn vận động không ngừng. Đối với một doanh nghiệp sản xuất, quá trình luân chuyển VKD được minh hoạ qua sơ đồ sau:
TLSX
T - H … SX … H’ - T’ (T’>T)
SLĐ
Quá trình vận động của vốn bắt đầu từ khi nhà sản xuất bỏ tiền để mua sắm các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Lúc này, vốn tồn tại dưới hình thái vật chất là các tư liệu lao động và đối tượng lao động. Sau quá trình sản xuất, vốn được kết tinh trong thành phẩm. Khi thành phẩm được tiêu thụ thì vốn trở lại hình thái vốn tiền tệ ban đầu nhưng với lượng tiền lớn hơn (nếu kinh doanh có lãi).
Tại sao nghiên cứu quá trình luân chuyển VKD lại quan trọng? Sở dĩ như vậy bởi vì nó đưa ra những chỉ dẫn hữu ích cho công tác quản lý VKD. Sơ đồ luân chuyển VKD đưa ra hai chỉ dẫn quan trọng sau:
- Thứ nhất, trong một khoảng thời gian nhất định, nếu vốn quay được nhiều vòng hơn thì sẽ tạo ra được nhiều T’ hơn mà không cần tăng vốn. Khi đó, lợi nhuận trong kỳ đó sẽ tăng lên. Đó là lý do tại sao các doanh nghiệp luôn nỗ lực thực hiện nhiều biện pháp để tăng vòng quay vốn và sử dụng các chỉ tiêu vòng quay VKD như một chỉ dẫn quan trọng về hiệu quả sử dụng vốn.
- Thứ hai, nếu một giai đoạn nào đó trong quá trình luân chuyển bị gián đoạn thì sẽ gây ra sự đình trệ hay rối loạn cho sự tuần hoàn VKD. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần dự trữ một lượng tiền mặt và hàng tồn kho nhất định nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra thông suốt.
1.1.2. Phân loại Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
1.2.2.1. Vốn cố định của doanh nghiệp
Khái niệm vốn cố định
Để hình thành các TSCĐ đòi hỏi doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn tiền tệ nhất định; lượng vốn tiền tệ này được gọi là VCĐ của doanh nghiệp. VCĐ là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước để hình thành nên TSCĐ mà có đặc điểm tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng luân chuyển khi TSCĐ hết hạn sử dụng.
* Đặc điểm luân chuyển của vốn cố định
Quy mô của VCĐ sẽ quyết định đến quy mô TSCĐ. Song ngược lại, những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại chi phối đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. TSCĐ có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh; TSCĐ hữu hình giữ nguyên hình thái hiện vật ban đầu; giá trị của nó dịch chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất. Đặc điểm này của TSCĐ đã quyết định đến đặc điểm luân chuyển của VCĐ:
- VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Điều này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh quyết định.
- VCĐ dịch chuyển dần từng phần vào giá thành sản phẩm dưới hình thức khấu hao, tương ứng với phần hao mòn TSCĐ.
- Sau nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần tăng lên, song phần giá trị còn lại giảm cho đến khi TSCĐ hết hạn sử dụng, giá trị của nó được chuyển hết vào giá trị sản phẩm thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển của VCĐ đòi hỏi việc quản lý VCĐ phải kết hợp giữa quản lý theo giá trị và quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp.
Nội dung quản lý vốn cố định
VCĐ là biểu hiện bằng tiền của TSCĐ. Do TSCĐ có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có những đặc điểm và yêu cầu quản lý khác nhau nên cần phân loại để có biện pháp quản lý phù hợp. Phân loại TSCĐ là việc phân chia TSCĐ ra thành những nhóm, những loại khác nhau theo những tiêu thức phân loại nhất định. Sau đây là những cách phân loại TSCĐ chủ yếu.
- Phân loại theo hình thái biểu hiện
Theo hình thái biểu hiện, TSCĐ được chia thành 2 loại chính:
+ TSCĐ hữu hình: Là các TSCĐ được biểu hiện dưới hình thái vật chất cụ thể như: Nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật kiến trúc…
+ TSCĐ vô hình: Là các TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, chúng thường là những khoản chi đầu tư cho sản xuất kinh doanh và phát huy tác dụng cho nhiều chu kỳ kinh doanh như: Các khoản chi mua bằng phát minh sáng chế, chi phí mua nhãn hiệu, bản quyền, quyền sử dụng đất…
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. Từ đó lựa chọn quyết định đầu tư hoặc cơ cấu đầu tư sao cho có hiệu quả nhất.
- Phân loại theo mục đích sử dụng
Theo mục đích sử dụng, TSCĐ được chia thành 3 loại:
+ TSCĐ dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh: Bao gồm các TSCĐ không kể là hữu hình hoặc vô hình được sử dụng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp và an ninh quốc phòng.
+ TSCĐ bảo quản, cất giữ hộ.
Cách phân loại này cho thấy cơ cấu TSCĐ theo mục đích sử dụng, từ đó xác định được trong điểm của công tác quản lý TSCĐ.
- Phân loại theo công dụng kinh tế
Theo công dụng kinh tế, TSCĐ được chia thành 6 nhóm sau:
+ Nhà cửa, vật kiến trúc: Bao gồm toàn bộ nhà cửa, kho tàng, bến bãi, hàng rào, bể nước…
+ Máy móc, thiết bị: Bao gồm toàn bộ máy móc thiết bị dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh như máy động lực, máy công tác, máy chuyên dụng…
+ Phương tiện vận tải, truyền dẫn: Gồm các TSCĐ là phương tiện vận tải, các thiết bị truyền dẫn như hệ thống cáp, dây điện, ống dẫn khí…
+ Thiết bị, dụng cụ quản lý: Bao gồm tất cả các thiết bị và dụng cụ dùng trong hoạt động quản lý như máy tính, máy điện tử, máy đo lường kiểm tra chất lượng sản phẩm…
+ Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm: Bao gồm các TSCĐ là vườn cây công nghiệp, cây lâu năm như vườn cà phê, cao su, điều… và các đàn gia súc cơ bản như các loại súc vật cầy kéo, các loại súc vật cho sản phẩm…Loại này thường chỉ có đối với các doanh nghiệp nông nghiệp.
+ Các TSCĐ khác: Bao gồm các TSCĐ còn lại không thuộc năm nhóm trên như tranh, tượng, tác phẩm nghệ thuật…
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho vệc quản lý sử dụng TSCĐ và tính toán khấu hao chính xác.
- Phân loại theo tình hình sử dụng
Theo tình hình sử dụng, TSCĐ được chia làm 3 loại:
+ TSCĐ đang dùng: Gồm tất cả các TSCĐ đang sử dụng vào các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động khác của doanh nghiệp.
+ TSCĐ chưa dùng: Bao gồm tất cả các loại TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng hiện tại chưa sử dụng đến, đang dự trữ để sử dụng sau này.
+ TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: Gồm các loại TSCĐ không cần thiết hoặc không phù hợp với yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh, các TSCĐ đã hư hỏng chờ thanh lý hay nhượng bán.
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng hiệu quả các TSCĐ của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
1.2.2.2. Vốn lưu động của doanh nghiệp
* Khái niệm vốn lưu động
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài các tư liệu lao động các doanh nghiệp còn cần phải có các đối tượng lao động. Khác với các tư liệu lao động, các đối tượng lao động (nguyên liệu, vật liệu, bán thành phẩm…) chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là các TSLĐ, còn về hình thái giá trị được gọi là VLĐ.
VLĐ là số vốn ứng ra để hình thành nên TSLĐ nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp thực hiện được thường xuyên liên tục. VLĐ chu chuyển toàn bộ giá trị trong một lần và được bù đắp toàn bộ khi doanh nghiệp kết thúc chu kỳ kinh doanh. VLĐ cũng hoàn thành một vòng chu chuyển sau một chu kỳ kinh doanh.
* Đặc điểm của vốn lưu động
Đặc điểm của TSLĐ là tham gia vào từng chu kỳ sản xuất, bị tiêu dùng hoàn toàn trong việc chế tạo ra sản phẩm và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Đặc điểm của TSLĐ đã chi phối đến đặc điểm của VLĐ:
- VLĐ dịch chuyển toàn bộ giá trị một lần vào giá trị sản phẩm mới được tạo ra.
- VLĐ được thu hồi toàn bộ một lần sau khi bán hàng thu tiền về và lúc đó kết thúc một vòng luân chuyển.
Nội dung quản lý vốn lưu động
Đặc điểm của TSLĐ và đặc điểm luân chuyển của VLĐ đã chi phối đến công tác quản lý sử dụng VLĐ. Muốn quản lý và sử dụng hiệu quả VLĐ, chúng ta cần thực hiện tốt hai biện pháp sau:
- Trọng điểm của quản lý VLĐ là tăng cường luân chuyển VLĐ qua các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Thực hiện phân loại VLĐ theo các tiêu thức khác nhau nhằm đánh giá sự hợp lý của cơ cấu VLĐ từ đó có biện pháp đảm bảo sự phù hợp của cơ cấu VLĐ.
Phân loại vốn lưu động
Phân loại VLĐ là việc chia VLĐ của doanh nghiệp ra thành các nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Cách phân loại thông thường nhất là dựa vào vai trò của VLĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Theo tiêu thức này, VLĐ được chia làm 3 loại:
- VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất: Là bộ phận VLĐ cần thiết nhằm thiết lập bộ phận dự trữ về vật tư hàng hoá cho quá trình sản xuất, đảm bảo cung cấp đủ vật tư đối với doanh nghiệp sản xuất và hàng hoá đối với doanh nghiệp thương mại. Cụ thể là vốn về nguyên vật liệu chính, vốn về vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, vốn về bao bì đóng gói, vốn về phụ tùng thay thế, vốn về công cụ dụng cụ…
- VLĐ trong khâu sản xuất: Là bộ phận VLĐ kể từ khi doanh nghiệp đưa vật tư vào sản xuất cho đến khi tạo ra sản phẩm như: Vốn sản phẩm dở dang, vốn bán thành phẩm và các khoản chi phí trả trước…
- VLĐ trong khâu lưu thông: Gồm giá trị thành phẩm trong kho chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, các khoản vốn đầu tư ngắn hạn, các khoản thế chấp, ký quỹ ký cược ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp xem xét một cách cụ thể sự luân chuyển của VLĐ qua từng khâu. Khi so sánh tốc độ luân chuyển của từng khâu so với năm trước sẽ giúp nhận biết khâu nào luân chuyển nhanh, khâu nào luân chuyển chậm, vốn bị ách tắc trong khâu nào. Từ đó đưa ra biện pháp điều chỉnh phù hợp.
Ngoài các cách phân loại trên, các doanh nghiệp còn thực hiện phân loại VLĐ theo những tiêu thức khác như: Theo hình thái biểu hiện, VLĐ được chia làm hai loại: Vốn vật tư hàng hoá và Vốn bằng tiền. Dựa vào quan hệ sở hữu, VLĐ được chia làm hai loại: Vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Dựa vào nguồn hình thành, VLĐ được chia thành các nguồn sau: Nguồn vốn điều lệ; nguồn vốn tự bổ sung; nguồn vốn liên doanh, liên kết; nguồn vốn đi vay; nguồn vốn từ việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Mục đích của việc phân loại VLĐ là nhằm xem xét cơ cấu VLĐ theo các tiêu thức phân loại. Các doanh nghiệp khác nhau sẽ có cơ cấu VLĐ khác nhau. Việc phân tích cơ cấu VLĐ theo tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn về cơ cấu VLĐ mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định trọng điểm và biện pháp quản lý VLĐ có hiệu quả, phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Để đánh giá sự hợp lý của cơ cấu VLĐ chúng ta cần xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu VLĐ. Các nhân tố ảnh hưởng được chia thành 3 nhóm chính:
- Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như: Khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp; khả năng cung cấp của thị trường; kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư cung cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp.
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: Đặc điểm kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản xuất; trình độ tổ chức quá trình sản xuất.
- Các nhân tố về mặt thanh toán như: Phương thức thanh toán được chọn theo hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh toán; việc chấp hành kỷ luật thanh toán giữa các doanh nghiệp.
1.1.3. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
VKD luôn được hình thành từ những nguồn nhất định. Do đó, các doanh nghiệp cần nắm rõ các nguồn hình thành vốn để lựa chọn phương án huy động vốn, quản lý sử dụng vốn đạt hiệu quả cao. Một trong những cách phân loại phổ biến nhất và có ý nghĩa lớn nhất là chia nguồn vốn thành nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu.
* Nợ phải trả
Nợ phải trả có đặc điểm là có thời gian đáo hạn, tiền lãi cố định hoặc không phải trả lãi, và nói chung, trái chủ không có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp. Nợ phải trả còn có thể được tiếp tục phân chia thành hai nguồn nhỏ hơn là nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
- Nợ ngắn hạn: Là các khoản nợ có thời gian đáo hạn đến một năm. Trong nợ ngắn hạn, có một thứ tự về sự cấp thiết chi trả. Đầu tiên và cũng cấp thiết nhất là thuế và các khoản phải nộp nhà nước. Thứ hai là các khoản vay, thứ ba là các khoản chiếm dụng người bán và cuối cùng là các khoản phải trả công nhân viên. Nợ ngắn hạn là nguồn vốn ảnh hưởng đến khả năng thanh toán trong ngắn hạn và còn được gọi là nguồn vốn tạm thời của doanh nghiệp.
- Nợ dài hạn: Là các khoản nợ có thời gian đáo hạn trên một năm. Nó bao gồm vay và nợ dài hạn, phải trả dài hạn người bán.
* Nguồn vốn chủ sở hữu
Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, bao gồm vốn góp ban đầu, vốn bổ sung từ lợi nhuận để lại, vốn liên doanh, liên kết, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính…Đặc điểm của nguồn vốn này là không có thời gian đáo hạn; có độ an toàn cao; lợi nhuận chi trả không ổn định, phụ thuộc vào tình hình kinh doanh và chính sách phân phối lợi nhuận; chủ sở hữu được quyền tham gia vào hoạch định các chính sách của doanh nghiệp.
Tổng nợ dài hạn và nguồn vốn chủ sở hữu được gọi là nguồn vốn thường xuyên, tức là nguồn vốn mang tính chất ổn định dài hạn. Nguồn vốn này được dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định (TSCĐ) và một bộ phận tài sản lưu động (TSLĐ) thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tại sao chúng ta cần nghiên cứu nguồn vốn kinh doanh khi quản lý và sử dụng vốn? Câu trả lời là:
- Thứ nhất, vốn luôn được hình thành từ những nguồn nhất định, có những nguồn vốn chung nhưng cũng có những nguồn vốn chỉ dành riêng cho một loại hình doanh nghiệp nào đó. Do vậy, để tạo lập vốn, doanh nghiệp cần tính tới những nguồn tiềm năng có thể huy động.
- Thứ hai, bản chất của việc nghiên cứu nguồn vốn khi quản lý VKD là việc nghiên cứu mối quan hệ của chính sách đầu tư và chính sách tài trợ. Vốn và nguồn vốn cần đảm bảo tính tương thích hay nguyên tắc cân bằng tài chính, tức là, thời hạn của nguồn vốn phải phù hợp với thời gian chuyển hoá tài sản. Thông qua việc xem xét sự biến động của tỷ lệ giữa tổng nguồn vốn dài hạn (nợ dài hạn và nguồn vốn chủ sở hữu) với tổng tài sản dài hạn (TSCĐ và TSLĐ thường xuyên) sẽ đánh giá được mức độ rủi ro cũng như chiến lược tài trợ mà doanh nghiệp đang theo đuổi.
- Thứ ba, mối quan tâm cuối cùng của chủ sở hữu là tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Tỷ suất này không chỉ phụ thuộc vào hiệu quả công tác quản lý vốn cố định (VCĐ) và vốn lưu động (VLĐ) mà còn phụ thuộc vào chi phí huy động vốn. Như vậy, chi phí huy động vốn là một yếu tố quan trọng cần tính đến khi đánh giá hiệu quả của việc quản lý và sử dụng vốn.
- Thứ tư, việc nghiên cứu cách phân loại này giúp chúng ta tính toán được hệ số nợ. Đây là một hệ số rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro tài chính cũng như mức độ phụ thuộc vào bên ngoài của doanh nghiệp.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1.2.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
a) Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
* Chỉ tiêu vòng quay toàn bộ vốn
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ vốn =
VKD bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ, vốn của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng.
* Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
Lợi nhuận trước/ sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận VKD = x 100%
VKD bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ, một trăm đồng vốn bình quân tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước/ sau thuế.
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu = x 100%
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ, một trăm đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra bình quân tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
b) Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định
* Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
VCĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VCĐ bỏ ra tạo nên bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ.
* Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn cố định
Lợi nhuận trước/ sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận VCĐ = x 100%
VCĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ, một trăm đồng VCĐ trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước/ sau thuế.
* Hệ số hao mòn TSCĐ
Số tiền khấu hao luỹ kế
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ tại thời điểm đánh giá
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn TSCĐ của doanh nghiệp so với mức độ đầu tư ban đầu.
* Hệ số trang bị TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Hệ số trang bị TSCĐ =
Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất
* Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSCĐ
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
* Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: Phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng nhóm, từng loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh nghiệp tại thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý của cơ cấu TSCĐ được trang bị trong doanh nghiệp.
c) Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
* Chỉ tiêu vòng quay vốn lưu động
Doanh thu thuần
Vòng quay VLĐ =
VLĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ VLĐ quay được mấy vòng.
* Chỉ tiêu số ngày một vòng quay vốn lưu động
360 ngày
Số ngày một vòng quay VLĐ =
Số vòng quay VLĐ
Chỉ tiêu này phản ánh một vòng quay VLĐ hết bao nhiêu ngày.
* Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động
Lợi nhuận trước/ sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận VLĐ = x 100%
VLĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ, một trăm đồng VLĐ tham gia vào quá trình kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước/ sau thuế.
* Chỉ tiêu kết cấu vốn lưu động: Phản ánh kết cấu của VLĐ theo các tiêu thức phân loại khác nhau. Việc xem xét kết cấu VLĐ nhằm đánh giá mức độ hợp lý của cơ cấu này, từ đó phát hiện những điểm không hợp lý của cơ cấu và có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.
Khi sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VKD chúng ta cần sử dụng một cách kết hợp các chỉ tiêu nhằm đánh giá một cách toàn diện về hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn lực vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một cách tổng quát, hiệu quả sử dụng vốn phụ thuộc vào hai nhân tố:
- Lợi nhuận thu được từ một vòng quay vốn. Về cơ bản, lợi nhuận trên một vòng quay phụ thuộc vào công tác quản lý chi phí và chính sách giá của doanh nghiệp.
- Số vòng quay thực hiện được trong một thời kỳ nhất định. Điều này đòi hỏi vốn cần được lưu thông thông suốt qua các giai đoạn luân chuyển và rút ngắn thời gian ở các khâu của quá trình luân chuyển.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nghĩa là với một lượng vốn nhất định sẽ tạo ra được nhiều doanh thu, lợi nhuận hơn; hoặc doanh thu và lợi nhuận không thay đổi nhưng lượng vốn ứng ra thấp hơn. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là biện pháp quyết định đến việc bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp.
Để đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn, chúng ta cần so sánh các chỉ tiêu tài chính phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp so với các năm trước, so với kế hoạch đề ra, với đối thủ cạnh tranh và so với các chỉ tiêu trung bình của ngành. Cụ thể, khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chúng ta cần dựa trên những chỉ tiêu sau:
- Tính hợp lý của cơ cấu vốn kinh doanh
- Tốc độ luân chuyển và hiệu suất sử dụng vốn và tài sản
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
- Tính hợp lý của cơ cấu tài trợ vốn, chi phí của việc tài trợ vốn
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong điều kiện hiện nay đang trở nên rất bức thiết đối với các doanh nghiệp. Sự cần thiết này xuất phát từ những lý do sau:
- Xuất phát từ vai trò của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn là tiền đề của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu không có vốn thì sẽ không thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, thiếu vốn sẽ gây khó khăn cho sản xuất và dẫn đến giảm hiệu quả sử dụng vốn. Nếu vốn của doanh nghiệp không được bảo toàn và phát triển thì mục tiêu đầu tư vốn sẽ không thực hiện được. Do đó doanh nghiệp cần tìm mọi biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả. Mặt khác, vốn là điều kiện để các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, hạ giá thành, từ đó tăng lợi nhuận.
- Xuất phát từ thực tế hiện nay việc sử dụng vốn ở nhiều doanh nghiệp chưa hiệu quả. Trong thời kỳ bao cấp, mọi nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều được huy động từ hai nguồn cơ bản, cấp phát của ngân sách nhà nước và vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi của ngân hàng. Vốn hầu như được tài trợ toàn bộ, vai trò của tài chính doanh nghiệp trở nên mờ nhạt. Do đó triệt tiêu tính linh hoạt của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, mặc dù nhiều doanh nghiệp thích ứng được, làm ăn có lãi nhưng vẫn còn không ít doanh nghiệp còn sử dụng vốn kém hiệu quả, không bảo toàn được vốn.
- Xuất phát từ ý nghĩa đối với xã hội. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ góp phần tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH
1.3.1.Các nhân tố khách quan
Nhân tố kinh tế: các nhân tố về kinh tế thể hiện các dặc trưng cơ bản của hệ thống kinh tế mà trong đó doanh nghiệp tiến hành các hoạt động SXKD. Nhân tố này bao gồm: tăng trưởng kinh tế, chu kỳ phát triển kinh tế, thu nhập quốc dân, tình hình lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ thất nghiệp, các chính sách tài chính tiền tệ và chính sách thuế của Nhà nước… Các chính sách tài chính, chính sách thuế, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp có tác động lớn đến các quyết định kinh doanh cũng như hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Nếu nền kinh tế lạm phát cao, hoặc Ngân hàng Trung ương điều chỉnh lãi suất, tỷ giá làm cho sức mua của đồng tiền bị giảm sút. Nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các tài sản của mình thì vốn của doanh nghiệp sẽ hao hụt dần theo tốc độ trượt giá của đồng tiền. Mặt khác tỷ lệ lạm phát cao còn làm cho giá cả các yếu tố đầu vào của quá trình SXKD tăng cao gây khó khăn cho doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn thực tế của doanh nghiêp.
Chính sách thuế của Nhà nước sẽ có tác động khuyến khích hay hạn chế hoạt động SXKD của các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực. Thông qua biểu thuế suất sẽ trực tiếp tác động lên chi phí đầu vào, giá đầu ra và cả thu nhập mà doanh nghiệp nhận được. Chính sách thuế hợp lý sẽ tạo điều kiện tiết kiệm, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngược lại, chính sách thuế không phù hợp sẽ có tác động tiêu cực đến hoạt động cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chu kỳ phát triển của nền kinh tế cũng có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng vốn. Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh thì nhu cầu của xã hội tăng mạnh, doanh nghiệp có khả năng huy động được nhiều vốn cho đầu tư mở rộn SXKD, tạo ra nhiều lợi nhuận và do đó cũng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Nhân tố chính trị – pháp lý
Môi trường pháp lý là hệ thống các chủ trương, chính sách, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật tác động đến hoạt động của doanh nghiệp. Hệ thống này quy định rõ doanh nghiệp được phép kinh doanh các gì, kinh doanh như thế nào, quuyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp… Môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo động lực thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp.
Sự ổn định về chính trị, nhất quán trong chủ trương đường lối của Nhà nước là yếu tố tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn cho các nàh đầu tư trong và ngoài nước, tạo sân chơi lành mạnh cho các doanh nghiệp cùng cạnh tranh và phát triển.
Nhân tố khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ (KHCN) là nhân tố quyết định đến trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung và của từng doanhnghiệp nói riêng. Việc áp dụng tiến bộ KHCN vào SXKD giúp hco các doanh nghiệp tang năng suất lao động, giảm chi phí, đáp ứng tốt hơn yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao hơn của khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bên cạnh đó, tốc độ phát triển nhanh của KHCN trong một số trường hợp làm gia tăng hao mòn vô hình, gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn.
Nhân tố tự nhiên
Nhân tố tự nhiên bao gồm toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến hoạt động của doanh nghiệp như nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu thời tiết, địa hình, địa chất. Làm việc trong môi trường thuận lợi làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí và tăng hiệu quả công việc. Tính thời vụ, thiên tai, lũ lụt gây khó khăn cho nhiều doanh nghhiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông lâm thuỷ sản, các doanh nghiệp mà hoạt động chủ yếu diễn ra ở ngoài trời như ngành xây dựng, giao thông, khai thác tài nguyên… Từ đó gián tiếp tác động đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu đầu vào tương ứng.
Các nhân tố khác
Ngoài các nhân tố trên, các yếu tố như văn hoá - xã hội, môi trường cạnh tranh, môi trường hội nhập quốc tế và đặc trưng ngành nghề cũng ảnh hưởng ít nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nhgiệp đều hoạt động trong một môi trường văn hoá - xã hội nhất định. Nguồn lao động và thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là do xã hội cung cấp. Hoạt động SXKD của doanh nghiệp chịu tác động của tập tục truyền thống, lối sống, tư tưởng tôn giáo nhân dân nơi doanh nghiệp hoạt động. Mặt khác, doanh nghiệp càng phát triển, yêu cầu về chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng càng tăng cao, đòi hỏi doanh nghiệp phải mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượgn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí và lợi nhuận cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Ngày nay, các hội nhập kinh tế diễn ra nhanh. Khi các quan hệ quốc tế được mở rộng, các doanh nghiệp có điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp cận với KHCN hiện đại trên thế giới. Đồng thời cũng nâng cao năng lực của doanh nghiệp để cạnh tranh với sản phẩm của các nước xâm nhập vào thị trường nội địa.
Để chủ động ứng phó với các điều kiện thay đổi, tìm ra các giải pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực, khai thác các cơ hội để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm bảo sự phát triển ổn định của doanh nghiệp, các nhà quản lý doanh nghiệp phải nắm rõ và chủ động nghiên cứu ảnh hưởng các nhân tố khách quan đến hiệu quả sử dụng vốn.
1.3.3.2. Các nhân tố chủ quan
Tình hình tài chính của doanh nhgiệp
Tình hình tài chính của doanh nghiệp được phản ánh thông qua: cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn, khả năng thanh toán, tốc độ tăng trưởng, kết quả tài chính của doanh nghiệp. Tình hình tài chính có ảnh hưởng đến mọi mặt trong hoạt động của doanh nghiệp, nó quyết định đến chi phí huy động vốn, khả năng để tiến hành hoạt động SXKD một cách bình thường và liên tục. Nếu xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác sẽ dẫn đến tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn SXKD, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn… Mặt khác, việc xác định cơ cấu đầu tư cũng có tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn… Nếu sử dụng vốn đầu tư vào các tài sản chưa cần sử dụng chiếm tỷ trọng lớn thì không những nó không phát huy được phát huy được tác dụng trong quá trình SXKD mà còn bị hao hụt, mất mát và khấu hao dần làm hiệu quả sử dụng vốn giảm.
Tổ chức quản lý của doanh nghiệp
Tổ chức quản lý doanh nghiệp bao gồm cơ cấu tổ chức quản lý và cơ chế hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp. Tổ chức quản lý doanh nhgiệp là cơ sở để truyền đạt và phối hợp thực hiện các quyết định SXKD, nó tạo ra sự kết hợp giữa các phòng ban, bộ phận trong doanh nghiệp hướng tới các mục tiêu như: nâng cao lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phảm dịch vụ… Doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì không thể xem nhẹ công tác quản lý doanh nghiệp trên các lĩnh vực như: nhân lực, tài chính, sản xuất, marketing.
Khả năng sản xuất của doanh nghiệp
Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả SXKD của doanh nghiệp. Khả năng SXKD của doanh nghiệp thể hiện thông qua: trình độ kỹ thuật quy mô sản xuất, cơ cấu sản phẩm, năng suất lao động… Các nhân tố này ảnh hưởng đến chi phí SXKD, khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường, thời gian hoàn thành sản phẩm cũng như chất lượng sản phẩm. Để tạo ra sản phẩm mới, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phsi, hạ giá thành, doanh nghiệp phải cải tiến và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại, đổi mới công nghệ sản xuất. Có như vậy mới đáp ứng được sự phát triển của thị trường, theo kịp sự phát triển về khoa học cồn nghệ trong ngành.
Hoạt động marketing
Hoạt động marketing làm tăng uy tín, thu hút khách hàng cho doanh nghiệp. Nó định hướng cho quá trình đầu tư và sản xuất của doanh nghiệp đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp. Con người là trung tâm của quá trình SXKD, là yếu tố quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Giá trị mới và lợi nhuận của doanh nghiệp là kết quả lao động sáng tạo của người lao động.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22477.doc